Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực hành kèm theo

10 Tháng Mười 201200:00(Xem: 19410)
Thực hành kèm theo

THỰC HÀNH KÈM THEO

Trulshik Adeu Rinpoche
Việt dịch: Pema Jyana


trulshik_adeu_rinpoche-03Mục đích của thời công phu đầu tiên trong ngày là tạo ra nhận thức mạnh mẽ về lòng sùng mộ và hạnh xả ly. Bạn tập trung vào vị thầy, khẩn cầu và tan biến vị thầy vào bản thân. Tiêu chuẩn của lòng sùng mộ là gì. Đó là khi những giọt nước mắt chảy từ đôi mắt bạn và tóc trên người bạn dựng đứng và bạn thực sự cảm thấy niềm tin tưởng lớn lao từ sâu thẳm bên trong. Giống như vậy, với hạnh xả ly, hãy trải qua những quán chiếu khác nhau, bắt đầu với các suy ngẫm về sự quý giá của thân người này. Hãy nghĩ về nguyên nhân của cơ hội nghiên cứuthực hành Phật Pháp này, nó quý giá và hiếm có thế nào. Hãy quán chiếu nhiều lần cho đến khi bạn trở nên quen với lối suy nghĩ đó và nó trở thành đặc tính thứ hai của bạn. Chỉ khi bạn thực sự cảm thấy thế và chân thành nghĩ rằng, “Tôi sẽ không lãng phí thời gian; đây thực sự là một cơ hội vô cùng quý giá,” bạn mới có thể nói rằng bạn đã hoàn thành thành công quán chiếu này.

Sau đó, không lãng phí một chút thời gian nào, bạn nên tiếp tục với quán chiếu về cái chết và vô thường. Thời gian dần trôi qua, bởi vậy không trở nên xao lãng và trước khi bước sang phần tiếp theo, nghiệp và luật nhân quả, bạn nên quán chiếu kỹ càng từng điều trong bốn niệm chuyển tâm cho đến khi phát huy tác dụng và kết quả thực sự sinh khởi trong tâm bạn.[1]

Khi bạn thực sự trải qua bốn quán chiếu này, bạn cần sợ hãi về việc sẽ kết thúc trong các cõi thấp hơn. Hãy tưởng tượng bạn đang ở đó, trong một cõi địa ngục. “Sẽ thế nào nếu tôi phát hiện ra bản thân đang ở đó? Sẽ khổ đau thế nào nếu chịu đau khổ của loài ngạ quỷ?” Hãy tưởng tượng bạn sẽ ra sao nếu là một con côn trùng hay động vật bị ăn thịt bởi kẻ khác, đau đớn vì đói, bị đánh đập, nô dịch hay bị giết thịt. Hãy thực sự tưởng tượng bạn trong hoàn cảnh như vậy. Bạn nên thực sự cảm thấy đau đớn và khổ đau, để bạn có một nhận thức rõ ràng về việc “Tôi muốn tự do. Tôi không muốn kết thúc trong tình trạng như vậy.” Chỉ khi đó bạn mới nên tiếp tục chuyển sang thực hành kế tiếp, tức là quy y với hạnh xả ly chân chính, nghĩa là ý muốn giải thoát.

Hãy trì tụng lời nguyện quy y từ sâu thẳm con tim. Chỉ khi nó thực sự phát huy tác dụng, bạn mới nên tiếp tục với Bồ Tát giới. Đầu tiên là bồ đề tâm nguyện và sau đó bồ đề tâm hạnh. Hãy tiếp tục với thực hành này cho đến khi nó trở thành lòng từ bi chân thành, được cảm nhận sâu sắc, lòng từ ái và tâm bồ đề.

Khi tôi còn trẻ, tôi đã trải qua những điều này và một vài trong số những vị thầy của tôi bắt tôi dành mười ngày cho từng quán chiếu. Giống như khi nó được tiến hành trong sự tách biệt của luân hồiniết bàn, được biết tới là khordey rushen, tôi thực sự trải qua từng cõi giới. Tôi sẽ tưởng tượng rằng tôi đang ở một trong những cõi giới thấp hơn với sự sống động mà nó dường như là thật, không phải chỉ là một ý tưởng. Khi bạn thực sự hòa nhập quán chiếu này vào bản thân và bước sang giai đoạn tiếp theo, thì khi bắt đầu một thời công phu, bạn chỉ cần dành một chút thời gian cho những phần trước đó.

Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định. Truyền thống là người ta nên thực hành từng điều này cho đến khi các dấu hiệu nhất định xuất hiện, và sau đó họ mới chuyển sang bước tiếp theo. Nói cách khác, từng thực hành có dấu hiệu nhất định để xác định sự tu tập, như là sự chân thành, hạnh xả ly thực sự, lòng sùng mộ, từ bitương tự. Đó là cách mà nó được thực hành trong quá khứ, và cách mà tôi đã thực hành khi còn trẻ.

Thực hành shamatha là việc điều phục tâm hoang dã, thứ cần phải được kiểm soát. Khi tâm được kiểm soát, nó duy trì sự an bình. Tuy nhiên, với thực hành shamatha, tâm không biết chính nó, nó chỉ giam hãm, bởi vậy nó không thể bay nhảy theo cách này hay cách khác. Tu tập shamatha nghĩa là phát triển thiền định, ba la mật thứ năm, điều lại có hai khía cạnh: có hỗ trợ và không hỗ trợ.

Một thực hành như vậy là thiền định về một hỗ trợ hoàn hảo, như là thân tướng của Đức Phật hay Độ Mẫu (Tara). Để làm vậy bạn đặt một bức tượng hay bức hình ngay trước mặt, sau đó đơn giản tập trung sự chú ý vào đó để không bị xao lãng. Bây giờ bạn có một điểm tham chiếu để dễ dàng biết khi nào tâm đi lang thang; và khi đó, bạn đơn giản lại tập trung vào bức tượng hay bức hình. Hỗ trợ không nhất thiết phải là một đối tượng vật chất; bạn cũng có thể mở mắtquán tưởng Đức Độ Mẫu và sử dụng bức hình để hỗ trợ cho việc không xao lãng. Tập trung vào một bức hình thanh tịnh, dù thực sự hay được quán tưởng, bạn có thể phát triển sự quen thuộc nhiều hơn với không xao lãng đến khi bạn đạt được định của shamatha.

Ban đầu, sẽ rất lợi lạc nếu có một hỗ trợ, bởi tâm có xu hướng dễ dàng bị xao lãng. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thậm chí không nhận ra. Tuy nhiên, hãy rõ ràng rằng, vào giai đoạn khởi đầu này, tưởng tượng Độ Mẫu trong tâm là một hành động suy nghĩ. Sau đó, điều này sẽ dẫn tới việc nhận ra tinh túy của tâm, nhưng lúc này, nó không phải rigpa. Shamatha thiết lập nền tảng cho việc duy trì ripga khi vị thầy gốc của bạn chỉ ra trực tiếp bản tính của tâm cho bạn.

Học trò: Làm sao chúng con có thể thực hành sáu ba la mật?

Rinpoche: Nhận ra tính không trong bất cứ hành động nào – dù lớn hay nhỏ – của năm ba la mật đầu tiên, tức bố thí, nhẫn nhục, trì giới, tinh tấnthiền định, được gọi là ôm trọn nó với ba la mật thứ sáu, trí tuệ siêu việt. Làm như vậy đòi hỏi việc chứng ngộ tính không và nếu điều đó xảy ra thì chúng tự nhiên được ôm trọn bởi tính không và không đòi hỏi nỗ lực nào thêm. Tuy nhiên, nếu bạn là một người bình phàm, bạn vẫn có thể ôm trọn năm ba la mật bằng ba la mật thứ sáu bằng cách hiểu một cách lý thuyết về tính không, nghĩa là xem bất cứ hành động nào cũng là hư huyễn.

Ban đầu nó không nhất thiết phải quá hoàn hảo; phần lớn người ta thường phải bắt chước hoạt động và sự hiểu giác ngộ, và bằng cách làm vậy, họ tích lũytrí tuệ cần thiết để đạt được chứng ngộ tính không chân chính. Điều này giống như thực hành nghi quỹ khi bạn quán tưởng thứ gì đó trong tâm, trì tụng thần chú khi tưởng tượng rằng bạn chiếu ra những tia sánh hay tương tự. Điều này không có nghĩa là bạn đã làm chủ giai đoạn phát triển, nhưng nó là một hỗ trợ tuyệt vời. Điều đó được gọi là sự áp dụng chí thành. Khởi đầu, bạn cố gắng hết sức và sau đó, nhờ sự hiến dâng và tinh tấn, nó trở nên hoàn hảo.

Học trò: Làm sao chúng con thực hành hai sự tích lũy công đức và trí tuệ?

Rinpoche: Hai sự tích lũy công đứctrí tuệ nên được thực hành như một sự hợp nhất. Bất cứ khi nào bạn làm điều gì đó tốt đẹpgiá trị, bạn nên dừng lại quan niệm về chủ thể, đối tượng và hành động. Bằng cách làm như vậy, tích lũy trí tuệ sẽ hòa quyện cùng tích lũy công đứcchuyển hóathành tích lũy trí tuệ. Đó là cách chuyển hóa hành động. Nó không giống như việc trộn hai thứ khác nhau, như nước và sữa, mà là việc gắn sự thật tương đối với sự thật tuyệt đối.

Đức Milarepa nói với ngài Gampopa rằng khi tu tập trong thiền định không quan niệm, tức là sự tích lũy trí tuệ, nếu con chuyển sang thực hành quan niệm như là tích lũy công đức, sẽ có hiểm họa rằng trí tuệ sẽ trượt mất. Vì thế, hãy duy trì thiền định không quan niệm trong mọi hoạt động.

Hơn thế nữa, ngài Saraha từng dạy rằng việc người ta đang tu tập trong sự tích lũy trí tuệ không có nghĩa là họ nên coi thường giá trị của tích lũy công đức, bởi tích lũy công đức giúp củng cốtăng cường trí tuệ. Tốt nhất là luôn có sự cân bằng giữa cả hai.

Nếu bạn thực hành ở một nơi đặc biệt như là các động linh thiêng của Guru Rinpoche, bạn có thể tăng trưởng nhiều công đức hơn, hoặc nếu bạn ở cùng với một người đã tích lũy rất nhiều công đức, bạn có thể tham gia cùng họ và như thế dễ dàng tạo ra nhiều công đức. Khi được cung cấp những cơ hội như vậy, đừng quay lưng lại mà nghĩ rằng đó là quan niệm, bởi bạn có thể vẫn ôm trọn nó bằng quan kiến không quan niệmchuyển hóathành sự tích lũy trí tuệ. Tuy nhiên, nếu bạn có thể duy trì trong sự an bình không quan niệm, bạn không cần từ bỏ nó để tạo ra công đức quan niệm. Tổ Tilopa bảo với đệ tử của ngài, Đức Naropa rằng, “Này con, cho đến khi con hoàn toàn chứng ngộ sự bất khả phân của tính khôngduyên khởi, đừng bao giờ di chuyển bánh xe khỏi cỗ xe công đứctrí tuệ, thay vào đó, hãy luôn thực hành chúng như một sự hợp nhất.” Việc duy trì hợp nhất công đứctrí tuệ có một mục đích lớn lao.

Học trò: Là những hành giả Đại thủ ấn hay Đại toàn thiện, chúng con nên hành xử ra sao?

Rinpoche: Tất cả các truyền thống của Phật giáo Tây Tạng đều đồng ý ở bốn điểm sau: đạt tới sự xác quyết bằng tri kiến, thực hành bằng thiền định, củng cố bằng hành vi, và đạt tới chứng ngộ bằng kết quả.

Hành vi là cách mà một thiền gia nên hành xử khi thực hành của anh hay cô ấy tiến triển. Có rất nhiều kiểu hành vi khác nhau. Ban đầu, cần phải theo lý tưởng Bồ Tát của Đại thừa, hành xử phù hợp với sáu ba la mật. Sau đó “hành vi xuất sắc,” rồi “trì giới tỉnh thức dũng mãnh,” và cuối cùng “hành vi chiến thắng hoàn toàn.” Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta nên hành xử phù hợp với tri kiến để hành vi và kiểu hành vi có thể trợ giúp và làm sâu sắc hơn sự chứng ngộ tri kiến; nếu không thì nó có thể rất nguy hiểm.

Nếu bạn đánh mất hành vi trong tri kiến, bạn có thể dễ dàng trượt vào sự tan biến ảo mộng, bởi nhầm lẫn dòng chảy liên tục của hư huyễn là tri kiến cao cấp. Mặt khác, nếu hành vi của bạn quá cao nhưng tri kiến thì không, bạn sẽ chỉ hành xử như một yogi chứng ngộ, thay vì thực sự như vậy. Ngoài ra, hướng dòng tâm thức vào dòng chảy không ngừng của ảo mộng sẽ chỉ khiến bạn mắc sâu hơn vào tấm lưới luân hồi.

Guru Rinpoche nói rằng, “Đừng để mất hành vi trong tri kiến, thay vào đó hãy dũng cảm trong tri kiếncẩn trọng trong hành vi.” Điều này nghĩa là chứng ngộ tri kiến cao nhất của Đại toàn thiện, trong khi vẫn kính trọng những chi tiết của nhân quả bằng cách duy trì tỉnh thức hoàn toàn rằng hành động của mỗi người đều có kết quả.

Một lần khi Paltrul Rinpoche đang ban giáo lý Dzogchen cho một nhóm, một đệ tử đã giết một con cừu bắt cứ khi nào ông ta cần thức ăn. Paltrul Rinpoche cho gọi ông ta và bảo rằng, “Này! Con đang làm gì vậy? Ta nghe nói con đang giết lũ cừu. Hãy giải thích về điều này đi.” “Vâng, lũ cừu không tồn tại,” đệ tử đáp, “và không có ai giết chúng cả. Hành vi sát sinh là hư huyễn hoàn toàn và không thực sự tồn tại.” Nghe vậy, Paltrul Rinpoche quở mắng ông ta vì sự ngu dốt và vô minh này, bởi người đàn ông này đã sử dụng tri kiến để bào chữa cho hành vi xấu xa của ông ta, cho thấy một sự hiểu sai lầm về cách thức trộn lẫn tri kiếnhành vi. Ông ta chỉ nghe một vài giáo lý Dzogchen về bản tính nguyên sơ của giác tính tự-tồn tại không lệ thuộc vào tốt hay xấu, không bị ảnh hưởng bởi nghiệp theo bất kỳ cách nào, và sau đó sử dụng nó để biện minh cho việc tiếp tục những hành động xấu ác. Đó là lý do tại sao người ta nói rằng, “Nếu ai đó đánh mất hành vi trong tri kiến, tri kiến ma quỷ của sự lãng phí ảo mộng sẽ duy trì mãi.” Xin hãy xác quyết về điều này.

Một cách sa ngã khác là lắng nghe giáo lý Dzogchen, đạt được một vài sự hiểu về lý thuyết, sau đó nghĩ rằng bạn đã hiểu nó mà không làm gì thêm. Sẽ là không đủ nếu chỉ tạo ra một ý tưởng về các nguyên tắc của Đại toàn thiện mà không thực sự chứng ngộ giáo lý trong trải nghiệm cá nhân hay kiểm tra xem liệu bạn có thực sự nhận ra tri kiến. Đó là một cách để đánh lừa bản thân.

Có một khác biệt lớn giữa sự hiểu lý thuyết, kinh nghiệmchứng ngộ; chúng ta cần phân biệt rõ ràng chúng khác nhau ra sao và tại sao cần trải qua những giai đoạn lần lượt của con đường. Đầu tiên hiểu một cách lý thuyếtđạt được sự chắc chắnthuyết phục bằng việc quán chiếu một thực hành. Sau đó áp dụng nó trong kinh nghiệm của bản thân để tiến bộ và đạt tới chứng ngộ. Chỉ giả bộ rằng, “Bởi tôi đã nghe những giáo lý Đại toàn thiện, bây giờ tôi là một hành giả Dzogchen” sẽ là chưa đủ. Hay thậm chí tệ hơn, “Bởi thực hành Dzogchen không cần quan niệm hóa, vì thế tôi không nên thực hành.” Nghe thấy từng “không thiền định” vài người nhầm lẫn kết luận rằng không cần thiết phải làm gì, và bởi vậy một cách sai lầm tin rằng họ không phải thực hành gì.

Trước khi gặp ngài Marpa, Đức Milarepa đã gặp một đạo sư Dzogchen, vị này nói rằng, “Ta sở hữu chỉ dẫn Đại toàn thiện, điều mà, khi con thực hành nó vào buổi sáng, con là Phật vào buổi sáng, nếu con thực hành nó vào buổi tối, con là Phật vào buổi tối. Sự thật là nếu người ta có một sự liên tục của tu tập trước kia, họ không cần phải thiền định gì cả mà vẫn chứng ngộ Phật quả.” Nghe thấy điều này, Milarepa nghĩ rằng, “Khi thực hành tà thuật, với mình chỉ cần một tuần để đạt được những dấu hiệu thành tựu. Sau đó, tạo ra mưa đá cần không đến một tuần. Bởi vậy, hiển nhiên, mình rất thông minh. Mình chắc chắn là người được chọn. Vì thế, mình không cần thiền định, bởi đạo sư nói rằng một người may mắn không cần thực hành và sẽ vẫn giác ngộ. Bởi vậy mình chỉ cần nằm xuống chợp mắt một lúc,” và ngài nằm xuống ngủ. Sau một thời gian, đạo sư gọi ngài vào phòng và hỏi điều gì đã xảy ra. Milarepa đáp, “Con đã rất ung dung, nghỉ ngơi và ngủ một lát. Bởi thầy nói rằng con cần xem bản thân là một người may mắn, con thấy rằng không cần phải thiền định.” Đạo sư Dzogchen lắc đầu và nói, “Không, không, không! Dường như con không có kết nối nghiệp với giáo lý này hay với ta. Con phải tới gặp Dịch giả Marpa, ngài là vị thầy tiền định của con.” Và ông ấy gửi Milarepa đến học với Marpa. Đó là một tấm gương tốt về cách thức mà người ta có thể hiểu sai hay bỏ mất điểm trọng yếu, bởi vậy hãy cẩn trọng về thái độthực hành tinh tấn.

 

Trích: Tự do trong tù ngục, Trulshik Adeu Rinpoche.

Việt dịch: Pema Jyana.



[1] Niệm chuyển tâm thứ tư là những khổ đau của luân hồi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31636)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10520)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11216)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12740)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10803)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16646)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10808)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22957)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12016)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11487)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10677)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12331)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11187)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10003)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10326)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11904)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10695)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12369)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9800)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11255)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13835)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9575)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12621)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9694)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10450)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10546)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10318)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9897)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11048)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12003)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10138)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10784)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9540)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9895)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8765)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9494)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14516)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8775)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12546)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10412)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9080)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10554)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9331)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8786)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10506)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9186)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8353)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12015)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9693)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10212)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10225)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19127)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9404)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8974)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9580)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9015)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14736)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10079)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8347)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8947)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8972)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8735)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9366)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14590)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9032)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8758)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9031)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10525)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8636)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9987)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24273)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10162)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11013)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8993)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9466)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8000)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9260)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15345)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10336)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9566)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17434)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21385)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12157)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10230)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19232)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26032)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7971)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14764)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10622)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11345)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9528)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18663)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12344)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11873)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10738)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13336)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9977)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9264)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9367)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15884)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant