Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đạo sư Du Già

02 Tháng Mười 201200:00(Xem: 21600)
Đạo sư Du Già

ĐẠO SƯ DU GIÀ

Trulshik Adeu Rinpoche
Việt dịch: Pema Jyana


trulshik_adeu_rinpocheDù bạn thực hành theo thừa nào trong ba thừaTiểu thừa, Đại thừa hay Mật thừa – từ thời điểm bạn bước vào cánh cửa giáo lý của Đức Thích Ca Mâu Ni cho tới khi bạn thành tựu Chánh giác, bạn cần sự hỗ trợ của một vị thầy tâm linh để thọ nhận các giáo lý. Biệt giới giải thoát cần phải được trao truyền bởi một bậc thầy sở hữu mười hai phẩm tính của việc tu tập tâm linh theo cấp độ Thanh Văn thừa. Bồ Tát giới được trao truyền bởi bậc trì giữ giới này, người mà dòng tâm thức đã hòa quyện bởi bồ đề tâm và vì thế, xứng đáng truyền giới cho người khác. Giáo lý Kim Cương thừa cần được thọ nhận từ một Kim Cương Đạo sư, bậc đạt được danh hiệu này bằng việc chứng minh một cấp độ chứng ngộ trong các giai đoạn phát triểnhoàn thiện. Chỉ một đạo sư với sự gia trì của truyền thừa mới có thể trao truyền giáoKim Cương thừa. Dù bạn theo đuổi cấp độ thực hành nào, bạn không thể thực sự tiến bộ bằng việc dò dẫm trong đêm tối hay cố gắng tự mình tìm ra. Chỉ cố gắng sử dụng kiến thức để tìm ra con đường giác ngộ là thiếu đi sự gia trì chân chính của truyền thừa.

Ngay bây giờ, bởi chúng ta không thể gặp Đức Phật, chúng ta phải học từ ai đó là đại diện của Phật và giảng dạy điều mà Phật đã thuyết giảng. Từ quan điểm của chúng ta, người như vậy còn từ bi hơn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vì, không như Đức Phật, đây là người mà chúng ta gặp và có thể thọ nhận giáo lý. Bởi thế, trước tiên, bạn cần nhận ra lòng từ ái của vị thầy như là kẻ truyền tin của giáo lý Phật Đà.

Nếu bạn đã bước đi trên con đường Phật Đà bằng việc quy yquyết tâm tiến bộ hướng về việc đạt tới giác ngộ hoàn toàn, việc bước đi một cách mù quáng, tìm kiếm phương hướng bằng sự tình cờ, cũng như theo chân người không biết đường sẽ không đem lại lợi ích gì. Bạn cần một bậc dẫn đường, người đã du hành con đường đó và có thể nói cho bạn cách thức trải qua. Nếu bạn chân thành mong muốn giác ngộ, thì dù cấp độ nào mà bạn muốn thực hành – dù là Tiểu thừa, Đại thừa hay Mật thừa – việc tìm kiếm một vị thầy tâm linh chân chính là rất quan trọng.

Đầu tiên, hãy khéo léo trong việc quán sát vị thầy; thứ hai, hãy khéo léo trong việc theo chân vị thầy; và thứ ba, hãy khéo léo trong việc hòa nhập trạng thái chứng ngộ hay tâm trí tuệ của ngài. Hãy học cách đánh giá cao người mà từ đó bạn nhận các chỉ dẫn. Khi bạn cảm thấy niềm tin tưởng với người này, hãy học cách theo chân ngài. Cuối cùng, hãy thấu triệt hay tu tập trong trạng thái chứng ngộ của vị thầy.

Trước khi theo chân bất kỳ ai, bạn cần quán xét người đó để quyết định liệu rằng họ có thực sự đầy đủ khả năngsở hữu các phẩm tính được miêu tả theo cấp độ Tiểu thừa, Đại thừa hay Mật thừa. Nhưng khi bạn đã quyết định theo chân một vị thầy đặc biệt, không cần thiết phải tiếp tục đánh giá ngài, cố gắng chỉ ra liệu rằng bạn đã lựa chọn đúng không. Thái độ như vậy sẽ chỉ làm ô nhiễm tâm. Thay vào đó, sau khi đánh giá chính xáclựa chọn nương tựa một vị thầy, đơn giản hãy làm như vậy. Hãy nhớ rằng, bạn phải kiểm tra kỹ càng liệu vị thầy đó có đầy đủ phẩm tính, nắm giữ một truyền thừa và nhận được gia trì. Chỉ sau khi tin tưởng những điều này, và cảm thấy rằng bạn thực sự tin tưởng con người này và có thể giữ gìn samaya giới hay những hứa nguyện thanh tịnh với ngài, bạn mới nên thỉnh cầu các giáo lý phù hợp.

Điều gì xảy ra nếu sau đó bạn phát hiện ra bạn đã nhầm, rằng vị thầy không xứng đáng, và rằng ngài đang không dẫn bạn tới giải thoát mà chỉ bạn con đường sai lầm? Kẻ chỉ dẫn người khác theo hướng ngược lại với giải thoát, theo định nghĩa, không phải là một vị thầy tâm linh mà là kẻ đồi bại và không đủ phẩm tính, và bạn không cần phải theo chân một cách mù quáng chỉ bởi vì ban đầu bạn đã chấp nhận họ. Việc đi tìm một vị khác là rất cần thiết. Đặc biệt ngày nay, mọi người tự giới thiệu họ là các vị thầy tâm linh. Nếu tình cờ gặp một trong những lang băm này, bạn nên tránh họ. Mặt khác, nếu bạn đã có một vị thầy chân chính nhưng lại phát triển thái độ sai và phá hủy kết nối với vị đó, điều này giống như từ bỏ Pháp và sẽ mang lại nhiều hậu quả nghiêm trọng.

Bạn không chỉ nên quán sát vị thầy, mà còn nên xem xét bản thân. Thậm chí nếu bạn đã sở hữu thân người quý giá với tám tự do và mười thuận duyên, bạn vẫn cần thành thật về mức độ chí thành của bạn. Hãy quán xét bản thân một cách thành thực. Bạn cần quyết định xem liệu rằng bạn có sẵn lòng nương tựa vị thầy và làm bất cứ điều gì ngài đề xuất không, thay vì chỉ hành xử như thể bạn sẽ làm vậy. Hãy học mọi điều về giới nguyện Thanh Văn thừa, sự tu tập Bồ Tát, các hứa nguyện Mật thừa và những điều mà chúng đòi hỏi. Sau đó, tự hỏi bản thân rằng, “Tôi có sẵn sàng trung thành với chúng không?” Hãy kiểm tra sự xác quyết và lòng quyết tâm cũng như mức độ dũng cảmtinh tấn của bạn. Bạn đã sẵn sàng để trải qua điều này? Khi bạn kết nối với một vị thầy, bạn nên làm theo những chỉ dẫn của ngài. Nếu bạn được bảo phải làm một điều gì đó, bạn đã thực sự sẵn sàng làm thế? Bạn cần quyết định điều này trước, để tránh việc chỉ giả vờ rằng bạn đang bước đi trên con đường tâm linh như được bảo.

Các giáo lý về sự cần thiết của một vị thầy được tìm thấy trong mọi kinh điển Phật giáo; ví dụ, có một câu nói rằng một nghìn vị Phật của hiền kiếp này đều có vị thầy tâm linh của riêng họ. Từ Buddha [Phật] thậm chí không xuất hiện trên thế giới nếu không có các vị thầy tâm linh. Nói cách khác, một vị thầy là vô cùng quan trọng.

Kết nối giữa bạn và bậc thầy tâm linhvô cùng quan trọng. Mối quan hệ giữa bạn với ngài sẽ thúc đẩy hay phá hủy tiến bộ tâm linh của bạn. Thực sự, khi bạn trải qua các thừa, mối quan hệ giữa bạn và vị thầy ngày càng quan trọng hơn. Ví dụ, kết nối của Bồ Tát với một vị thầy thì thâm sâu hơn của Thanh Văn, và nếu bạn muốn bước đi trên con đường Kim Cương thừa, mối quan hệ đó thậm chí còn quan trọng hơn nhiều. Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn. Đây là người phi phàm nhất mà bạn có thể gặp. Đạt tới Phật quả là do sự tu tập trong giác tính tuyệt đối này; và cách thức duy nhất mà bạn kết thúc trong địa ngục của sự dày vò tột bậc là phá hủy kết nối với thầy. Bởi vậy bạn có thể nói rằng nguy hiểm lớn nhất cũng như lợi lạc nhiều nhất tùy thuộc vào con người quan trọng nhất – vị thầy gốc tối thắng của bạn. Điều đó khiến ngài trở thành một người vô cùng đặc biệt.

Khi bạn cảm thấy tin tưởng trong lựa chọn, bước tiếp theo là học cách theo chân vị thầy tâm linh. Đó là điều bạn có thể và cần học một cách cẩn thận. Cách thức hành xử trong mối quan hệ với đạo sư tâm linh được định nghĩa chính xác trong những Kinh điểnMật điển. Cách thức kính ngưỡng, tôn trọng và hành xử khi ở bên vị thầy, cũng như cách thức đối xử với thầy và thỉnh cầu các giáo lý đều được giải thích trong đó. Bạn nên xem xét liệu rằng bạn thực sự đã hòa hợp với những điều này hay chưa và sau đó thay đổi hành vi cho thích hợp.

Như tôi đã đề cập, về một vị thầy, bạn nên khéo léo trong ba điều: đầu tiên, quán xét vị thầy; thứ hai, theo chân vị thầy; và thứ ba, hòa nhập trạng thái chứng ngộ của ngài, tức tâm trí tuệ. Tôi đã đề cập tới điểm đầu tiên. Vậy còn điểm thứ hai?

Theo chân một đạo sư có rất nhiều cách thức: Tốt nhất là thực hànhchứng ngộ; kế đó là phục vụ thầy bằng thân và khẩu của bạn; và tiếp theocúng dường vật chất. Từng cách kính ngưỡng vị thầy này trực tiếp liên quan tới và mang bạn gần hơn với một cấp độ thực hành đặc biệt.

Đức Milarepa được coi là vị yogi vĩ đại nhất của xứ Tạng. Trong một đời, ngài có thể vượt qua vực sâu luân hồi và đạt tới chứng ngộ hoàn toàn. Ngài là tấm gương lớn nhất về một người đã tôn kính đạo sư bằng việc nhất tâm thực hành điều mà thầy đã dạy. Ngài cũng là ví dụ xuất sắc nhất của việc phục vụ đạo sư với thân và khẩu. Ngài tuân theo từng mệnh lệnh của Đức Marpa, không do dự hay thiếu tin tưởng. Dù Marpa lạm dụng hay chửi mắng ngài ra sao, bắt ngài trải qua nhiều thử thách, Milarepa không bao giờ mất niềm tin dù chỉ trong giây lát. Khi ngài bị từ chối, thay vì chống lại Marpa, ngài tự trách bản thân vì chưa đủ phước đức. Mặc dù ngài vô cùng thất vọng, ngài chưa bao giờ thù ghét Đức Marpa. Bởi thế, Milarepa được coi là tấm gương vĩ đại nhất của việc chân thành nương tựa một vị thầy.

Một cách khác để phục vụ đạo sưcúng dường vật chất. Tsang-Yang Gyatso, một đệ tử của Tsoknyi Rinpoche thứ nhất, là tiêu biểu cho trường hợp này. Ngài bắt đầu là một cư sĩ và sau đó trở thành một vị tăng ở tu viện của tôi. Năm 40 tuổi, ngài gặp Tsoknyi Rinpoche. Rất nhiều lần trong đời, ngài đã cúng dường vị thầy mọi đồ vật mà ngài sở hữu, không giữ lại thậm chí một cốc trà hay bộ quần áo dư. Khi ngài tích lũy nhiều tài sản hơn, ngài lại dâng tặng như vậy. Sau ba lần cúng dường tất thảy, vị thầy nói rằng, “Đó là đủ. Con đã hoàn thành việc tích lũy công đức. Ta có thể đảm bảo với con.” Ngài là tấm gương về một người có thể kính ngưỡng vị thầy với những đồ vật vật chất.

Kyobpa Jigten Sumgon, một trong những vị sư tổ của truyền thống Drikung Kagyu, có hàng vạn đệ tử. Một hôm, vài người trong số họ muốn cúng dường đạo sư sự chứng ngộ của họ. Họ không chỉ giải thích cấp độ chứng ngộlần lượt thi triển thần thông trước ngài để minh chứng điều đó. Trong khi đó, đầu bếp của vị thầy nghĩ rằng, “Ta làm việc vất vả trong bếp và không bao giờ có thời gian để thực hành một thời. Tất cả những gì ta từng làm là thức ăn và trà, bởi vậy ta chẳng có gì để trình diễn.” Ông ta ngồi ở đó, đau khổthất vọng. Đạo sư biết được suy nghĩ này và nói rằng, “Này, bếp trưởng, hãy đứng lên! Ta chắc chắn con có gì đó để trình diễn.” Và chắc chắn, khi đầu bếp đứng dậy, ông ấy không chỉ để lại dấu chân trên tường đá, mà còn bay lên. Những người khác phàn nàn, “Thầy ơi! Chúng con đều thực hành trong khi ông ấy chỉ nấu ăn. Làm sao ông ấy có thể thi triển thần thông như vậy mà chẳng thực hành gì?” Đạo sư đáp, “Đừng nghĩ rằng phục vụ bằng thân và khẩu không phải là thực hành. Thực hành thực sự là trung thành và làm theo những ước nguyện của vị thầy theo bất cứ cách nào mà họ có thể. Bởi vậy thậm chí nấu ăn cũng là thực hành. Điều đó giải thích tạo sao sự gia trì chứng ngộ lại chảy vào tâm thức ông ấy.”

Cuối cùng, bạn phải khéo léo trong việc thấu triệt trạng thái chứng ngộ của đạo sư, tức tâm trí tuệ của ngài, suối nguồn của mọi phẩm tính mà vị thầy hiện thân. Bên cạnh thực hànhphục vụ đạo sư, theo chân đạo sư nghĩa là bắt chước ngài theo mọi cách: ganh đua với hành vi của ngài – cách thức ngài đối xử với người khác, thậm chí cách ngài mặc và đi – và cố gắng tạo ra đặc điểm hay đặc tính của ngài. Bây giờ, thấu triệt sự chứng ngộ của đạo sư trước hết là hiểu chính xác thầy là ai. Hãy tìm hiểu xem ngài đã tu học ra sao, nhận các giáo lý, thực hành chúng và phát triển thực hành thế nào; ngài đã có những kinh nghiệmchứng ngộ gì, ngài thành tựu điều gì, và những phẩm tính mà ngài hiển bày là gì, cũng như những đức hạnh cùng sự hoàn hảo của ngài. Bạn cần biết điều gì đó về tất thảy những thứ trên.

Khi bạn biết vị thầy thực sự là ai, hãy so sánh bản thân với từng khía cạnh đó. Khi bạn phát hiện ra đạo sư đã tu tập thế nào và ngài đã học và chứng ngộ điều gì, hãy tự hỏi, “Thực sự tôi đang làm gì và tôi đã làm được gì? Tôi đã nghiên cứu, thực hành, hiểu và chứng ngộ điều gì?” Hãy quán sát bản thân tỉ mỉ khi so sánh với vị thầy. Nếu bạn không làm vậy, bạn có thể nghĩ rằng, “Ồ, ngài là một con người và tôi cũng vậy. Ngài ăn, ngủ và mặc quần áo, và tôi cũng vậy. Cả hai đều có những nhu cầu; chúng ta khá giống nhau. Có lẽ, ngài tốt hơn một chút, nhưng về cơ bản, là như nhau.” Trong dài hạn, chỉ kính ngưỡng là chưa đủ, bởi điều đó sẽ không bao giờ trở thành lòng sùng mộ thâm sâu; lòng sùng mộ là cần thiết bởi vì nó cho phép bạn nhận được gia trì. Thực sự, không có sự gia trì nào ngoài lòng sùng mộ.

Không may là, lòng sùng mộ không đến tự nhiên. Bạn sẽ không thể tự nhiên có một lòng kính ngưỡng thanh tịnh cần thiết với vị thầy. Ngài đơn giản là có thể là người mà bạn yêu quý; vì thế, bạn cần phải hành động để phát khởi lòng sùng mộ. Giống như cần phải khám phá ra tâm là gì để có thể duy trì trong trạng thái tự nhiên, bạn phải biết cách khởi lên cảm xúc sùng mộ chân chính để thọ nhận sự gia trì. Có rất nhiều giáo lý giải thích cách thức phát khởi sùng mộ khi thiếu nó, như là Con đường thâm sâu, một cuốn giáo khoa nổi tiếng của truyền thống Drukpa Kagyu.

Để nhìn nhận vị thầy là Đức Phật thực sự, cần phải quán chiếu về những phẩm tính tối thắng của ngài. Nói cách khác, hãy thực sự hiểu rằng ngài là phi thường. Vị thầy không giống bạn chút nào. Nếu bạn thành thật về nó, thoát khỏi sự giả tạo và lừa dối, bạn sẽ biết bản thân bạn thường là gì: cảm xúc nguy hại nối tiếp nhau. Các uẩn này là dòng chảy không ngừng của ác hạnh. Mặt khác, vị thầy là người đã chứng ngộ con đường đến giác ngộ trọn vẹn. Điểm khác biệt này vô cùng lớn. Nếu bạn chân thành hiểu điều này, lòng sùng mộ chân thực có thể khởi lên và bạn sẽ bắt đầu mong muốn thấu triệt các phẩm tính tương tự. Cần phải thúc đẩy bản thân với mong ướcquyết tâm mạnh mẽ rằng bạn sẽ làm theo tấm gương của vị thầy và đạt tới cấp độ tương tự. Đây là điểm vô cùng quan trọng.

Bởi vậy, nếu thiếu đi lòng sùng mộ, cần phải tạo ra nó. Sau đó, khi bạn thực sự nhận thấy những phẩm tính của lạt ma, lòng sùng mộ không giả tạo sẽ tự khởi lên. Để đạt tới cấp độ của vị thầy, trước hết, bạn cần lòng sùng mộ. Nếu ban đầu, bạn chưa có lòng sùng mộ, hãy phát triển nó. Khi bạn đã tu tập trong lòng sùng mộ và cảm thấy nó, việc bạn thực hành kiểu Đạo sư Du già nào không thành vấn đề. Nó có thể là một bản mở rộng hay cô đọng, nhưng trong trường hợp nào, nếu bạn thiếu đi lòng sùng mộ, sự gia trì của Pháp sẽ không bao giờ chảy tới tâm thức bạn.

Người ta nói rằng nếu bạn thấy vị thầy là một con người, thì khi nhận cam lồ từ bình, bạn sẽ chỉ nhận được nước, không gì khác. Nếu bạn thấy vị thầy là một người bình phàm, bạn sẽ chỉ đạt được trạng thái của một người bình phàm. Tuy nhiên, nếu bạn có thể thấy vị thầy là Phật, bạn có thể trở thành Phật. Nếu bạn thấy vị thầy là một thành tựu giả, bạn có thể trở thành một thành tựu giả. Cấp độ bạn có thể đạt được là bất cứ cấp độ nào mà bạn nhìn nhận đạo sư.

Khi tôi ở trong nhà tù Trung Quốc, tôi gặp một vị geshe tên là Gyamtso. Ngài là đệ tử của một quý thầy từ Drepung, Drayu Dorje Chang, vị đạo sư trì giữ truyền thừa Gelug quan trọng nhất vào thời của ngài. Mọi người từ Sera, Drepung và Ganden thọ nhận quán đảnhgiáo lý từ ngài. Gyamtso đã học rất nhiều từ vị thầy này. Ông ấy kể với tôi câu chuyện sau đây. Drayu Dorje Chang đang thuyết Pháp cho một tập hội các vị lạt ma tái sinh, geshenhà sư cao cấp ở Drepung, một trong những tu viện Gelug vĩ đại nhất ở miền trung Tây Tạng.

Ngài nói, “Hôm nay, ta có vài điều quan trọng muốn hỏi các con và ta muốn các con thành thật với ta. Các con sẽ trả lời chân thành chứ?” Ngài chắp hai tay và mọi người băn ngoăn ngài sẽ hỏi điều gì. Sau đó ngài tiếp tục, “Ở vùng đất tuyết Tây Tạng này, bốn truyền thống của giáo lý Phật Đà – Gelug, Kagyu, Sakya và Nyingma – đều bình đẳng, và tất thảy đều nương tựa cùng một vị thầy, Phật Thích Ca Mâu Ni. Không có điểm khác biệt; chắc chắn vậy. Từng truyền thống đều sở hữu trọn vẹn con đường Kinh điểnMật điển cùng những phương pháp để đạt tới giác ngộ hoàn toàn. Chúng đều bình đẳng – cũng không có điểm khác biệt. Nhưng lần cuối cùng ai đó trong truyền thừa của chúng ta đạt tới một cõi linh thánh (đi tới cõi Tịnh Độ trong thân vật lý) là rất lâu trước đây.” Vị thầy đề cập tới một đạo sư Kadam thời cổ. “Kể từ đó, ta chưa từng nghe thấy điều đó xảy ra trong truyền thừa Gelug. Dường như đó là một sự kiện vô cùng hiếm. Nhưng trong truyền thống Kagyu và Nyingma, thậm chí ngày nay vẫn có những câu chuyện về các vị đạt được thân cầu vồng hay đi thẳng tới Phật Quốc trong thân vật lý. Vậy hãy thành thật nói với ta, nếu chúng ta có cùng giáo lý và cùng đi theo một vị thầy, tại sao vài truyền thống thì có nhiều hơn những thành tựu có thể nhìn thấy và số khác thì ít hơn? Điểm khác biệt là gì?”

Ngài chắp tay và nhìn vào mọi người, chờ đợi một câu trả lời, nhưng không ai nói gì.

Sau một hồi, Drayu Dorje Chang tiếp tục, “Tốt thôi, nếu các con không nói điều gì, ta có thể đề xuất một câu trả lời và sau đó, ít nhất các con có thể nói liệu ta đúng không?”

Lại có một khoảng tĩnh lặng. Sau đó, ngài trích dẫn hai dòng từ một Mật điển tên là Togpa Dunpa:[1] “Một người đơn giản với niềm tin sẽ tiến gần hơn giác ngộ, trong khi một người thông minh xem xét tỉ mỉ sẽ không đạt được gì.” Kế đó ngài nói, “Như ta hiểu điều này, dù con hiểu thế nào, sự tin tưởng hay niềm tín tâm là nhân tố quyết định cho tất thảy những thành tựu mà các con thấy trong truyền thừa Kagyu và Nyingma. Đó là bởi họ nhấn mạnh Đạo sư Du già như là thực hành quan trọng nhất, cánh cửa quan trọng dẫn tới chứng ngộ. Bằng cách khẩn nguyện, phát khởi lòng sùng mộ và nhận sự gia trì, họ đạt được chứng ngộ. Theo ngu kiến của ta, đó là lý do tại sao truyền thừa Kagyu và Nyingma có nhiều hành giả chứng ngộ đến vậy. Các con nghĩ sao?” Một lần nữa, không ai nói gì.

Gyamtso kể với tôi câu chuyện này để minh chứng cho các phẩm tính phi phàm của Đạo sư Du già.

Trong trước tác của những vị sư tổ của Drukpa Kagyu như Gotsangpa, Lorepa, Yangonpa, Barwa và nhiều vị khác, bạn sẽ tìm thấy câu nói rằng lòng sùng mộ giản nhất tâmvô cùng quan trọng. Các ngài nhấn mạnh vào cách thức khởi lên lòng sùng mộ và sau đó, khi lòng sùng mộ đã xuất hiện, cách thức ổn định nó. Cuối cùng, có những giáo lý về cách thức đạt được chứng ngộ bằng lòng sùng mộ vững bềnthực hành Đạo sư Du già.

Để bắt đầu tu học Đạo sư Du già, trước tiên bạn cần kiểm tra bản thân xem bạn đã có lòng sùng mộ chưa. Sau đó, bạn cần học cách khởi lên lòng sùng mộ trong trái tim và vun bồi nó. Kế đó, dần dần, khi bạn tu tập tinh tấn hơn, bạn sẽ nhận được sức mạnh từ ái của sự gia trì thực sự. Trong tất thảy các giáo lý Kim Cương thừa, bạn sẽ thấy rằng Đạo sư Du già được coi là thực hành quan trọng nhất. Phát triển lòng sùng mộ thông qua Đạo sư Du già là đủ, nhưng không có nó, không con đường nào đem tới thành công.

Như tôi đã nói, mặc dù chúng ta đã kết nối với một vị thầy tâm linh, nếu chúng ta nhìn vào bản thân một cách thành thật, chúng ta phải thừa nhận rằng bản thân chỉ là những kẻ phàm phu. Chúng ta cần một sự tịnh hóa, và cách thức để cải thiệntrưởng dưỡng bản tân là trải qua những tu tập nhất định nhờ đó chúng ta phát triển ý muốn thoát khỏi luân hồi. Tùy theo căn cơ, chúng ta hoặc hướng tới các cõi giới cao hơn luân hồi, sự tốt lành chắc chắn của giải thoát hoặc giác ngộ hoàn toàn.

Cách thức để phát triển hạnh xả ly chân chính được miêu tả trong phần lớn các bản văn, bao gồm Ánh sáng Trí tuệChỉ dẫn Trọng yếu về Sự hoàn hảo Ba phần.[2] Hãy bắt đầu bằng bốn niệm chuyển tâm, điều bao gồm các thực hành dự bị chung. Sau đó, hãy tu tập các Pháp tu dự bị riêng, quy y, phát bồ đề tâm, và tương tự. Những bài tụng khác nhau được sử dụng tùy theo truyền thống, tuy nhiên, nội dung và ý nghĩa là như nhau dù Pháp tu dự bị thuộc Cựu Dịch hay Tân Dịch. Hãy sử dụng bản văn mà bạn được trao bởi vị thầy của bạn. Điểm then chốtthực hànhtinh tấn trong việc biến bản thân trở thành bình chứa thích hợp cho giáo lý. Mọi truyền thừa Phật giáo giảng dạy một dạng thực hành Đạo sư Du già. Đôi khi, nó được coi là thực hành dự bị, đôi lúc là thực hành chính yếu, nhưng dù theo kiểu nào, nó luôn là cánh cửa dẫn tới sự gia trì, quán đảnh và nhiều điều khác. Đạo sư Du giàthực hành phổ quát.

Phần thực hành chính yếu đơn giản là sự mở rộng của thực hành dự bị. Điều này đúng với các thực hành dự bị chung của bốn niệm chuyển tâmthực hành dự bị phi thường, gọi là ngondro. Các thực hành dự bị là nền tảng chung của mọi truyền thống; dù Nyingma hay Sarma, không có điểm khác biệt. Chính sự thấu suốt bạn đạt được nhờ các thực hành này là thứ trở thành thực hành chính yếu, và chính trong thực hành dự bị, Đạo sư Du già cũng được tìm thấy trong hình thức ngắn gọn, đơn giản.

Đạo sư Du già mở ra cánh cửa của sự gia trì. Không thể chứng ngộ mà không có gia trì, không thể có sự gia trì mà không có lòng sùng mộ, và không thể có sùng mộ mà không có khẩn nguyện. tuy nhiên, khẩn nguyện không đơn giản là việc trì tụng, mà nó đến từ sâu thẳm trong tim bạn. Khi lòng sùng mộ ở sâu kín trong tim, bạn nhận được sự gia trì và nhận được gia trì khiến chứng ngộ xuất hiện. Đây là mục đích của Đạo sư Du già.

Truyền thống Nyingma và Sarma có rất nhiều thực hành Đạo sư Du già với độ dài khác nhau. Hãy nhìn nó theo cách này: khi bạn thưởng thức mật mía, dù nhiều hay ít, nó vẫn có vị ngọt. Giống như vậy, dù thực hành là dài hay ngắn, điểm trọng yếu vẫn như vậy: để thọ nhận lực gia trì.

Cũng cần chú ý rằng trong thực hành yidam, vị thầy trong hình tướng của một bổn tôn đặc biệt. Người ta nói rằng bằng việc thành tựu một Đấng Thiện Thệ, mọi vị Phật cũng sẽ được chứng ngộ. Nói cách khác, nếu bạn chứng ngộ một vị thầy, bạn sẽ thành tựu tất thảy chư Phật. Điều đó giống như ngài Liên Hoa Sinh từng nói trong kho tàng ẩn mật Barchey Kunsel, “Nếu con chứng ngộ ta, con sẽ chứng ngộ tất thảy chư Phật. Nếu con nhìn thấy ta, con sẽ nhìn thấy tất thảy chư Phật.” Tức là, bạn sẽ thực sự gặp tất thảy chư Phật. Bạn có thể chứng ngộ tất thảy các bậc giác ngộ, mọi yidam bằng việc chứng ngộ một vị duy nhất.

Một cách tự nhiên, chứng ngộ của đạo sư cũng là chứng ngộ của yidam, như được minh chứng trong câu chuyện từ tiểu sử của ngài Marpa. Đức Naropa từng hiển bày mạn-đà-la Hevajra rõ ràng đến mức Marpa có thể thấy nhân vật trung tâm xuất hiện trong chánh điện. Sau đó, ngài hỏi Đức Marpa, “Bây giờ, con muốn nhận gia trì, bản chất của thành tựu từ ai hơn – ta hay yidam?” Marpa nghĩ, “Ta luôn ở bên thầy, nhưng gặp yidam thực sự là cơ hội hiếm có.” Bởi vậy, ngài lễ lạy trước điện thờ. Kế đó, Naropa làm tan biến bổn tôn Hevajra trở về trung tâm trái tim và nói, “Bây giờ con sẽ lễ lạy ai?” Câu chuyện này cho thấy rằng từng vị bổn tôn thiền định đều là sự hiển bày của đạo sư. Và hãy nhớ rằng bạn không thể nhận được nhiều hơn sự gia trì từ thực hành mở rộng và ít hơn từ thực hành giản lược. Trong cả hai trường hợp, gia trì là như nhau – nó tùy thuộc vào sự chân thành và mức độ sùng mộ của bạn.

Ngài Tilopa từng nói với Naropa rằng mọi thứ đều nằm trong nghi quỹ đạo sư, thậm chí xua tan chướng ngạithúc đẩy sự tăng trưởng. Tổ Tilopa nói rằng, “Khi khẩn nguyện, hãy hòa nhập đối tượng, ý nghĩbản chất thành một.” Đối tượng ở đây liên quan tới đối tượng tối thắng, vị thầy gốc. Ý nghĩ là mong muốn hoàn thành mọi điều mà vị thầy chỉ dẫn. Mong muốn tinh tấn này là thái độ dũng cảm để tiếp tục thực hànhvấn đề gì xảy ra. Cuối cùng, bản chấttrạng thái chứng ngộhành vi mà vị thầy đại diện, điều cần được thấu triệt vào tâm thức của bạn. Một cách tuyệt đối, nhờ việc chứng ngộ tâm đạo sư, sự hiển bày của giác tính nguyên sơ, bạn thực sự sẽ hòa tâm của thầy với tâm bạn.

Lời khuyên phổ biếnnghiên cứu càng nhiều càng tốt. Nhưng khi kết hợp mọi thứ vào thực hành, hãy cô đọng nó thành ba nguyên tắc này. Đầu tiên, hãy khéo léo trong việc quán sát vị thầy; sau đó, hãy khéo léo trong việc theo chân vị thầy; và cuối cùng, hãy khéo léo trong việc thấu triệt sự chứng ngộ của vị thầy. Mọi cấp độ khác nhau của Đạo Phật đều đề xuất việc bao trọn mọi thứ trong một thực hành. Sau đây là một câu chuyện về điều này.

Dòng truyền thừa tái sinh của tôi cũng được gọi là Trulshik. Vị Trulshik thứ 3 thường trì tụng lời khẩn nguyện đến vị thầy vì mọi mục đích. Lời cầu nguyện bắt đầu như sau, “Mọi hữu tình chúng sinh, vô số những người mẹ của con, khẩn cầu Hóa thân Đạo sư,” và tiếp tục với bốn thân. Nếu vị lạt ma này được thỉnh cầu đến nhà ai đó để tiến hành powa gần thi thể người quá cố, ngài sẽ đến đó, đặt tay lên đầu tử thi và trì tụng bốn dòng này. Sau khi ngài trì tụng chúng ba hay bốn lần, sẽ có một vài dấu hiệu có thể nhìn thấy. Ví dụ, người ta thấy cầu vồng chiếu tỏa từ thân.

Ngài sẽ trì tụng tương tự cho các mục đích khác. Một mùa thu, ngài cùng đệ tử đi khất thực, nhưng họ chạm trán một băng cướp, những kẻ lấy mọi thứ của họ, bao gồm cả mấy con vật thồ hàng. Vị thầy phản ứng thế nào? Ngài trì tụng lời khẩn nguyện đến vị thầy, “Mọi hữu tình chúng sinh, vô số những người mẹ của con, khẩn cầu Hóa thân Đạo sư …” Các đệ tử khá thất vọngcằn nhằn sau lưng ngài, “Thầy không bao giờ trì tụng điều gì khác. Có lẽ thầy không biết lời nguyện khác.” Dẫu sao, sáng hôm sau, trước sự ngạc nhiên của mọi người, lũ cướp quay trở lại và trả mọi thứ. Dường như khi họ đang nấu một phần của lũ súc vật, họ nhìn vào trong nồi và đột nhiên không thấy gì khác ngoài nước. Không có một chút thịt nào. Những điều kỳ lạ khác đã xảy ra và họ rất sợ hãi, nghĩ rằng, “Hãy đợi một chút! Có lẽ chúng ta đã lấy cắp của vị lạt ma!” Bởi vậy họ đến và trả lại mọi thứ, nói rằng, “Hãy nhận lấy – chúng tôi không muốn chúng nữa!” Sau đó các đệ tử bảo rằng, “Vị lạt ma của chúng tôi chỉ biết một bài tụng, nhưng ít nhất nó đã hiệu quả!”

Thực sự, vị lạt ma này đã làm chủ hoàn toàn và việc ngài trì tụng gì cũng không hề ảnh hưởngDựa trên Đạo sư Du già, từ trong tâm trí tuệ, trạng thái chứng ngộ của ngài, ngài có thể tiến hành mọi hoạt động. Ngài không phải thực hiện các thực hành riêng biệt cho từng mục đích khác nhau.

Đây cũng là điều mà Đức Gyalwa Yangonpa, một vị tổ sư của truyền thống Drukpa Kagyu từng nói, “Trong tất thảy các thực hành khác nhau mà ta đã dạy con, chỉ có một thực hành phục vụ mọi mục đích. Ta có thể đảm bảo thực hành đó: Đạo sư Du già.” Mọi thứ có thể nằm trọn trong thực hành này – mọi khía cạnh của giai đoạn phát triểnhoàn thiện, cũng như các Pháp du già của Kinh mạch, năng lượng và giọt tinh chất.

Có nhiều cách khác nhau để thực hành Đạo sư Du già. Có một cách nhằm thành tựu Đạo sư theo cấp độ Hóa thân, theo Báo thânPháp thân, cuối cùng thân tinh túy, Tự tính thân. Ví dụ, trong truyền thống terma của ngài Ratna Lingpa và Con đường thâm sâu của Drukpa Kagyu, khi người ta thực hành bốn cấp độ của Đạo sư Du già, các thực hành du già tinh tế thuộc cấp độ Báo thân. Thêm vào đó, trong truyền thống Drukpa Kagyu của chúng ta, có một bộ giáo lý gọi là Năm Ấn Mệnh lệnh. Đây là tri kiến Đại thủ ấn, thiền định Sáu Giáo lý của Naropa, hành động là Pháp vị bình đẳng, kết quả hiển bày như sự kiện tốt lành và kế đó là Đạo sư Du già vô cùng quan trọng.

Thực hành Đạo sư Du già là như nhau trong mọi truyền thống. Người ta bắt đầu với phương pháp bên ngoài của việc chứng ngộ đạo sư thông qua nghi quỹ đạo sư, tức là kính lễ bằng việc lễ lạy, cúng dường như cúng dường mạn-đà-la, và nhiều cách thức khác nhau để tích lũy. Kế đó, có thực hành bên trong của Đạo sư Du già với Tam Căn bản như là nguyên tắc đạo sư. Ở đây vị thầy là hiện thân của tinh túy Tam BảoTam Căn bản, lạt ma, bổn tôn thiền địnhhộ pháp hay Dakini. Sau đó đến thực hành bí mật, trong đó điểm chủ yếu là xem yidam về bản chất là vị thầy. Tiếp theo yidam và trì tụng thần chú được sử dụng để chứng ngộ tâm vị thầy.

nghi quỹ là dài hay ngắn, nó luôn luôn bao gồm sự gia trì trong hình tướng bốn quán đảnh. Quán đảnh, trong tiếng Phạn là abhisheka, nghĩa là “xua tan và ban phước,” trong nhận thức về sự tịnh hóa các che chướng của vô minh và trở nên thấm nhuần những phẩm tính giác ngộ. Đó là tất cả những gì mà nó trao truyền. Điều mà bạn trì tụng cho phần này cũng có thể giản lược hay mở rộng, nhưng bạn vẫn quán tưởng như vậy: Bạn tưởng tượng rằng bốn cấp độ che chướng được tiêu trừ và bạn nhận bốn quán đảnh cho phép bạn thực hành bốn cấp độ của con đường và gieo hạt giống của kết quả tối thắng, tức bốn thân trong dòng tâm thức.

Hãy hiểu rằng dù bạn trì tụng hay quán tưởng, điểm trọng yếu của Đạo sư Du giàtu tập việc thọ nhận bốn quán đảnh lặp lại vào cuối thời công phu. Đây là cánh cửa đón nhận sự gia trì cho những giáo lý phi thườngđặc biệt. Sau các quán đảnh, theo kiểu này hay kiểu khác, các bản văn nói rằng, “Bây giờ an trú trong trạng thái mà tâm vị thầy và tâm bạn bất khả phân.” “An trú” ở đây nghĩa là gì? Nếu bạn là một người mới, một người không biết tâm vị thầy là gì, thì hãy làm như Đạo sư Karma Chagmey hướng dẫn: “Chỉ tưởng tượng bất cứ điều gì là tâm của vị thầy cũng là của bạn. Không nhiều hơn hay ít hơn, như thể bạn đúc ra từ cùng một khuôn. Trạng thái tâm của bạn giống hệt vị thầy.” Hãy cảm thấy tin tưởng rằng tâm của thầy và tâm bạn bây giờ là một.

Nếu bạn đã được giới thiệu đến trạng thái rigpa thì bạn có thể có một kiểu tin tưởng khác. Một mặt, có tâm của thầy, điều giống như của Pháp thân Phổ Hiền, và mặt khác, có Phật tính của chính bạn, thứ hiện hữu như bản tính nền tảng của tâm bạn. Hai điều này không khác biệt ở bất kỳ điểm nào. Giống như hư không hòa quyện cùng hư không, tâm bạn hòa nhập với tâm vị thầy, để trở thành bất khả phân, cùng một vị. Hãy tin tưởng rằng tâm chứng ngộ của bạn và của thầy là không khác biệt. Sau đó, hãy an trú trong sự thư thái.

Vào lúc này, có hai lựa chọn: bạn có thể tưởng tượng hoặc toàn thể thân bạn tan biến vào vị thầy hoặc bạn bây giờ đã sở hữu mọi phẩm tính giác ngộ mà vị thầy sở hữu, không một ngoại lệ. Dù bạn tưởng tượng trạng thái bình thường của bản thân tan hòa vào trí tuệ tuyệt đối, hay trí tuệ tuyệt đối đó được chuyển biến vào tâm thức bạn, tức sự trao truyền cuối cùng, để bạn có thể chứng ngộ trạng thái tâm của đạo sư là bất khả phân với bạn, cả hai cách đều tốt.

Cần phải nhấn mạnh rằng, đầu tiên bạn nhận bốn quán đảnh và sau đó hòa tâm với vị thầy và an trú trong sự thư tháihoàn toàn buông bỏ. Hãy thực hành bất cứ phương pháp nào mà bạn biết rõ nhất, nó là vấn đề của từng cá nhân; nhưng dù bạn làm gì, hãy tin tưởng rằng bạn đã thọ nhận tất thảy sự gia trì, và sau đó an trú trong trạng thái đó.

Khi bạn tiến bộ trên con đường, lòng sùng mộ của bạn cần trở nên vững chắc như sự ổn định của bạn trong giác tính tự sinh khởi. Theo Paltrul Rinpoche, “Để đánh giá mức độ chứng ngộ của con, dĩ nhiên con có thể đến và dâng tặng nó như một món cúng dường lên đạo sư, nhưng điều đó thường không cần thiết. Thay vào đó, con có thể là kẻ đánh giá của bản thâncúng dường sự chứng ngộ cho bản thân. Hãy xác nhận nó theo cách đơn giản này: khi con trải qua việc tu tập trong sự an bình của giác tính, nếu con nhận ra bản thânniềm tin và sùng mộ nhiều hơn, từ bi nhiều hơn, ít bám chấp và từ bỏ nhiều hơn, … thì ta chắc chắn con đang đi đúng hướng. Tuy nhiên, nếu con nhận ra rằng bản thân nhạy cảm hơn, rằng con không tin tưởng bất cứ đạo sư nào mà con gặp, rằng con càng dành nhiều thời gian bên thầy, con càng ít đánh giá cao ngài, con không quan tâm liệu rằng hữu tình chúng sinh khổ đau hay không và rằng con tàn nhẫn và lạnh lùng hơn, thì ta đảm bảo con đang đi sai đường. Thiền định khi tiếp tục sai đường sẽ chẳng mang lại lợi lạc gì, bởi nó không phải là nguồn gốc của giác ngộ. Đây là cách mà con xem xét liệu rằng thực hành có đúng không. Tóm lại, lòng sùng mộ và từ bi tăng lên khi sự ổn định trong rigpa được cải thiện.”

Cuối cùng, “vị thầy gốc” thực sự nghĩa là gì? Bất kỳ ai mà bạn thọ nhận giáo lý là vị thầy gốc đặc biệt cho giáo lý đó. Ví dụ, nếu bạn thọ nhận những chi tiết của giai đoạn phát triểnhoàn thiện về một yidam từ một vị thầy đặc biệt, ngài là vị thầy gốc của bạn cho thực hành yidam đó. Tuy nhiên, vị thầy gốc tuyệt đối là người ban cho bạn chỉ dẫn mở-ra để bạn nhận ra trạng thái của tâm. Người đó là vị thầy gốc thực sự bởi ngài đã dạy bạn cách thức đạt được chứng ngộ hoàn toàn.

Dù bạn thực hành nghi quỹ đạo sư ở cấp độ bên ngoài, bên trong hay bí mật, hoặc theo kiểu tối thắng của sự đơn giản, bạn nên giữ mục tiêu – sự trải rộng của giác tính trần trụi – rõ ràng trong tâm. Nói cách khác, dù bạn gọi thực hànhĐại thủ ấn hay Đại toàn thiện, và dù bạn ở cấp độ nào, bạn vẫn phải hướng đến cùng mục tiêu. Tâm của vị thầy đã thực sự chứng ngộ rigpa, là trạng thái của tâm mà bạn sẽ hòa quyện. Vị thầy là phương tiện để đạt tới chứng ngộ rằng tâm của thầy và tâm bạn về bản chất là bất khả phân. Đây là Đạo sư Du già tối thắng được giảng dạy trong mọi truyền thống khác nhau.

Nghi quỹ Đạo sư Tối thắng của Sự Đơn giản của ngài Tulku Urgyen Rinpoche thuộc về kiểu Đạo sư Du già đó. Nó là cách thức chứng ngộ cấp độ Pháp thân của việc hòa nhập tâm vị thầy với tâm của bạn. Theo cách đó, nó giống như Tigle Gyachen,[3] cấp độ thực hành vô song bí mật trong truyền thống Nyingtig. Có rất nhiều thực hành tương tự, và chúng đều bình đẳng trong việc nhận ra rằng trạng thái giác ngộ mà vị thầy chứng ngộtrạng thái ripga của riêng bạn là không hề khác biệt. Tu tập trong trạng thái rigpaĐạo sư Du già tối thắng, Đạo sư Du già thực sự.

 

Trích: Tự do trong tù đầy, Trulshik Adeu Rinpoche.

Việt dịch: Pema Jyana.



[1] Bảy Ý niệm hay Bảy Câu hỏi, mật điển gốc của Bhairava.

[2] Ánh sáng Trí tuệ (NXB Rangjung Yeshe), Ân phước thiện xảo – Chỉ dẫn trọng yếu về sự hoàn hảo ba phần (NXB Rangjung Yeshe).

[3] Cụm từ “cúng dường sự chứng ngộ” liên quan đến truyền thống miêu tả kinh nghiệm về trạng thái tự nhiên (rigpa) lên một đạo sư thiền định để ngài có thể xác nhận nó. Khi nhận được sự chấp thuận, người ta đến thực hành chính yếu của việc rèn luyện trong rigpa để đạt sự ổn định.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14125)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39670)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15282)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13826)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13891)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37283)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40014)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14610)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14298)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12634)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14806)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19194)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13773)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42581)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13804)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37202)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12643)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11738)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22519)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12473)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12532)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13008)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13077)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17233)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33186)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14814)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11018)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12415)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11932)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11906)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13103)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51197)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12356)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6590)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30369)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13098)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13289)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30639)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19316)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12464)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11817)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14741)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13171)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13173)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30640)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12005)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11803)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12690)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31847)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29364)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11763)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11711)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10395)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11526)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9605)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9619)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9925)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35365)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10121)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10074)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10019)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9622)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27772)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15455)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9822)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13640)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9820)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9668)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18273)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12023)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9537)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9655)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8674)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8883)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8378)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11440)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31666)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12305)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13285)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8797)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9410)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11904)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9193)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9047)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9636)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29301)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9048)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9066)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33189)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8407)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30551)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31182)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37054)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32216)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9901)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27024)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8420)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19202)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12981)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9738)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant