Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chuyện 23 - 43

16 Tháng Mười 201200:00(Xem: 10148)
Chuyện 23 - 43

CHUYỆN CỬA THIỀN
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Thấy pháp không phải ta

Nhà Sư đang nghỉ trưa, bỗng nghe tiếng "sàn sạt" ở hiên sau, bèn hỏi:

- Ai đó?

- Không có ai hết!

Nghe ra là giọng chú Đa Lễ.

- Chú làm cái gì đó?

- Chẳng làm cái gì hết!

Một hồi nhà sư mới biết chú ấy đang quét lá. Nhà sư hơi ngạc nhiên về cách trả lời trống không, vô lễ của chú điệu được tiếng là lễ phép bấy lâu nay. Vừa mới nhổm dậy thì nhà sư nghe tiếng đọc kinh vang vang xa dần:

 “Khi trí tuệ quán chiếu
Thấy pháp không phải ta
Liền thoát ly khổ não
Đó là Thanh Tịnh Đạo!"

- À, ra thế! Nhà sư lẩm bẩm gật đầu rồi nằm xuống trở lại.


Thường ích kỷ Bồ-tát

Đa Trí tưới lan xong, ngắm những giò hoa nở một hồi lâu, có vẻ ngẫm ngợi rồi nói với Đa Văn:

- Chú nè, mình chơi lan thế này thiệt là kẹt!

Đa Văn ngạc nhiên hỏi:

- Kẹt sao?

- Nếu người ta xin?

- Thì cứ nhất định là không cho!

- Vậy là ích kỷ rồi!

Đa Văn giải thích:

- Đồng ýích kỷ. Nhưng chú tưởng hành theo "hạnh ích kỷ" dễ lắm sao? Ích kỷ nhưng không phải cho cá nhân mình mà là phụng sự cái đẹp chung. Mình mang tiếng ích kỷ, nhưng mọi người lại có chỗ để di dưỡng tinh thần, để thần kinh được thư giãn. Điều đó nên làm lắm chứ!

Đa Trí lắc đầu:

- Đó là tâm địa Bồ-tát, tôi chịu thôi!

Vô Văn đi ngang qua, nghe được liền hỏi:

- Bồ-tát ấy có tên là gì?

Đa Văn đáp:

- Đấy được gọi là: "Thường Ích Kỷ Bồ-tát!"

Vô Văn vỗ tay:

- Vậy từ đây ta có thêm một Bồ-tát mới nữa rồi! "Nam Mô Thường Ích Kỷ Bồ-tát Ma ha tát!” Hoan hô!

 


Cái gì dơ?

Buổi sáng, Đa Văn nhận trách nhiệm phân phối công việc, chú nói:

- Hổm rày cái sân dơ quá, chỗ này chú Vô Tâm nhận cho!

Vô Tâm cười cười:

- Sân đâu có dơ, chú!

Đa Văn gặn hỏi:

- Sân không dơ thì lá dơ chắc?

Vô Tâm ỡm ờ:

- Lá có lẽ cũng không dơ!

Đa Văn nghiêm mặt lại:

- Sân không dơ, lá không dơ, nhưng chú cũng phải quét, thế thôi!

Mọi người cười xòa.

Vô Văn nghe được, nói lầm thầm: "Đa Văn vì dụng thường ngữ, kẹt nơi tục đế nên gọi sân dơ! Vô Tâm vì dụng pháp ngữ, kẹt nơi chân đế nên gọi sân không dơ, lá không dơ! Ta biết cả hai mà còn ngứa óc, ngứa mồm muốn nói, thế là chổi dơ! Ôi! Nếu chổi dơ thì làm sao quét và quét là quét cái gì đây?"


Mắc mớ gì đến ta

Một nam Phật tử đau khổ vì tình đến gặp Đa Văn:

- Chú ơi! Xin chú hãy giúp tôi một vài ý kiến.

Đa Văn đang ngồi lim dim mắt:

- Chuyện gì vậy?

- Tôi có một mối tình!

- Ờ!

- Tôi rất hạnh phúc!

- Ờ!

- Không, nàng đã phản bội tôi rồi!

- Ờ!

- Tôi rất đau khổ!

- Ờ!

- Vậy bây giờ tôi phải làm sao?

Đa Văn mở mắt ra, hỏi:

- Ai đem hạnh phúc cho anh?

- Dạ, nàng!

- Ai mang đau khổ cho anh?

- Dạ, cũng chính nàng!

Đa Văn "hừm" một tiếng:

- Vậy thì mắc mớ gì đến ta mà hỏi!

-!?

 


Ai ngộ?

Đa VănVô Văn đang trỉa lúa khô, Đa Thức cắp nách rổ đi hái rau, dừng lại nói:

- Nè, các chú ơi! Có một ông cư sĩ rất chi là trí thức vừa bị thầy "cạo" cho một trận.

Đa Văn đứng thẳng lưng dậy:

- Kể nghe!

Đa Thức hăm hở:

- Ông cư sĩ ấy đạp xe từ dưới phố lên, thầy hỏi: "Có mệt không con?" Cư sĩ chậm rãi dựng xe cười: "Bạch thầy, mệt gì đâu! Con cứ để tâm "vô phân biệt" mà đạp. Lên dốc thì con nghĩ: "À, lên dốc à!" Qua ruộng thì con nghĩ: "À, qua ruộng à!" Thế là con luôn trú nơi cái sát-na vĩnh cửu của hiện tại. Không gian, thời gian bất khả hiện hữu. Năng tri và sở tri không hai. Vậy thì có gì xa với gần, mệt với không mệt hở thầy?"

Nghe xong, thầy nói: "Hay dữ ha! Vậy ra con tu hành là để "xa với gần không biết", "người với đường thành một", "không tôi, không người", "đàn ông, đàn bà không khác"... "Vô phân biệt" tuốt, luốt! Hay dữ ha!

Kể xong, chú Đa Thức nói tiếp:

- Hôm trước, có một ông "phân biệt" thì bị thầy "lóc". Bữa nay, một ông "vô phân biệt" thì bị thầy "cạo"! Eo ôi! Khó ơi là khó!

Đa Văn nói:

- Tại cái ông cư sĩ dại, không biết đàng mà lui tới. Thầy nói gì cứ mặc thầy. Có bao giờ tâm vô phân biệtbiến thành sỏi đá đâu mà sợ? Con ruồi bay qua vẫn biết rõ ruồi đực ruồi cái mà tâm vẫn vô phân biệt như thường!

Vô Văn vẫn lom khom trỉa lúa:

- Này, thôi nghe! Hãy lo làm công chuyện!

Đa Văn nhìn Vô Văn ngờ ngợ:

- Ê, chú ngộ rồi hả! Giải quyết sao?

Vô Văn đứng dậy:

- Ngộ cái gì? Giải quyết cái gì?

Chú Đa Thức đưa hay tay lên trời, chiếc rổ lăn tròn xuống hồ rau muống, than dài:

- Eo ơi! Cha nào cũng thiền sư hết trơn hết trọi! Cho chết! Dù có biết, có thấy, ta cũng không nói nửa lời đâu!

 


Không thỏa hiệp

Chú ơi!

- Gì đó anh?

- Kỳ này tôi cương quyết "không thỏa hiệp" với trần gian nữa!

- Một lần nói dối!

Người thanh niên tức giận:

- Sao chú bảo tôi nói dối?

Vô Văn đưa thêm một ngón tay nữa:

- Hai lần nói dối!

Thanh niên như không còn tự chủ được:

- Nếu chú không giải thích, tôi không để chú yên đâu!

Vô Văn cười khà khà.

Thanh niên tím mặt lại:

- Chú lại còn trút thêm dầu vào lửa!

Vô Văn bây giờ mới thủng thỉnh nói:

- Cái gì anh cũng "thỏa hiệp" cả mà dám bảo là "không thỏa hiệp"! Nói dối vừa vừa thôi chứ!

-!


Tâm vô thường

Đa Trí được nhà sư giao cho việc hướng dẫn các chú giới tử sơ cơ học giáo pháp. Hôm đó, chú đang say sưa giảng về cái tâm vô thường của chúng sanh. Chú thao thao phân tích, đưa ra những ví dụ thực tiễn, xác đáng... muốn cho đàn em ai cũng phải khâm phục sức học uyên báctrí tuệ thâm sâu của mình!

Nhìn xuống lớp học, Đa Trí chợt thấy Vô Tư đang gục lên gục xuống trên bàn. Chú gọi to:

- Vô Tư!

Vô Tư giật nẩy mình, ngơ ngác:

- Dạ!

- Điệu có biết điệu bao nhiêu tội rồi không?

- Dạ, không ạ!

Đa Trí cất giọng rổn rảng:

- Này, hãy trả lời cho tôi nghe. Lần trước tôi bảo ngủ thì điệu lấy bài ra học. Bây giờ, giờ học thì điệu lại ngủ gà ngủ gật. Tại sao khi siêng năng lúc biếng nhác thất thường vậy hả?

- Dạ... Dạ... cái đó thì em cũng chịu thôi!

- Sao vậy? Đa Trí gắt - trả lời cho đứng đắn xem nào!

- Dạ, chú dạy cái gì... à, "quán tâm vô thường". Tâm đã vô thường thì nó thay đổi luôn, lúc là thế này, lúc là thế nọ! Vậy thì thử hỏi, em làm sao lại dám đi ra ngoài định luật vô thường ấy?

Đa Trí la hoảng lên "chết tôi", rồi chú đứng im sững!


Nếu biết thế!

Vị sư đệ tam y nhất bát phong trần trở về đến gặp vị trụ trì:

- Sư huynh ạ! Cái câu mà bên thiền tông họ hay nói: "Thần thông là gánh nước, bổ củi là diệu dụng" hồi trước đệ nghĩ là nói láo, nghe láo chơi, bây giờ đệ thấy nó chí lý làm sao!

Vị trụ trì ân cần:

- Ừ! Đệ thấy chí lý như thế nào?

Sư đệ đáp:

- Thiền là pháp môn tiêu hủy phiền não. Vậy thì bất cứ khi nào tâm ta trong sáng, bình lặng, tỉnh thức thì đấy là thể hiện thiền, là thiền quán, là thiền Minh Sát Tuệ. Dù gánh nước hay bửa củi mà tâm ta vô ưu, vô lự, vô phiền, thì đó là diệu dụng chân thật, là thần thông chân thật rồi!

Vị trụ trì khen ngợi:

- Cảm ơn Phật Thánh! Đệ đã thấy!

Buổi chiều, sư huynh nói với sư đệ:

- Lúc này hạn hán quá, bể cạn, cây khô, sư đệ hoan hỷ vận thần thông diệu dụng gánh ít chục đôi nước nghe!

Sư đệ mau mắn:

- Dạ, xong ngay!

Tối đến lúc uống trà, sư huynh nói:

- Thần thôngdiệu dụng của đệ quả là ghê gớm, một buổi chiều mà gánh những bốn chục đôi nước! Sư đệ có mệt không?

Vị sư đệ cười cười:

- Cái đó gọi là trú nơi "tam muội chân hỏa", làm sao mệt được sư huynh!

Sư huynh cười ha hả:

- Phật ôi! Nếu biết thế thì chùa mình khỏi đặt mua cái máy bơm nước tốn mấy chục ngàn!

-!?

 


Công án thứ 1701

Tôi đã bảo chú là "ngũ ấm vốn không", các pháp vô tự tính, không có gì cả đâu!

- Sao lại không có được!

- Không có mà. Này nhé, "sắc" có không?

- Có!

- Nói sao kỳ? Vậy "thọ" có không?

- Có!

- Vẫn cứng đầu! "Tưởng", "hành", "thức" có không?

- Có!

- Thiệt là cái chấp kiến lì lợm! Té ra chú tu hành lâu ni, trí tuệ được thế đấy!

- Hừ! Đừng có lên giọng kẻ cả! Chú được tài lập lại kinh điển, ngôn ngữ của cổ nhân. Tôi hỏi chú, chú bảo tôi chấp hữu, lì lợm. Nhưng mà coi chừng! Hãy nghe đây! Nói rằng, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không, đồng ý! Nhưng này, ai đang đứng trước mặt tôi đây?

- Bộ xương nặng 35 ký.

- Tầm bậy, bộ xương không biết nói!

- Ha... ha... ha...

Chú điệu cao, trắng vai vác cây cuốc chỉa vụt cất tiếng cười rang rảng rồi chạy lên đồi. Bóng chú lẫn vào rẫy sắn. Chú điệu thấp, da đen cháy, tay cầm cây chổi rành đứng dưới gốc bồ đề nhìn theo, bặm môi tức tối.

Nắng chiều ấm, nhảy loăng quăng trên những đọt sắn. Tiếng lá thông reo vi vu. Tiếng chim kêu rời rạc. Mấy chiếc lá khô đuổi nhau chạy loi choi về cuối vườn. Một đám mây trôi bâng khuâng trên vòm trời rộng, xanh lơ.

Chú điệu thấp, đen huơ mạnh cây chổi. Những chiếc lá vàng khô tung lên, rớt xuống. Cây chổi lại quét mạnh đẩy chúng về một phía. Lá lại bay lên, đáp xuống.

Những nhát chổi đều đặn hất tới, hất tới; những tấm lá bị đùa nhích tới vài bước rồi lại lì lợm nằm chờ nhát chổi kế tiếp.

Nắng dịu dần, gió thổi mạnh hơn. Nơi chân trời xa đã thấy thấp thoáng vài cánh chim bay về tổ. Tiếng nghé ọ của bầy trâu vọng lại từ con đường băng ngang sau đồi. Giọng hát trong trẻo của cô gái nào đó đang giặt dưới bến sông chốc chốc lại theo gió thoảng lên. Con chích chòe đậu trên cành thông cất tiếng hót phụ họa...

Chú điệu thấp dồn lá lại thành đống rồi chạy nhanh vào nhà bếp lấy cái bội tre. Lá sẽ được cất để chụm dần. Chú nhanh nhẹn hốt từng ôm lá nhét vào bội. Một, hai, ba, bốn... Bỗng một cơn gió quái ác: r...ào... ào, ào tới hất đám lá bay tứ tung. Chú điệu thấp loay hoay huơ chổi quét dồn lại. Nhưng mới hốt được một ôm, cơn gió thiên lôi lại ào tới phá đám.

- Cái lão gió này!

Chú đứng lên nhìn theo những chiếc lá bay chờn vờn như trêu ghẹo. Chú tức bực:

- Đồ phá đám!

- Ai phá đám?

Câu hỏi vang lên đột ngột.

Chú điệu đen, thấp quay lại. Chú điệu cao, trắng xách hai gốc sắn còn nguyên củ, tay cầm cái cuốc chỉa đứng đó tự bao giờ, cười hì hì.

- Gió chứ ai!

- Gió đâu?

- Đâu? Chú chỉ gió cho tôi coi nào?

- Thì đó... ủa!

Chú điệu đen, thấp ngớ ra, im lặng, vì lúc ấy trời không một chút gió. Những đọt thông thôi reo. Những chiếc lá nằm yên không nhúc nhích.

Im lặng.

- Gió đâu? Đâu là gió?

Chú điệu cao, trắng đứng cười hì hì, hà hà.

Chú điệu đen, thấp nhíu mày, bặm môi, quay qua quay lại. Chú tìm gió! Chợt chú ngồi xuống lượm cây chổi, nhanh như chớp, quất mạnh vào đôi chân của chú kia.

- Ý da! Sao chú đánh tôi? Chú điệu cao nhảy cẫng lên la lớn.

- Gió đấy! Gió đấy! Chú điệu đen, thấp lại cười khà khà.

Chú điệu cao, trắng tức tối:

- Đó là chú đánh tôi chứ gió đâu mà gió!

Chú điệu đen, thấp lên giọng:

- Chuyển động là gió. Kinh dạy như thế mà! Tôi là gió mà chú là vật bị gió quật chứ có gì lạ đâu! Hì hì...

- Được đấy!

Nói xong chú điệu cao, trắng hậm hực, quày quả đi về phía nhà bếp.

Chú điệu đen, thấp đứng chống chổi nhìn theo cười khì, rồi nhanh nhẹn cúi xuống ôm lá nhét vào bội.

Trời đã nhá nhem. Tiếng chuông công phu bắt đầu buông thong thả từng gióng một. Trên chánh điện, ánh sáng từ ngọn đèn lọt qua những khung cửa phóng thành những vệt dài trên các lối đi, cây cảnh, lùm bụi quanh chùa.

Sau giờ công phu tọa thiền, Tăng chúng qui tụ tại pháp đường. Ba hồi kiền chùy gióng lên. Tất cả chấp tay nghiêm cẩn. Hòa thượng bước vào và lên pháp tòa. Sau khi niệm Phật hiệu, hòa thượng cao giọng:

- Đêm nay, bần đạo sẽ đưa ra một công án. Quí vị ai có đủ thẩm quyền xin bước ra ấn chứng.

Rồi Ngài tiếp:

- Sinh tử là việc lớn. Quý vị cát ái từ thân vào chốn thiền lâm để làm gì? Phải chăng là nối gót chí nguyện của lão già mặt vàng và tên rợ mắt xanh? Vậy thì hãy quyết chí hạ thủ công phu, đêm ngày quên bặt. Trọn cả thân tâm như đặt trên bờ vực cao ngàn trượng; như ở trong đám cháy lớn bốn phía hừng hực, ráng mà chạy thoát ra ngoài; như ở trong cơn đại hồng thủy bị nước cuốn trôi, cố hết sức bám vào một mảnh gỗ duy nhất trôi bập bềnh trên sóng nước. Mau lên! Mau lên! Chớ để bạch câu vút qua, thoi đưa thấm thoắt rồi ngàn sau ân hận!

Nhảy qua! Nhảy qua bờ kia! Hãy nhảy qua cả bờ kia nữa, hỡi chư thiện hữu! Bodhisvàhà!

Công án thứ hai mươi ba của Vô Môn. Hai ông tăng tranh luận gió và phướn.

Một ông nói:

- Phướn động!

Ông kia bảo:

- Gió động!

Cả hai cãi qua cãi lại không ra lẽ.

Lục Tổ đi qua bảo:

- Không phải gió động, không phải phướn động. Tâm hai ông động đấy.

Hai ông tăng giật mình kinh sợ.

Bây giờ bần đạo xin được hỏi quý vị:

- Phướn động hay gió động? Nói mau! Nói mau!

Pháp đường ngột ngạt. Con tắc kè trên nóc điện tắc lưỡi thở dài.

Chợt một vị tăng bước ra. Hòa thượng hỏi:

- Phướn động hay gió động? Mau!

 "Gió thổi mưa dồn dập
Trời không, không gợn mây."

- Tha cho ba chục hèo!

Vị tăng cúi lạy một lạy rồi lui về chỗ cũ.

Hòa thượng nhìn quanh cao giọng:

- Cả pháp đường không lẽ toàn là bọn giá áo túi cơm cả ư?

Im lặng trôi qua.

Hòa thượng bước xuống pháp tòa.

Chợt phía sau tăng chúng, chú điệu thấp, đen chạy ra:

- Bạch hòa thượng!

Hòa thượng chững lại, thét lớn:

- Là gì?

Chú điệu đen, thấp la to:

- Lão bán củi đất Dương Châu động chứ không phải hai ông tăng động.

Hòa thượng chụp vội cây gậy phang thẳng cánh vào người chú điệu.

- Ai động? Nói mau!

- Hòa thượng!

Nói xong, chú điệu thấp, đen cúi lạy đi về chỗ cũ.

Hòa thượng đưa gậy lên trời đứng sững, rồi bước ra khỏi pháp đường về tịnh thất.

Chú điệu đen, thấp cũng lách mình ra cửa. Chú chạy về hậu viện. Trong lúc vội vàng chú vấp phải vật gì ngáng ngang đường, té sấp xuống. Chú vội lom khom trổi dậy.

Chưa kịp hoàn hồn thì đã nghe quát:

- Ai động ? Nói mau!

- Dạ, không biết!

Chú ngửng đầu lên nhìn người lên tiếng hỏi.

- A! Té ra chú!

- Hì hì... Ai động? nói mau!

Chú điệu cao, trắng vừa cười vừa hét nhỏ.

Chú điệu đen, thấp im lặng quay mình đi vào đêm tối.

Bầu trời chợt như cao hơn, sâu thẳm hơn, huyền diệu và mông lung hơn với vô vàn hạt sao li ti lấp lánh nhảy múa.

Có tiếng rơi nhè nhẹ đâu đây...

Pháp Tông
Mùa Thu 1980

 


Trăng không lặn

Chú điệu Tâm vừa mới vào ở chùa, những đêm đầu tiên vì nhớ nhà nên chú cứ đi thơ thẩn mãi ở ngoài vườn.

Hôm nọ chú ngồi khóc một mình, thấy Vô Văn đi ra, điệu đánh trống lảng:

- Ồ! Đêm nay trăng sáng quá!

Vô Văn ra vẻ ta đây:

- Rõ vớ vẩn! Trăng thì khi nào lại không sáng, cứ gì đêm nay!

Điệu Tâm cãi:

- Hôm qua nó có sáng đâu.

- Có chứ!

- Tối om!

- Sao lại tối ?

- Vì bị mây che.

Vô Văn cười hít hít:

- Đấy, vì bị mây che chứ không phải trăng không sáng.

Điệu Tâm im lặng.

Vô Văn lên giọng kẻ cả:

- Nghe thơ đây:

 "Trăng vốn sáng nhưng lòng mây u uất
Che nguồn trăng không soi thấu lá cành"

Này nhé! Trăng chính tuệ giác đấy! Mây chính là vô minh. Vô minh che mờ tuệ giác! Chú em có hiểu thế không?

Điệu Tâm lắc đầu:

- Em không biết!

Vô Văn trừng mắt:

- Không biết? Đồ ngốc! Thế thì học đi! Vậy có thuộc mấy câu thơ của Đại sư bá không hở?

- Sao ạ ?

- Thơ thế này:

 “Ngàn xưa từ ngàn xưa
Chưa một lần trăng lặn!"

Vô phúc cho chú, vừa lúc Sơ Tổ đi ngang, nghe được, nói khẽ:

- Hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi lại khuyết, ta có bảo trăng không lặn bao giờ đâu mà nói oan cho sư bá thế!

Vô Văn thè lưỡi, lủi mất.

 


Lý do ngủ không nằm

Vị khách kia nghe đồn nhà sư ngủ không nằm, hâm mộ lắm, tìm đến và xin được gặp mặt.

- Đại đức hành pháp môn cao thượng này được bao nhiêu lâu rồi?

- Ý ngài muốn nói chuyện gì? Nhà sư ngạc nhiên hỏi.

- Chuyện đại đức ngủ mà không nằm đấy!

Nhà sư cười:

- À, cám ơn ngài đã có ý hỏi han. Vâng, từ khi bần tăng bị mấy cái mụt nhọt ở nơi lưng, nơi hông nó hành, từ đấy bần tăng không còn nằm được nữa!


Chiêu thức của Đa Trí

Một thanh niên có vẻ trí thức đến chùa, ngồi thuyết tràng giang đại hải về chân lý, tuyệt đối, bản thể. Cuối cùng, y tóm tắt:

- Như vậy, rõ ràng là "nhất thiết pháp không", tôi không, các chú không, không có sở đắc, không có Niết-bàn, viên mãn không, tất cánh không.

Đa Trí chăm chú lắng nghe, rồi lắc đầu:

- Vô lý, thậm vô lý!

Khách ngạc nhiên:

- Tại sao vậy? Tôi đã nghiên cứu hầu hết hai truyền thừa Bắc và Nam tông, có khác gì những điều tôi nói.

Đa Trí nhếch mép:

- Bởi vậy tôi mới bảo là tào lao!

Khách tím mặt giận run.

Hồi lâu, Đa Trí mới cười cười, nhã nhặn:

- Như vậy chứng tỏ cái "giận" của ông bạn là có thật đấy chứ ạ?

Khách "à" một tiếng rồi ngớ ra.


Đáp án của Vô Văn

Vô Tâm về thăm nhà lên, gặp Vô Văn đang tưới ớt bên hông chùa, chú hí hửng kéo Vô Văn lại gốc cây.

- Công án mới đây! Hãy chăm chú lắng nghe! Sẵn sàng chưa?

- Sẵn sàng rồi!

Vô Tâm kể:

- "Một người cha đánh con. Lần thứ nhất bảo là không được khóc. Lần thứ hai bảo, không khóc thì được rồi, nhưng cấm chảy nước mắt. Lần thứ ba lại bảo, không khóc, không chảy nước mắt, nhưng cấm cái bản mặt tỉnh bơ như thế".

Vậy trường hợp chú thì chú tính sao? Hử? Nói đi! Nói ngay tức khắc!

Vô Văn đứng dậy:

- Tôi đi tưới cây.

 


Đạo... lan!

Đa Trí ngồi nhìn chú Đa Thức tưới lan, săn sóc lan, chú nhăn mày suy nghĩ rất lâu rồi hăm hở đến gặp nhà sư.

- Thầy à! Con vừa tìm ra được cái Đạo... lan!

- Sao? Đạo lan là? Thử nói ta nghe.

- Dạ, chơi lan phải biết "cho đi" tiền bạc, thì giờ, công lao, sức khỏe... Biết "cho đi" nhiều thứ như vậy thì có khác gì bố thí ba-la-mật... lan?

Nhà sư nhăn mày:

- Cứ nói tiếp.

- Phải chăm sóc, gìn giữ cẩn thận từng cái rễ, cái lá, cái nụ, cái chồi... cũng như giữ gìn thân, khẩu, ý vậy. Cái đó được gọi là trì giới ba-la-mật... lan!

- Được lắm!

- Phải cố gắng thường xuyên, không được lười biếng, cẩu thả, bê trễ. Phải chăm tưới hằng ngày; tưới ít hoặc nhiều lại còn tùy nắng hay mưa, khô hay ẩm, lạnh hay nóng, không được phép dễ đuôi. Cái ấy được gọi là tinh tấn ba-la-mật... lan, không sai!

- Ồ!

Đa Trí hăng hái nói tiếp:

- Phải biết rõ đây là loại nấm đà, nấm đen, nấm trắng... do vi khuẩn nào gây ra. Phải biết phân biệt đâu là bệnh rầy, bệnh cháy lá, bệnh thối lá, thối đọt, thối rễ; bệnh do ung thư, còi cọc, do úng rễ, phỏng lá; bệnh do khô quá, ướt quá... để mà cứu chữa kịp thời. Đấy không phải là trí tuệ ba-la-mật... lan là gì?

- À!

- Khi tưới tắm chăm sóc thì để trọn tâm hồn vào đấy, chăm chú, chuyên nhất,... Cái đó gọi là thiền định Ba-la-mật... lan chính hiệu!

Thấy Đa Trí còn muốn nói nữa, nhà sư ngăn lại:

- Thôi đủ rồi! Vậy là ta hiểu rồi!

Đa Trí hỏi:

- Vậy thầy nghĩ thế nào? Ấy có được gọi là Đạo chăng?

Nhà sư mỉm cười:

- Ta bây giờ già rồi, đầu óc lú lẫn, không có được "biện tài giải", "tuệ phân tích" như con. Con đã "không thầy chỉ dạy" mà tìm ra con đường cho chính mình, khác con đường của các đấng Như Lai! Khá lắm!

Đa Trí nhũn nhặn:

- Dạ, con không dám! Con chỉ mới suy luận thôi!

- Ồ! Vậy ta cũng suy luận đây! Ta hỏi con nhé, nếu có cái được gọi là ba-la-mật lan, thì cũng phải có ba-la-mật cuốc đất, ba-la-mật nhổ cỏ, ba-la-mật lái xe, ba-la-mật họa, ba-la-mật thơ, ba-la-mật đánh cờ... có phải không?

Đa Trí vỗ tay:

- Chính thị! Chẳng có gì không có Ba-la-mật cả! Chẳng có gì mà không có Đạo. Rồi chú ngâm:

 “Mười phương chân lý, Đạo
Thảy thảy hiện trần sa
Thảy thảy ba-la-mật
Thảy thảy Bồ-đề-tát-bà-ha!"

Nhà sư ôn tồn hỏi:

- Con nè, thế ba-la-mật lan của con với ba-la-mật của Phật không có gì khác nhau đấy chứ?

- Dạ, không khác. Chân lý vốn chỉ có một mà thôi. Đã Đạo rồi thì đâu cũng là Đạo cả.

- Con này, nhà sư chậm rãi nói - không đâu là không có Đạo. Đồng ý! Nhưng cái Đạo lan của con có giải thoát được sầu, bi, khổ, ưu, não không?

- Dạ, có chứ! Đa Trí mau mắn đáp - Nhìn lan nở là con giải thoát liền!

- Có an vui tự tại không?

- Dạ có!

- Rất tốt! Rất tốt!

Rồi nhà sư nhẹ nhàng vỗ vai Đa Trí mà rằng:

- Con nè, việc tưới lan, chăm sóc lan, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm nọ thật là vất vả; nên trước đây, chư tăng họp lại rồi phân công đồng đều để các chú có cơ hội tu tập công đức. Nay con đã "thâm ngộ" cái Đạo lan, đã giải thoát được nhờ Đạo lan, đã an vui tự tại được cũng nhờ Đạo lan. Quí hóa thay! Hy hữu thay! Vậy thì từ nay, con hãy bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn thiền định, trí tuệ ba-la-mật cái vườn lan "một mình" cho chùa vậy nhé!

Đa Trí tròn xoe mắt một hồi rồi tự rủa thầm: "Ta tự hại ta rồi?"


Đường... ta!

Ối dào! Đường lên chùa sư nó xa quá trời là... "xa"!

Sư vốn lãng tai, hỏi:

- Con nói cái gì... "ta"?

- Dạ, đường ạ!

gật gù đáp:

- Phải rồi! Đường... ta, ta... đường! Khi tâm phân biệt thì có "ta", có "đường"! Còn khi tâm không phân biệt thì "không thấy ta", "không thấy đường". Đã vong năng, vong sở, không ta, không đường thì chẳng thấy đâu là xa, đâu là gần cả con ạ!

 


Ni lâu đạo hữu buôn bán mần ăn ra sao?

Một thương gia giàu lòng tín tâm, làm phước, bố thí rất nhiều. Sau mấy tháng chuyên tâm nghiên cứu về giáo pháp, hôm kia ông ta đến gặp nhà sư:

- Bạch thầy! Mọi pháp hữu vi đều là vô thường, đau khổ, vô ngã...

- Đúng thế!

- Nếu các pháp vốn là vô tự tính, không thực hữu, tất cả đều là không, vậy chẳng hay, tu giới, tu định, tu huệ thì "được" cái gì, "lợi" cái gì?

Nhà sư tủm tỉm cười rồi hỏi:

- Ni lâu đạo hữu buôn bán mần ăn ra sao?

-!?


Chém luôn!

Tại sao Nam Tuyền trảm miêu?

Đấy là câu hỏi được đem ra bàn cãi trong giờ uống trà buổi tối.

Một vị sư nói:

- Có lẽ Nam Tuyền lão sư muốn xóa bỏ cái chấp thủ về sở hữu của lưỡng đường.

Vị khác:

- Chưa chắc là vậy. Ngón trỏ chính là ở nơi ý niệm đúng, sai, có, không của lưỡng chúng; chém mèo là hành động tối hậu để đẩy tâm thức môn sinh vượt khỏi bến bờ nhị nguyên đối đãi.

- Trật lất! Vị sư khác phát biểu - Chán chi cách khai mở tuệ giác mà lại dùng phương tiện sát sanh để phạm tội giới? Ý hẳn Nam Tuyền hòa thượng muốn vén mở tâm thức giải thoát, vô tác, vô hành, không còn chi phối bởi nhân quả chăng?

Một vị la lên:

- Trời ơi! Thế là tà kiến! Thế là rơi vào "đoạn diệt luận" của chúng ngoại đạo. Biết đâu hành động chém mèo chỉ là hành động bình thường nói về nhân quả, nghiệp báo?

Thấy các Sư tranh luận, Vô Văn không dám "thèo leo", bèn chạy một mạch ra bến sông, vừa lấy tay phạt làm đao vừa la lớn:

- Con mèo chấp thủ: chém một đao!

 Con mèo nhị nguyên: chém một đao!

 Con mèo vô nhân quả: chém một đao!

 Con mèo hữu nhân quả: chém một đao!

Lúc đó Sơ Tổ đang đi dạo mát giữa trăng, nghe được, nhẹ nhàng bước tới:

- Vô Văn!

- Dạ!

- Còn con một đao, ta một đao nữa, chém luôn!

Vô Văn nghe một luồng khí lạnh chạy dọc xương sống, chú quỳ xuống, sụp lạy!


Hạng người ưu thắng

Lúc này, giới tử vào chùa đông: điệu Tân, điệu Lộc, điệu Hạnh (chưa có pháp danh), Vô TưVô Ý. Đa Thức nhận trách nhiệm quản chúng cùng dạy kinh, dạy giáo lý.

Hôm kia, Đa Thức giảng một đoạn kinh ngắn rồi chú kết luận:

- Thế là có hai hạng người ưu thắng thường được đức Phật khen ngợi: "trong tâm có cấu uế biết rằng có cấu uế, trong tâm khôngcấu uế biết rằng không có cấu uế."

Buổi trưa có thức ăn ngon, các điệu dùng sau, làm hết luôn phần chó và mèo, những cái bụng đầy căng!

Đa Thức xuống tận nơi, ôn tồn nói:

- Vậy là tâm các điệu có "cấu uế" đấy, biết không? Ăn quá độ, tham ăn là cấu uế, đã rõ chưa?

Tất cả đồng thanh đáp:

- Dạ rõ!

Đa Thức giáo huấn:

- Vậy lần sau bỏ cái tính tham ăn ấy đi nghe!

Vô Tư cười hì hì:

- Bỏ làm chi, chú, "Tâm có cấu uế biết rằng tâm có cấu uế", ấy là hạng người ưu thắng thường được đức Thế Tôn khen ngợi mà!

Đa Thức đưa hai tay lên trời!

 


Cái gì bẩn?

Mấy lúc sau nầy các Sư bận học hành, nghiên cứu nên công việc trong ngoài đều giao hết cho các chú.

Nhân đầu mùa trồng trọt, các chú họp bàn thảo luận công việc với nhau. Vô Văn nói:

- Ta chỉ có một sào đất màu mỡ bên sông, vậy nên trồng gì để có khả năng kinh tế cao nhất?

Đa Trí nói:

- Nên trồng thuốc lá bán nhiều tiền, nó "lợi" hơn các loại khác gấp bội.

Đa Văn nói:

- Thuốc lá tốn nhiều phân, nhiều công, lợi bất cập hại đấy. Trồng bắp và đậu là khỏe re, tuy ít tiền nhưng được "lợi" thì giờ.

Đa Thức đứng dậy bỏ đi. Vô Văn hỏi:

- Chú đi đâu ?

- Tôi đi rửa tai!

- Tại sao ?

- Tu hành mà người thì bảo lợi "tiền", người thì bảo "lợi thì giờ"! Không bẩn tai sao được chứ?

Vô Văn bước nhanh lại, vạch tai chú Đa Thức xem, rồi gật đầu:

- Đúng vậy! Té ra tai chú bẩn! Hèn gì!

Đa Trí và Đa Văn được dịp cười khoái trá!


Thiệt là tiện lợi

Vô VănVô Ý đang đào lỗ trồng chuối, chợt chú Vô Ý dừng cuốc nói:

- Chú Vô Văn nè! Khoa học đã đến trình độ chế biến vải, thịt heo... từ dầu hỏa; làm nước ngọt giải khát từ rong biển. Vậy tại sao người ta không sáng chế ra một loại máy, mà khi găm xuống đất nó hút lên nào ngọt, nào bùi, nào béo...? Thiệt là tiện lợi hết ý!

Vô Văn lắc đầu:

- Chẳng tiện lợi chút nào. Cả một đống phiền phức xuất hiện: Đầu tư công tác thí nghiệm, chế máy; rồi nhân công, nhiên liệu, bảo trì .v..v... Chi bằng cứ như thế này; ưa ngọt thì trồng chuối, trồng mít; ưa cay thì trồng ớt, trồng tiêu; ưa béo thì gieo đậu phụng, đậu nành.v..v... Thế không tiện hơn sao?


Mời quý ngài dùng trà kẻo nguội

Hôm đó nhân buổi Trung Thu, tại vườn Thanh Tâm có cuộc họp mặt đông đảo các vị trí thức gồm học giả, nhà thơ, nhà văn, nhà giáo.v..v... Trong không khí mát mẻ, đầm ấm, họ uống trà thảo luận chuyện văn chương, chữ nghĩa. Sau rốt, có người đặt câu hỏi, giáo pháp của đức Phật, cái gì là quan trọng nhất? Thế là mọi người đưa ra ý kiến, quan điểm của mình. Họ yêu cầu nhà sư chủ trì cuộc thảo luận này.

Người thứ nhất: Theo tôi, cái quan trọng nhất của đạo Phậttrí tuệ. Có trí tuệ mới biết đường, biết sá mà đi, khỏi rơi vào tà lộ, khỏi bị lầm lạc. Nói đến đạo Phật thì trí tuệ là đệ nhất.

Người thứ hai: Nói thế là đúng, nhưng là cái đúng chưa trọn vẹn. Đạo Phật gồm đủ cả hai: Trí TuệTừ Bi. Nếu khôngTừ Bi thì đạo Phật có mặt trên đời này để làm gì? Thuyết pháp độ sanh cho ai? Coi chừng Từ Bi còn quan trọng hơn Trí Tuệ nữa đấy.

Người thứ ba: Tự Tại mới là cái tối thượng của đạo Phật, Trí TuệTừ Bi là hai cánh của một con chim để bay đến chân trời Tự Tại. Nếu khôngTự Tại, chúng ta sẽ sống đời lao chao như những con lật đật, nghiêng bên này, ngả bên kia; sẽ bị pháp trần cuốn trôi vào dòng sông sinh tử đầy hệ lụykhổ não.

Người thứ tư: Thế cũng chưa rốt ráo. Nói Tự Tại thì phải nói đến Tự Do mới trọn nghĩa. Không có tự do thì làm gì có tự tại? Không có tự do, mình sẽ bị lệ thuộc, gông cùm, ràng buộc. Vả lại, kẹt vào Tự Tại có nghĩa là nô lệ, phụ thuộc Tự Tại vậy. Theo tôi, Tự Do mới là cái chân phúc.

Người thứ năm: Không có ai sai cả, nhưng Giải Thoát mới là cái cao nhất, rốt ráo nhất. Quý vị không từng thấy thế gian này đau khổ vì bị buộc ràng bởi tiền tài, danh vọng, sự nghiệp, vợ con... Biết bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ ra từ những tham vọng quyền lực, tham vọng thế gian kia! Giải Thoát mới là cái tối thượng của Phật đà.

Người thứ sáu: Ngài nói không sai! Nhưng mà nếu hiểu Giải Thoátbuông bỏ tất cả những điều ấy, coi chừng sẽ rơi vào "hư vô luận". Không rơi vào "hư vô luận" cũng dễ bị thế gian hiểu lầm là thiếu trách nhiệm, thiếu bổn phận với cuộc đời. Theo tôi, Giác Ngộ mới là mục đích tối thắng của Phật Đạo. Đức Phật cũng được gọi là đấng Giác Ngộ, đấng Toàn Giác, đấng Diệu Giác! Rồi Thanh Văn Giác, Duyên Giác, Độc Giác. Ở đâu cũng có chữ “giác” ấy cả. Không có Giác Ngộ thì chúng ta sẽ còn theo đuổi không biết bao nhiêu mục đích hư huyễn trên trần gian này. Không Giác Ngộ chúng ta sẽ lập đi lập lại mãi những việc làm vô ích, ngu si chỉ đem đến đau khổ cho mình và người thôi. Vậy Giác Ngộ mới là đích điểm rốt ráo.

Sau lời phát biểu của vị thứ sáu, không khí lắng lại một lúc. Mọi người đều có vẻ trầm ngâm. Chợt một người trung niên đeo mắt kiếng, cười cười góp ý.

Người đeo kiếng: Tôi phát biểu có lẽ là hơi lếu láo, xin chư quân tử xá tội cho. Tôi thấy ai phát biểu cũng đúng cả. Người sờ đến cái trán Trí Tuệ thì nói Phật giáoTrí Tuệ, đâu có sai! Người sờ được cái tâm Từ Bi thì nói Phật giáoTừ Bi, cũng đúng! Tự Tại, Tự Do, Giải Thoát, Giác Ngộ... đều đúng cả. Xin thưa, Phật giáo phải là toàn diện những điều quý vị vừa nói. Thiếu một, thiếu hai, thiếu ba... thì con-voi-thực-tại-toàn-diện của Phật giáo bị què, bị cụt còn gì? Vậy xin quý Ngài cho biết tôn ý?

Người đeo kiếng phát biểu xong, ai cũng cảm nhận là ông ta nói đúng nhất. Đúng! Phải là toàn bộ con voi, toàn bộ thực tại ấy. Chẳng có ai tranh luận vượt qua kiến giải ấy. Tuy nhiên, chợt có người thở dài, nhìn sang thì đấy là tiếng thở dài của một ông lão tóc trắng. Rồi vị ấy nói chậm rãi, nó nhỏ, như chỉ nói với mình:

- Trí Tuệ ư? Cũng hay! Nhưng kẻ có được trí tuệ thì dễ sinh cống cao, ngã mạn, coi thế gian này như cỏ rác. Trí tuệ thường đứng cao hơn nhân thế một cái đầu, hai cái đầu, sẽ cách biệt với cuộc đời. Do vậy, đã mấy năm sau này, tôi không còn dám học trí nữa mà tôi lại học "ngu". Học "ngu", cái mới kỳ! Tuy nhiên học "ngu" là để "hòa kỳ quang, đồng kỳ trần" đấy quý vị ạ. Tôi có nhớ Thiền sư Huyền Quang có mấy câu:

Ngu-trí, trí-ngu bình đẳng tướng
Ma cung, Phật quốc hảo sinh quan"

Còn Từ Bi? Cái này thì đúng rồi. Thiếu từ bi thì cuộc đời này đầy nước mắt, đầy gian ác, hận thù... Nhưng mà coi chừng, từ bi quá thì chúng sanh cứ ỷ lại, biếng nhác, luôn luôn mong cầu ơn trên cứu rỗi. Con hư tại mẹ đó mà! Vậy từ bi cực đoan sẽ làm cho cuộc đời này cũng hư như thế. Lại nữa, tâm từ bi quá cũng phiền. Có mật ngọt thì kiến ruồi dễ bu. Có từ bi thì chúng sanh dễ tìm đến hưởng lợi. Vô tình bị hệ lụy, bị ràng buộc mất rồi! Do vậy, ai thì tôi không biết, riêng tôi, tôi còn học thêm cái hạnh "không từ bi" nữa. Không từ bi nhưng không phải là ác tâm, hận tâm, sân tâm, xin quý vị hiểu cho.

Còn Tự Tại? Tôi cũng đồng ý. Nhưng tự tại quá tôi cũng ớn lạnh. Vì sao vậy? Người tự tại, trước hoàn cảnh nào cũng trầm ổn, định tĩnh, bình chân như vại, lúc nào cũng tỉnh queo, tỉnh khô. Nếu tự tại hơn chút nữa thì sẽ biến thành tảng đá, đỉnh núi khư khư bất động cũng ớn lắm. Lẽ đó, tôi còn học thêm cái "không tự tại".

Tự Do cũng vậy, cũng hay, nhưng tự do tâm linh hay tự do bản năng đây? Tự do bản năng thì không được rồi, còn tự do tâm linh thì lại khác. Kẻ có tự do tâm linh thì không còn thích sống tự do, họ tự qui định mình trong những mẫu mực, qui củ, hình thức, lễ nghi. Và tôi cũng vậy, tôi đang tu tập trên lối về "không tự do".

Giải Thoát à? Đạo Phật thường nói đến chủ đích này. Nhưng mà giải thoát hết thì tôi không thích, vì tôi đang còn ở trong cuộc đời này, tôi còn có vợ con, gia sản, tình huynh đệ, bằng hữu, thầy trò, thôn xóm, quê hương và cả nhân loại nữa. Nên tôi, với từng này tuổi đầu, tôi đang tập tành cái "không giải thoát".

Giác Ngộ nữa, đồng ý! Nhưng giác ngộ quá thì ta còn làm được điều gì trên cuộc đời này? Không làm được cái gì cả. Vì sao vậy? Vì giác ngộ nên ta đã biết ráo trọi mọi kết quả sau cùng, mọi kết quả hư huyễn "dã tràng xe cát biển đông" của nó. Giác ngộ thì sẽ không còn vọng tưởng để mà tạo hỏa tiễn máy bay, chinh phục sao kim, sao hỏa, xây dựng lâu đài, dinh thự... Do vậy sau này tôi còn học cái bài học "không giác ngộ" nữa.

Nói tóm lại, cả hai đàng đều phải học hết mới là trọn vẹn đạo Phật. Xin cạn lời!

Cuộc thảo luận đến đây dường như hết ý. Mọi người quay qua muốn nghe lời phát biểu của vị chủ trì.

Nhà sư mỉm cười nâng chung trà lên:

- Xin chư vị dùng trà kẻo nguội lạnh lâu rồi!

Mọi người lặng người giây lâu, rồi chợt cười ha hả.


Viết lại, Yên Hà Các, thu 1981
Nhuận sắc, Phong Trúc Am, thu 1996
Tái nhuận sắc, Am Mây Tía, thu 2002

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19413)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18526)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16049)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29864)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25458)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21603)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17808)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20819)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26315)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33321)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52140)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22870)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23405)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39639)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21789)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22375)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6835)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22723)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69796)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44003)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23060)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35029)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44087)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42908)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44411)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24906)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24352)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39200)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39227)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17252)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18037)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19258)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35669)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24214)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19584)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20399)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18299)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18990)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18935)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17470)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19315)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30827)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19179)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20522)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19543)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19760)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29815)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17831)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19396)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19875)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58764)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24403)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23512)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39752)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26710)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40758)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22856)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22914)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21585)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18607)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22589)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21078)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19207)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20928)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20324)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30549)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20176)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17460)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16593)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16845)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14952)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14832)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22862)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16038)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16201)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15247)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26097)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17190)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15786)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19766)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17667)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14674)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14730)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19122)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15114)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33043)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17486)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19124)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21814)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23000)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16617)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16465)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16507)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22983)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26376)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12743)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29509)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27709)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25903)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18457)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant