Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bốn pháp của Gampopa

11 Tháng Mười 201200:00(Xem: 18545)
Bốn pháp của Gampopa
BỐN PHÁP CỦA GAMPOPA
Tulku Urgyen Rinpoche
Việt dịch: Pema Jyana

 

tulku_urgyen_rinpocheTrước khi thọ nhận giáo lý, hãy cùng khởi lên động cơ của bồ đề tâm cao quý. Hãy mong ước rằng: “Con sẽ nghiên cứu Pháp và thực hành đúng đắn để thiết lập tất cả những bà mẹ của con, hữu tình chúng sinh nhiều như hư không, trong trạng thái giải thoátgiác ngộ tối thắng.”

Tôi muốn giới thiệu một giáo lý gọi là “Bốn Pháp của Gampopa,” tương tự như bốn chỉ dẫn của ngài Longchen Rabjam. Đầu tiên trong đó là cách thức chuyển tâm về thực hành Pháp. Bao trọn trong đó là bốn niệm chuyển tâm. Pháp thứ hai là cách thức đảm bảo rằng thực hành Pháp trở thành con đường. Điều này bao gồm những giáo lý về thực hành dự bị bốn lần một trăm nghìn. Trong Pháp thứ ba, cách thức để xua tan vô minh trên con đường, có những giáo lý về giai đoạn phát triển, trì tụng và giai đoạn hoàn thiện. Và trong Pháp thứ tư, có những giáo lý về cách thức đạt được sự xác quyết, chứng ngộ trạng thái tự nhiên bằng ba tri kiến vĩ đại. Người ta nói rằng nền tảng là Đại thủ ấn, con đườngTrung Đạo và kết quả là Đại toàn thiện. Bốn Pháp của Gampopa chứa đựng trọn vẹn con đường để mỗi cá nhân đạt đến giác ngộ hoàn hảo trong thân này và đời này.

Tất cả chúng ta ở đây đã có được điều vô cùng khó khăn mới đạt được – thân người quý giá với tám tự do và mười thuận duyên. Đó là thứ gì đó chỉ xảy ra trong một trong một trăm niên kỷ. Hiện tại nó xảy đến với chúng ta, chính thời điểm này. Khi chúng ta còn sống trong thân người này, nó dường như thật dễ dàng để sinh ra làm người. Dường như chẳng cần nỗ lực gì. Tuy nhiên, thành thật mà nói, thân người là cực kỳ khó đạt được và đòi hỏi một lượng công đức lớn lao từ nhiều đời quá khứ. Chính bởi nghiệp tốt lành trong quá khứ kết hợp với những khát nguyện thanh tịnhhiện tại chúng ta có được thân người quý giá.

Hoàn cảnh hiện tại của chúng ta giống như việc tìm thấy một viên ngọc quý. Đừng lãng phí nó. Thời gian đang cạn dần; chúng ta đều phải chết. Nguyên nhân của việc không thể đạt được trạng thái hoàn hảo về vật chất trong đời này là bởi không gì tồn tại mãi. Mọi thứ là vô thường; mọi người đều chết. Nếu lúc chết là kết thúc hoàn toàn, giống như nước khô hay lửa bị dập tắt, nó sẽ ổn – cái chết sẽ chẳng có kết quả gì. Không may là, điều này không xảy ra. Những kết quả của nghiệp theo chúng ta sau khi chết như hình với bóng. Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi. Tình thế này đã tiếp diễn từ vô thủychúng ta vẫn chưa được giải phóng.

Hãy quán chiếu về ý nghĩa của bốn chủ đề tôi vừa đề cập: khó khăn của việc có được thân người quý giá, sự thật rằng không gì tồn tại mãi, rằng chúng ta đều phải chết, và mọi người đều bị chi phối bởi kết quả của những hành động nghiệp, chẳng có nơi nào trong luân hồihạnh phúc mãi mãi. Chúng được gọi là bốn niệm chuyển tâm. Việc thấu triệt chúng là vô cùng quan trọng, bởi vì chúng không phải điều hư cấu hay ảo tưởng. Chúng là sự thật; chúng giải thích những hoàn cảnhđiều kiệnchúng ta sống trong luân hồi.

Không phải là không thể hiểu được rằng chúng ta phải chết, cũng như những chi tiết về điều tiếp theo. Chúng ta đều đứng thành hàng vì điều đó, chờ đợi nó xảy ra. Chúng ta cần đối mặt với những sự thật này theo một cách thức thực tế. Trước khi bắt đầu thực hành chánh Pháp, điều quan trọng là cần hiểu chúng thực sự. Đó là điểm đầu tiên trong Bốn Pháp của Gampopa: cách thức hướng tâm về với Pháp.

Thứ hai, cách thức đảm bảo thực hành Pháp trở thành con đường, bao gồm các thực hành sơ khởi bốn lần một trăm nghìn. Thông qua bốn niệm chuyển tâm, chúng ta phát triển mong muốn giải phóng khỏi luân hồiđạt được trạng thái giác ngộ cao quý, không chỉ cho bản thân, mà còn cho tất thảy chúng sinh. Chúng ta đã sẵn sàng quy y Tam Bảo. Phật là trạng thái toàn tri giác ngộ hoàn toànhoàn hảo. Pháp là con đường dẫn tới trạng thái đó, tức là các giáo lý. Tăng là tất thảy chư đạo sư, những bậc nắm giữ, xiển dương và hoằng bá giáo lý từ thời Đức Phật cho đến bậc thầy từ ái của chúng ta, những người mà chúng ta đã kết nối. Quy y Tam Bảo với niềm tin và xác quyết trọn vẹn đảm bảo rằng chúng ta có cơ hội trở thành những bậc giác ngộ. Quy ytìm kiếm chỉ dẫn từ Tam Bảo là điều mở ra con đường dẫn tới giác ngộ. Đó là phần đầu tiên trong các thực hành sơ khởi.

Tiếp theo điều này là phát bồ đề tâm. Không có bồ đề tâm, chúng ta không thể bước đi trên con đường Đại thừa. Hiểu biết rằng mọi hữu tình chúng sinh khác thực sự là cha mẹ chúng ta trong các đời quá khứ đã cung cấp nền tảng quan trọng cho những tiến bộ. Từng con côn trùng nhỏ bé mà chúng ta gặp, không ngoại lệ, đều là cha mẹ chúng ta – không chỉ một lần, mà rất nhiều lần. Và tất cả đều đang bước sai đường. Họ muốn hạnh phúc, nhưng không biết cách thức đạt được. Phát triển bồ đề tâm nghĩa là tạo ra lòng quyết tâm dũng mãnh nhất này: “Con sẽ dẫn dắt mọi hữu tình chúng sinh đến trạng thái giác ngộ!” Giới Bồ Tát này là điều tạo ra sự khác biệt giữa một hành giả Tiểu thừaĐại thừa. Thọ nhận giới này được gọi là phát bồ đề tâm. Quy yphát bồ đề tâmtinh túy của con đường.

Khi thực hành một nghi quỹ, chúng ta có thể thực hành ba thừaTiểu thừa, Đại thừaKim Cương thừa – một cách đồng thời. Bất cứ khi nào bạn thực hành một bổn tôn đặc biệt, bạn luôn bắt đầu với quy ybồ đề tâm, những yếu tố của Tiểu thừaĐại thừa. Không có cách nào khác. Bổn tôn, trì tụng thần chúquán tưởng, là thực hành Kim Cương thừa. Như thế, không thể thực hành Kim Cương thừa mà không là hành giả Tiểu thừaĐại thừa. Ba thừa được thực hành trên cùng một tấm nệm.

Các thực hành của cả ba thừa đều nằm trọn trong thực hành sơ khởi. Thực hành đầu tiên là Quy yPhát bồ đề tâm. Sau đó là Quán tưởng và trì tụng Kim Cương Tát Đỏa, thực hành Kim Cương thừa thực sự. Thực hành Kim Cương Tát Đỏa bao gồm bốn sức mạnh chữa lành, đầu tiên là sức mạnh của sự hỗ trợ - quán tưởng Phật Kim Cương Tát Đỏa. Thứ hai là sức mạnh của phương pháp đối trị được áp dụng, trì tụng thần chú trăm âm của Đức Kim Cương Tát Đỏaquán tưởng trận mưa và sự tịnh hóa bằng cam lồ. Thứ ba là sức mạnh của sự ăn năn về các ác hạnh trong quá khứ. Thứ tư là sức mạnh của lòng quyết tâm, hứa nguyện không bao giờ tái phạm. Đức Phật dạy rằng thực hành trì tụng thần chú Kim Cương Tát Đỏa trong khi nhớ về bốn sức mạnh chữa lành này giúp tịnh hóa mọi ác nghiệp, thậm chí dù nó có lớn như núi Tu Di.

Sau khi trì tụng thần chú Kim Cương Tát Đỏa sẽ đến phần Cúng dường mạn-đà-la, điều đảm bảo rằng chúng ta sẽ không tạo ra chướng ngại trên con đường thực hành. Trong đó, chúng ta sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi bằng việc tích tập những thứ chúng ta có thể mang theosự tích lũy công đứctrí tuệ. Có ba cấp độ cúng dường mạn-đà-la: mạn-đà-la bên ngoài, cúng dường vũ trụ bên ngoài; mạn đà la bên trong, cúng dường các chúng sinh bên trong; và cuối cùng mạn đà la bí mật, cúng dường sự như thị tuyệt đối, tương ứng với ba thân. Kết hợp cùng nhau, ba cấp độ này được gọi là “tích tập công đứctrí tuệ.”

Sau đó là Đạo sư Du già, phần thứ tư trong các pháp tu sơ khởi. Đạo sư Du già thường được nói là thâm sâu hơn cả thực hành chính yếu, bởi trong đó, chúng ta nhận được sự gia trì từ một truyền thừa không gián đoạn các đạo sư. Sự gia trì này đến từ Pháp thân Phật Phổ Hiền đến bậc thầy gốc của chúng ta. Nó giống như ống nước nối nhà bạn và trạm cấp nước, thứ cho phép nước chảy ra khi bạn mở vòi. Dòng truyền thừa không gián đoạn của các đạo sư giác ngộ kết nối với bạn nhờ những vị thầy của bạn giống như ống nước đó. Nhờ đó, chúng ta có thể nhận được sự gia trì của Phật, Pháp và Tăng, của ba thân trong thực hành của chúng ta.

Khi thực sự dấn thân vào các thực hành sơ khởi, chúng ta có thể xua tan chướng ngại trên con đường tâm linh và tạo ra nhiều thuận duyên để nhanh chóng chứng ngộ kết quả tối thắng. Đó chính xácý nghĩa của Pháp thứ hai trong Bốn Pháp của Gampopa: cách thức đảm bảo thực hành của Pháp trở thành con đường.

Một vài người coi họ là hành giả của riêng Đại thừa hay Kim Cương thừa. Số khác nói họ chỉ theo Theravada, rằng họ không biết điều gì khác ngoài đó. Nhưng nói như vậy chỉ cho thấy sự thiếu hiểu biết. Ba thừa không hề tách biệt. Chúng ta có thể thực hành chúng đồng thời – thực sự, chúng ta cần phải như vậy để có một nền tảng vững chắc. Không thực sự thấu triệt bốn niệm chuyển tâmquy y, chúng ta không có nền tảng thực sự để kết nối với các giáo lý Phật Đà. Giống như vậy, nếu bạn muốn uống trà, bạn cần một chỗ để cái cốc. Bạn cần cái bàn, giống như nền tảng của giáo lý Tiểu thừa hay Thanh Văn thừa. Bạn cũng cần cái cốc đựng trà, tức là thái độ Đại thừa. Và bạn cần trà – nếu không sẽ chẳng có gì để uống, và bạn cần phải uống. Giáo lý Kim Cương thừa giống như chất lỏng được đổ vào cốc.

Giống như vậy, để giác ngộ, trước tiên chúng ta cần kết nối với Tam Bảo. Quy y liên quan đến việc giao phó bản thân; điều đó chứa đựng giáo lý Tiểu thừa. Sau đó, mục đích của việc đơn độc giác ngộ trong khi tất thảy những bà mẹ của chúng ta trôi lăn trong luân hồi là gì? Điều đó thật đáng xấu hổ. Người ta nói rằng quan điểm Tiểu thừa thì nhỏ bé như vũng nước, trong khi Đại thừa thì rộng lớn như đại dương. Mọi người cần giác ngộ - không phải chỉ riêng chúng ta. Thứ ba, không có giáo lý thâm sâu của Kim Cương thừa bao gồm bổn tôn, thần chú và định, chẳng có cách nào để chứng ta đạt tới giác ngộ hoàn toàn trong chính đời này và thân này. Vì thế, chúng ta cần cả ba thừa: Tiểu thừa, Đại thừaKim Cương thừa. Thật vô ích khi tự coi bản thân là một hành giả cao cấp, kẻ chẳng cần những giáo lý “thấp hơn.” Thái độ như vậy sẽ là phi thực tế.

Đảm bảo rằng thực hành Pháp trở thành con đường nghĩa là tịnh hóa những che chướng và ác hạnh, điều tạo ra chướng ngạingăn cản con đường dẫn tới giác ngộ hoàn toàn. Có một nguyên nhân chính để thực hành các pháp tu sơ khởi, mặc dù vài người có thể nghĩ rằng chúng là không cần thiết. Nhờ thực hành sơ khởi, chúng ta thực sự có thể xua tan chướng ngại và khiến thực hành Pháp trở thành con đường giác ngộ.

Khi đã xua tan chướng cản và tích tập công đứctrí tuệ, chúng ta bước sang Pháp thứ ba của Gampopa: cách thức để con đường xua tan vô minh. Vô minh ở đây được hiểu là thứ che lấp bản tính thiên bẩm của chúng tangăn cản giác ngộ. Mọi người đều có Phật tính, mọi hữu tình chúng sinh không sót một ai. Không may là, chúng ta không biết tài sản đó. Chúng ta rơi vào vô minh và trôi lăn trong luân hồi. Hãy tưởng tượng khi một viên ngọc như ý rơi xuống bùn và bị che lấp bởi đất bẩn. Trước tiên, viên ngọc cần được nhận ra. Sau đó nó cần được làm sạch. Khi điều này xảy ra, nó có thể được sử dụng. Chúng ta đều là những viên ngọc như ý, nhưng không biết về điều đó, và như thế không thể sử dụng chúng. Chúng ta cần lau sạch chất bẩn bao trùm trạng thái cơ bản của bản thân, tức viên ngọc như ý. Cách thức để làm điều này là thực hành Kim Cương thừa.

Cách thức tốt nhất và thâm sâu nhất để làm vậy là nhờ ba nguyên tắc của thực hành Kim Cương thừa: bổn tôn, thần chú và định. Bằng việc tu tập trong giai đoạn phát triển bao gồm bổn tôn, thần chú và định, chúng ta hiện thực hóa điều mà chúng ta đã là. Để thực hành giai đoạn phát triển một cách đúng đắn, chúng ta cần buông bỏ tri kiến thế tục vật chất, tầm thường. Đừng trì tụng những lời cầu nguyện bổn tôn khi nghĩ rằng, “Tôi đang ở thế giới này, trong ngôi nhà bình thường, trong thân bình thường của tôi.” Trước tiên chúng ta cần tan hòa mọi thứ vào hư không rộng lớn, sau đó quán tưởng cung điện linh thánh, ngai tòa của bổn tôn và mọi chi tiết khác. Nhờ việc tu tập về bổn tôn, thần chú và định này, chúng ta có thể khiến con đường xua tan vô minh.

Hãy nhớ rằng, trong thực hành giai đoạn phát triển, chúng ta không quán tưởng rằng chúng ta là thứ gì đó mà chúng ta không phải là. Mọi người đều sở hữu tinh túy giác ngộ, điều được ban tặng với ba kim cương, ba khía cạnh giác ngộ. Cách thức để nhận ra điều đó một cách trọn vẹn là nhờ bổn tôn, thần chú và định. Thực hành phát triển là đơn giản biết bản chất của mọi thứ như nó là. Tu tập như vậy giống như biết viên ngọc là viên ngọc như ý, điều mà nó thực sự là. Nó không phải là việc chúng ta tưởng tượng một viên đá bình thường trở thành một viên ngọc. Viên đá không bao giờ sở hữu giá trị hay phẩm chất của viên ngọc, dù chúng ta quán tưởng thế nào. Thực hành giai đoạn phát triển vô cùng thâm sâu.

Bây giờ hãy xem xét Pháp thứ tư của Gampopa, để vô minh tỏa sáng như trí tuệ. Mặc dù điều sắp được nói ở đây nghe rất cao xa, tôi không tự tạo ra điều gì. Tôi không có khả năng tạo ra giáo lý của riêng mình hay sáng tạo con đường mới vẻ, thâm sâu, không gì hết! Thậm chí nếu tôi có thể, cũng vô ích khi làm vậy, bởi người ta sẽ không thích thú. Thay vào đó, tôi lặp lại những lời dạy của Đức Phật và các đạo sư vĩ đại trong quá khứ.

Mọi hữu tình chúng sinh, không một ngoại lệ nào, đều có Phật tính, từ Pháp thân Phật đến con côn trùng bé nhất. Không có sự khác biệt nào giữa phẩm chất hay kích cỡ của tinh túy giác ngộ giữa từng cá nhân. Tuy nhiên, chư Phật và những Bồ Tát giác ngộ hoàn toàn đã cắt bỏ tâm nhị nguyên từ đầu. Đó là cách mà các ngài khác với hữu tình chúng sinh. Sự hiển bày của tâm chư Phật và Bồ Tát mang hình tướng những hoạt động từ ái. Hoạt động này, nhờ những hóa thântái sinh, xuất hiện trong mọi cõi luân hồi để giảng dạy chúng sinh.

Mặt khác, hữu tình chúng sinh rơi vào tầm ảnh hưởng của suy nghĩ nhị nguyên. Sự chú ý của một người bình thường sẽ trượt theo sự chuyển động của tâm. Đột nhiên, có sự hỗn độn trong việc tin tưởng về ngã và tha, chủ thể và đối tượng, và điều này cứ tiếp diễn không ngừng. Đó là luân hồi. Phật và Bồ Tát đã thành công trong việc đi tới miền đất giác ngộ. Nhưng chúng ta, hữu tình chúng sinh trở nên hoang dại, và đang trong trạng thái không thành công, không thỏa mãn. Chúng ta vẫn trong đại dương luân hồi; chúng ta chưa thể nhô lên khỏi mặt nước. Chúng ta trôi lăn trong trạng thái vô minh không ngừng. Cùng lúc đó, chúng ta không mất đi Phật tính. Phật tính không bao giờ tách rời khỏi tâm dù chỉ một giây. Mặc dù chúng ta không tách rời khỏi nó, chúng ta không biết nó, và vì thế, trôi lăn trong luân hồi.

Bây giờ là lúc để giải phóng bản thân khỏi luân hồi. Nếu chúng ta không làm vậy trong đời này, nó sẽ không tự diễn ra. Chúng ta phải chăm lo cho bản thân. Ngay bây giờ, chúng ta có khả năng thọ nhận giáo lýthực hành Pháp. Điều này không đúng sao? Chẳng phải sẽ tốt hơn nếu không tiếp tục hành xử như con vật, chỉ tập trung vào ăn ngủ và để thời gian trôi qua? Tại sao không nắm lấy tương lai của mình?

Chúng ta có thể nhận ra bản tính bởi chúng ta đã trải nghiệm lòng từ ái vĩ đại của một bậc giác ngộ hoàn toàn đã hiển bày trên cõi giới này. Đức Phật không chỉ xuất hiện, ngài đã thuyết giảng những chỉ dẫn quý giá về cách thức chứng ngộ Phật tính. Và những giáo lý về cách thức nhận ra tinh túy giác ngộ này vẫn được trao truyền nhờ dòng truyền thừa không gián đoạn các đạo sư vĩ đại.

“Vô minh tỏa sáng như trí tuệ” nghĩa là nhận ra rằng Phật tính tràn khắp mọi hữu tình chúng sinh. Chúng ta không mất nó; nó không bao giờ tách rời khỏi tâm chúng ta dù chỉ một giây. Phật tính này luôn hiện hữu, và thứ duy nhất che lấp nó là ý nghĩ của chúng ta. Không gì khác che lấp nó. Tinh túy bị che lấp bởi sự hiển bày. Điều này giống như mặt trời chiếu sáng rạng ngời trên bầu trời quang. Thứ duy nhất che lấp mặt trời là những đám mây. Và những đám mây tự chúng được tạo thành nhờ sự hiển bày của mặt trời – ánh sáng và hơi ấm. Chúng không đến từ một nơi nào khác. Sức nóng từ mặt trời khiến nước bốc hơi và tạo thành những đám mây che lấp mặt trời. Giống như vậy, sự hiển bày những chú ý của chúng ta mang hình tướngý nghĩ vô minh che lấp chúng ta. Nói cách khác, chúng ta đang che lấp Phật tính của mình, và bây giờ là lúc để xua tan vô minh này.

Hiện nay, chúng ta có đủ phước báu để có những giáo lý tuyệt vời, điều chỉ cho chúng ta cách thức nhận ra bản tínhđạt được giải thoát. Nếu chúng ta lựa chọn sẽ duy trì bị che lấp bởi hành động và cảm xúc, chúng ta sẽ không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp sau. Chúng ta sống ngày này qua ngày khác. Nếu mai chúng ta chết, hôm nay chúng ta cũng không biết. Chúng ta thực sự ngu ngốc như lũ vật. Từ một quan điểm khác, thậm chí chúng ta còn ngốc hơn, bởi vì chúng ta có thể nhận giáo lý về cách thức thực hành; thực sự, chúng đã có thể đã làm vậy. Nếu chúng ta không áp dụng chúng, chúng ta còn ngu hơn nhiều so với một con vật. Động vật không thể làm được gì; chúng ở trong thân tướng không thể thọ nhận giáo lý. Nhưng không may là, chúng ta, những con người, kẻ đã được giới thiệu con đường tâm linh, có thể lãng phí cơ hội quý giá này. Điều đó sẽ thật đáng buồn!

Nhờ lòng từ bi của Tam Bảo, bây giờ chúng ta có phước báu để thọ nhận giáo lý, nhờ đó có thể để vô minh chói ngời như trí tuệ. Vô minh ở đây nghĩa là tin rằng mọi thứ là cái mà nó không phải là. Vô minh giống như nhầm lẫn. Làm sao chúng ta có thể chuyến hóa vô minh thành trí tuệ? Đầu tiên, chúng ta cần hiểu vô minh là gì. Vô minh là việc nhầm lẫn điều nó không phải với điều nó là. Nó ngược lại với việc biết điều nó là như nó là. Ở Tây Tạng có một loại thuốc gọi là datura, thứ mà khi bạn uống, sẽ khiến người khác xuất hiện như thể họ có năm mười cái đầu hay ba mươi tay. Chúng ta biết rằng điều này là không thể trên thế giới này; đây là ví dụ về vô minh.

Phật tính có ba phẩm tính của Thân, Khẩu và Ý giác ngộ. Phẩm tính bất biến, giống như sự mở rộng của hư không được gọi là thân kim cương. Phẩm tính không ngừng gọi là khẩu kim cương. Phẩm tính không sai lầm, khả năng nhìn nhận mà không cần ý nghĩ, được gọi là ý kim cương. Ba điều này – thân, khẩu và ý kim cương – luôn hiện hữu như là bản chất của mọi hữu tình chúng sinh. Tất cả những gì chúng ta cần làm là nhận ra điều này. Mặc dù chúng ta có ba kim cương, chúng ta không biết điều đó, và tiếp tục trôi lăn trong luân hồi. Vô minh thông thường che lấp ba kim cương thiên bẩm của chúng ta. Thân vật lý với thịt và máu che lấp thân kim cương. Những từ ngữâm thanh chúng ta phát ra, thứ bị gián đoạn và được tạo ra gián đoạn, che lấp phẩm tính không ngừng của khẩu kim cương. Và những ý nghĩ đến và đi của chúng ta, không ngừng khởi lên và ngừng lại từ lúc này qua lúc khác, ngày qua ngày, đời này sang đời khác, chính xác là thứ che lấp khẩm tính không sai lầm của ý kim cương. Điều cần thiết bây giờ là nhận ra bản tính của bản thân, thay vì vô minh như vậy.

 

Trích: Như nó là (tập 1), Tulku Urgyen Rinpoche.

Việt dịch: Pema Jyana.

 

Bài liên quan (cần xem thêm):

BỐN PHÁP CỦA GAMPOPA - Dorje Chang Kalu Rinpoche, Thanh Liên dịch

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25590)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37840)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18617)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14213)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20069)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9480)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14336)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35524)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10631)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19656)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23167)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10730)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20169)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10579)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9929)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14843)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17624)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17566)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13154)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31108)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25697)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13957)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17481)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10942)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12260)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10443)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12239)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11736)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9598)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12320)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9165)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8468)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9929)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9744)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12004)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14390)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9886)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11185)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8284)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10950)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14055)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9879)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15171)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13015)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23053)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23935)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12537)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15405)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17745)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15023)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16522)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16019)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17574)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11566)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11594)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17786)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10746)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10503)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11290)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12057)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11020)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36364)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8938)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9647)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17232)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10218)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10443)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12179)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13592)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14625)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9130)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24770)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11617)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10297)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15911)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15544)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14483)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12418)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14541)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18319)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9554)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18494)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18554)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18987)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18799)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11797)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13304)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47952)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11037)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13527)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13012)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11047)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12531)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11038)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31734)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11647)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant