Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 3

30 Tháng Mười 201200:00(Xem: 10786)
Phần 3

MẶT HỒ TĨNH LẶNG

Thiền sư Ajahn Chah

Tỳ kheo Khánh Hỷ chuyển dịch


Phần III

Quên thời gian đi!

Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho việc hành thiền trở nên phức tạp và rối rắm. Chẳng hạn, khi ngồi xuống chúng ta quyết định, "Lần này phải thành công mới được." Đó không phải là một việc làm đúng, vì không gì có thể hoàn tất một cách vội vã được. Đó là một dính mắc mà các thiền sinh mới thường gặp phải.

Nhiều đêm khi bắt đầu ngồi thiền ta thường có ý nghĩ, "Tối nay nhất định không ngủ trước một giờ sáng." Nhưng chẳng bao lâu sau đó, tâm ta bắt đầu phản kháng và dấy loạn cho đến lúc ta có cảm tưởng rằng mình sắp chết đến nơi.

Khi ngồi thiền đúng thì không cần đo lường hay thúc buộc gì cả. Không có đích, không có mục tiêu để đạt tới. Dầu bạn có ngồi từ sáng sớm đến bảy tám giờ tối cũng không thành vấn đề. Chỉ cần ngồi mà không để ý đến thời gian. Đừng tự thúc bách mình. Đừng ép buộc mình. Đừng đòi hỏi tâm mình phải làm một điều gì có tính cách chắc chắn cố định. Hãy để tâm thoải mái, để hơi thở tự nhiên bình thường, đừng ép hơi thở dài hay ngắn theo ý mình. Hãy để cơ thể thoải mái. Thực tập đều đặn liên tục, lòng tham muốn sẽ hỏi bạn, "Ta sẽ ngồi đến lúc nào đây? Ta sẽ ngồi bao lâu đây?" Hãy quát lại nó (thầm thôi nhé!), "Này, đừng quấy rầy ta!" Phải đàn áp nó vì nó là phiền não đến quấy rầy bạn. Hãy nói, "Ta muốn ngồi bao lâu thì ta ngồi; ta muốn ngưng ngồi thiền lúc nào thì ngưng, chẳng có gì sai lầm cả. Nếu ta ngồi suốt đêm, ta làm hại ai đây? Tại sao ngươi đến quấy rầy ta?" Hãy cắt đứt lòng ham muốntiếp tục ngồi theo ý bạn. Để tâm thoải mái tự nhiên bạn sẽ đạt được bình an tĩnh lặng, thoát khỏi sức mạnh của tham ái.

Có một thiền sinh ngồi trước lư hương và nguyện đến lúc cây nhang tàn mới đứng dậy. Thế là anh ta cứ nhấp nhỏm theo dõi xem hương đã tàn đến đâu. "Tàn hết chưa? Mới có nửa cây à?" anh ta nghĩ. Có khi anh ta nguyện sẽ ngồi cho đến lúc hương tàn dầu có chết cũng không đứng dậy. Anh ta sẽ cảm thấy tội lỗi khủng khiếp nếu phải đứng dậy khi chưa hết giờ qui định. Ngồi thiền như thế là đã bị tham ái kiểm soát.

Đừng để ý đến thời gian. Hãy duy trì việc thực hành của mình một cách đều đặn và để sự tiến bộ đến dần với bạn. Khỏi cần phải nguyện hay thề gì cả, chỉ cần kiên trì cố gắng thực hành, để tâm tự nó bình an tĩnh lặng lấy. Cuối cùng bạn sẽ thấy mình có thể ngồi lâu một cách thoải mái, đó là bạn đã hành thiền đúng cách. Lúc đau nơi chân, bạn chỉ cần quan sát và biết sự đau. Bạn sẽ thấy cơn đau tự biến mất mà không cần đến sự giúp đỡ của bạn.

Thực hành theo cách này, bạn sẽ thấy có nhiều thay đổi diễn ra trong bạn. Khi đi ngủ bạn có thể tập cho tâm mình tĩnh lặng trước khi ngủ. Nếu trước đây bạn hay ngáy, hay mơ, nghiến răng, trăn trở, v. v., một khi tâm được huấn luyện thì mọi tật xấu trên sẽ biến mất. Dầu cho bạn có ngủ say đến đâu, lúc thức giấc bạn cũng tỉnh táo, không bần thần uể oải. Cơ thể an nghỉ nhưng tâm tỉnh thức suốt ngày đêm, đó là Phật, là kẻ hiểu biết, tỉnh thức, hạnh phúc sáng suốt. Phật không bao giờ ngủ, nhưng không bao giờ cảm thấy uể oải, thẫn thờ. Nếu bạn làm cho tâm trí mình kiên định như thế trong lúc hành thiền, bạn có thể thức liền hai ba hôm, và khi buồn ngủ vẫn có thể nhập định trong vòng năm mười phút là tỉnh dậy một cách tươi tắn như người đã ngủ trọn đêm. Ở mức độ này, bạn không cần phải nghĩ đến thân thể mình nữa, mặc dầu với tình thương và sự hiểu biết, bạn vẫn còn thấy thân thể này cần thiết.

Vài gợi ý trong việc hành thiền

Trong khi thực hành có thể có nhiều hình ảnhảo tưởng sẽ hiện ra trong tâm bạn. Bạn sẽ thấy những hình ảnh hấp dẫn, sẽ nghe những âm thanh khuấy động -- những loại như thế đều phải quan sát. Loại hình ảnh trong thiền minh sát này có thể có nhiều năng lực hơn những hình ảnh trong thiền định đơn thuần. Những gì hiện lên đều phải quan sátchỉ quan sát thôi. Gần đầy có một số người hỏi tôi, "Lúc tôi đang ngồi thiền có nhiều hình ảnh hiện ra trong tâm tôi, tôi phải điều tra nghiên cứu chúng hay chỉ ghi nhận sự đến đi của chúng?" Tôi đã trả lời, "Khi bạn thấy một vài người nào đó đi ngang qua, nếu họ là người lạ, bạn sẽ tự hỏi, 'Ai đấy? Họ đi đâu? Họ đang làm gì?' Nếu họ là người quen thì bạn chỉ cần ghi nhận rồi để họ đi qua."

Tham muốn, ao ước trong thực hành có thể là bạn hay kẻ thù. Thoạt đầu, sự tham muốn, ao ước thúc đẩy hay khích lệ việc hành thiền. Chúng ta muốn thay đổi sự vật, muốn hiểu biết, muốn chấm dứt đau khổ. Nhưng nếu luôn luôn ao ước chuyện chưa xảy ra, muốn sự vật diễn ra hay có đặc tính mà chúng không thể có thì chỉ gây thêm đau khổ thôi.

Một vài người hỏi, "Chúng tôi chỉ nên ăn khi đói, chỉ nghỉ mệt như các thiền sư Zen đề nghị hay chúng tôi nên thí nghiệm bằng cách làm ngược lại, nghĩa là ép mình trong khuôn khổ, giờ giấc định sẵn? Và nếu như vậy thì phải ấn định giờ giấc ngủ, nghỉ và số lượng thực phẩm như thế nào mới thích hợp?" Dĩ nhiên phải thí nghiệm, nhưng không thể nào ấn định số lượng nhiều ít được. Phải tự mình ấn địnhtìm hiểu lấy. Lúc mới thực hành, chúng ta chẳng khác nào đứa trẻ mới học viết những chữ cái, chữ viết lên xuống, nghiêng ngửa. Dần dần ta sẽ viết ngay ngắn đàng hoàng. Cuộc sống của chúng ta cũng như vậy, nếu chúng ta không sống như thế, chúng ta phải sống thế nào đây?

Thực hành tốt đẹp là tự hỏi mình một cách thành thật, "Tại sao ta sinh ra?" Tự hỏi mình như thế ngày ba lần -- sáng, trưa, tối. Ngày nào cũng tự hỏi như vậy.

Đức Phật dạy Đại đức Ananda phải nhìn thấy sự vô thường và sự chết trong mỗi hơi thở. Chúng ta phải biết cái chết; chúng ta phải chết để sống. Điều này có nghĩa như thế nào? Chết là chấm dứt tất cả mọi hoài nghi, mọi câu hỏi, và chỉ sống với thực tế hiện tại. Không phải ngày mai bạn mới chết, bạn phải "chết" ngay trong hiện tại. Bạn có thể làm được điều đó không? A! Tĩnh lặng làm sao, sự bình an tĩnh lặng của chấm dứt hoài nghi.

Tinh tấn thật sự là trạng thái của tâm chứ không phải của thân. Có nhiều phương pháp định tâm khác nhau cũng như có nhiều cách sống trên cõi đời này. Điều quan trọng là bạn phải tự ăn lấy, chứ không phải cách thức tìm kiếm thức ăn. Thực ra, khi tâm thoát khỏi tham ái, tâm định sẽ khởi lên một cách tự nhiên, chứ chẳng cần một điều kiện nào nữa.

Ma túy có thể mang lại những cảm giác đáng lưu ý, nhưng người dùng ma túy không tạo ra nguyên nhân của hiệu quả này. Họ chỉ tạm thời biến đổi bản chất, chẳng khác nào tiêm cho khỉ một chất thuốc khiến chúng vọt lên cây dừa để hái trái. Những kinh nghiệm này có thể đúng nhưng không tốt, hoặc là tốt nhưng không đúng, trong khi đó Giáo Pháp luôn luôn mang hai đặc tính tốt và đúng.

Đôi lúc chúng ta muốn ép tâm mình phải an tịnh, sự cố gắng như thế càng làm quấy nhiễu thêm. Trong trường hợp này, ta hãy ngưng ngay sự thúc ép, kết quả là tâm định sẽ xuất hiện. Nhưng trong trạng thái bình an tĩnh lặng này, chúng ta bắt đầu băn khoăn, "Sẽ có chuyện gì nữa đây? Điều gì đang xảy ra?" và chúng ta lại dao động trở lại.

Một ngày trước kỳ kết tập tam tạng lần thứ nhất, một vị sư đến nói với Ngài Ananda, "Ngày mai là ngày kết tập tam tạng. Những vị tham dự đều hoàn toàn đắc đạo." Lúc bấy giờ Ananda chỉ mới đạt quả thánh đầu tiên, nên Ngài quyết định dốc toàn lực hành thiền suốt đêm để đạt thành quả cuối cùng. Nhưng sự cố gắng quá sức này đã làm Ananda mệt mỏi. Không đạt được chút tiến bộ nào do nỗ lực của mình, Ananda quyết định đi nghỉ một lát. Nhưng trong khi đặt mình xuống nghỉ, đầu chưa chạm gối, Ananda đã đắc đạo. Tóm lại, chúng ta phải học cách loại bỏ tham ái, dầu đó là ý muốn đắc đạo, mới giải thoát được.

Quán chiếu mọi vật

Khi bạn tiếp tục hành thiền, bạn phải quan sát cẩn thận mọi kinh nghiệm, mọi giác quan của mình. Chẳng hạn khi quan sát đối tượng giác quan như tiếng động, sự nghe. Sự nghe của bạn là một chuyện, và âm thanh là một chuyện khác. Bạn chỉ cần tỉnh thức là đủ. Ngoài ra chẳng có ai hay vật gì cả. Hãy học cách chú ý một cách thận trọng. Quan sát để tìm ra chân lý một cách tự nhiên như vậy, bạn sẽ thấy rõ cách thức sự vật phân ly. Khi tâm không bám víu hay nắm giữ sự vật một cách bất di bất dịch theo ý riêng của mình, không nhiễm một cái gì, sự vật sẽ trở nên trong sáng rõ ràng.

Khi tai nghe, hãy quan sát tâm xem thử tâm đã bắt theo, đã nhận ra câu chuyện liên quan đến âm thanh mà tai nghe chưa? Bạn có thể ghi nhận, sống với nó và giác tỉnh trước nó. Có lúc bạn muốn thoát khỏi sự chi phối của âm thanh. Nhưng đó không phải là phương thức để tránh thoát. Bạn phải dùng sự tỉnh thức để thoát khỏi sự chi phối của âm thanh.

Chúng ta không thể kỳ vọng đạt được bình an tĩnh lặng tức khắc ngay khi hành thiền. Hãy để cho tâm yên nghỉ, để tâm làm theo ý nó muốn, chỉ cần quan sát mà đừng phản ứng gì cả. Đến khi sự vật tiếp xúc với giác quan chúng ta hãy thực tập tâm xả. Hãy xem mọi cảm giác như nhau. Xem chúng đến và đi như thế nào. Giữ tâm ở yên trong hiện tại. Đừng nghĩ đến chuyện đã qua, đừng bao giờ nghĩ, "Ngày mai ta sẽ làm chuyện đó." Nếu lúc nào chúng ta cũng thấy những đặc tính thực sự của mọi vật trong giây phút hiện tại này, bất cứ cái gì tự nó cũng thể hiện Giáo Pháp cả.

Huấn luyện tâm cho đến khi tâm ổn cố, từng trải, kinh nghiệm. Lúc bấy giờ, khi sự vật diễn biến bạn sẽ nhận chân được chúng một cách rõ ràng mà không bị dính mắc vào chúng. Bạn đừng ép buộc tâm tách rời khỏi đối tượng giác quan. Khi bạn thực hành, chúng sẽ tự tách rời lấy và hiện bày ra những yếu tố đơn giản là Thân, Tâm.

Khi ý thức được hình sắc, âm thanh, mùi vị đúng theo chân lý, bạn sẽ thấy tất cả đều có một đặc tính chung -- vô thường, khổ và vô ngã. Mỗi khi nghe một âm thanh, âm thanh sẽ ghi vào tâm bạn đặc tính chung ấy. Nghe cũng như không nghe đều như nhau. Chánh niệm luôn luôn ở với bạn, bảo vệ cho sự nghe. Nếu lúc nào tâm bạn cũng đạt được trình độ này, sự hiểu biết sẽ nảy nở trong bạn. Đó là Trạch Pháp Giác Chi, một trong bảy yếu tố đưa đến giác ngộ. Yếu tố trạch pháp này suy đi xét lại, quay tròn, tự đảo lộn, tách rời khỏi cảm giác, tri giác, tư tưởng, ý thức. Không có gì có thể đến gần nó. Nó có công việc riêng để làm. Sự tỉnh giác này là một yếu tố tự động có sẵn của tâm, bạn có thể khám phá ra nó ở giai đoạn đầu tiên của sự thực hành.

Bạn thấy gì, bạn làm gì đều phải ghi nhận. Đừng bao giờ rời khỏi thiền. Nhiều người nghĩ rằng họ có thể xả thiền vào cuối giờ ngồi thiền. Hết giờ hành thiền họ cũng chấm dứt luôn việc theo dõi, quan sát thân tâm. Không nên làm như thế. Thấy bất cứ cái gì, bạn cũng phải quan sát. Thấy người tốt kẻ xấu, người giàu kẻ nghèo, phải quan sát theo dõi. Thấy người già người trẻ, người lớn người nhỏ, đều phải quan sát. Đó là cốt tủy của việc hành thiền.

Trong khi quan sát để tìm kiếm Giáo Pháp, bạn phải quan sát đặc tính, nhân quảvai trò của các đối tượng giác quan, lớn nhỏ, trắng đen, tốt xấu. Nếu đó là sự suy nghĩ thì chỉ đơn thuần biết đó là sự suy nghĩ. Tất cả những đối tượng này đều là vô thường, khổ và vô ngã. Không nên dính mắc vào chúng. Tỉnh thức là nghĩa trang của chúng, hãy vất tất cả chúng vào đấy. Làm được như thế bạn sẽ thấy được đặc tính vô thường rỗng không của mọi vậtchấm dứt khổ đau. Hãy tiếp tục quan sát, thẩm nguyện cuộc sống này. Khi gặp một điều tốt đẹp, hãy ghi nhận xem tâm bạn lúc ấy thế nào? Bạn vui chăng? Nên quan sát sự vui này. Dùng vật gì độ một thời gian bạn bắt đầu thấy chán, muốn cho hay bán đi. Nếu không ai mua bạn sẽ vất bỏ. Tại sao vậy? Cuộc sống của chúng ta luôn luôn biến đổi không ngừng. Bạn hãy nhìn vào chân lý này. Một khi bạn đã hiểu cặn kẽ một trong những biến cố này, bạn sẽ hiểu tất cả. Tất cả đều có cùng một bản chất.

Có thể bạn không thích một loại hình ảnh hay âm thanh nào đó. Hãy ghi nhận điều này. Về sau có thể bạn lại thích điều mà trước đây bạn từng ghét bỏ. Nhiều chuyện tương tự như thế xảy ra. Khi bạn nhận chân ra rằng mọi chuyện trên thế gian đều vô thường, khổ và vô ngã, bạn sẽ vất bỏ tất cả, và mọi luyến ái sẽ không còn khởi dậy nữa. Khi bạn thấy mọi vật, mọi chuyện đến với bạn đều như nhau, lúc bấy giờ bạn sẽ thản nhiên trước mọi sự, và mọi chuyện chỉ là các pháp khởi sinh mà chẳng có gì đặc biệt khiến bạn phải bận lòng. Khi đó Giáo Pháp sẽ xuất hiện.

Một khi bạn đã bước vào dòng suối này và nếm được hương vị giải thoát, bạn sẽ không còn phải trở lại nữa, không còn nhận thức và hành động sai lầm nữa. Tâm trí bạn sẽ biến đổi, chuyển hướng nhập lưu. Bạn không còn rơi vào đau khổ nữa. Lúc bấy giờ bạn sẽ vứt bỏ mọi tác động sai lầm, bởi vì bạn thấy rõ mọi hiểm nguy trong các tác động sai lầm này. Bạn không nói hay làm những điều lầm lạc nữa. Bạn sẽ hoàn toàn đi vào Đạo. Bạn sẽ hiểu rõ bổn phận, sự vận hành, lối đi, và bản chất tự nhiên của con đường này. Bạn sẽ buông xả mọi chuyện cần buông xảtiếp tục buông xả mọi chuyện, không chút ưu tư thắc mắc.

Những điều tôi nói nãy giờ chỉ đơn thuần là những lời nói. Ai đến gặp tôi, tôi sẽ có chuyện để nói với họ. Nhưng tốt nhất là chẳng nên nói nhiều về những điều này. Việc thực hành quan trọng hơn. Hãy bắt tay vào việc thực hành. Đừng chần chờ gì nữa. Tôi chẳng khác nào một người bạn tốt mời bạn đi đến một nơi nào đó. Đừng do dự nữa, hãy lên đường. Bạn sẽ không bao giờ ân hận đâu.

Lá rụng

Vào mùa lá rụng, cứ vài hôm chư tăng trong thiền viện lại chia nhau quét lá ở lối đi và sân chùa. Trên những khoảng sân rộng, một hai vị sư quét không xuể, phải nhiều sư hợp lại, dùng những cây chổi cán dài, cùng nhau quét. Những cây chổi dài chuyển động chẳng khác nào những trận cuồng phong thổi đám là vàng tung bay như đàn bướm. Nhưng một lát sau, rừng cây lại tiếp tục dạy ta bài học mới. Lá lại rụng, các nhà sư lại tiếp tục quét. Quét xong đàng này, đàng kia lá đã tràn ngập; quét đến cuối lối mòn, đầu lối mòn đã vàng rực màu lá.

Cuộc sống của chúng ta khác nào hơi thở ra vào, giống như lá sinh ra rồi rụng xuống. Khi hiểu được bài học lá rụng, chúng ta có thể quét sạch lối đi hàng ngày và gặt hái hạnh phúc lớn lao trong cuộc sống phù du biến đổi này.

Đời sống một nhà sư

Một nhà sư trẻ sẽ sống an lạc hạnh phúc trong rừng sâu khi biết chiêm nghiệm bản chất thiên nhiên của sự vật. Khi nhìn quanh thầy ý thức được sự biến hoại của tất cả mọi hình thái và tất cả đều đi đến nơi hủy diệt.

Chẳng có gì trường cửu trên thế gian. Ý thức được điều này, nhà sư bắt đầu an nhiên tĩnh lặng.

Nhà sư tập bằng lòng với sự thiếu thốn: chỉ ăn những gì thấy cần, chỉ ngủ khi cần thiết, thỏa thích với tất cả những gì mình có. Đó là căn bản của thiền Phật Giáo. Nhà sư Phật Giáo không hành thiền với lý do vị kỷ. Trái lại, các thầy hành thiền để tự hiểu biết chính mình, đồng thời để có thể chỉ dạy kẻ khác sống trong bình an hiểu biết.

Thiền không phải chỉ là sống an lành trong cuộc đời này. Ngược lại, phải đương đầu với chính mình chẳng khác nào dấn thân vào phong ba bão táp. Lúc bắt đầu hành thiền tích cực, chúng ta thường cảm thấy chán nản, thất vọng đến nỗi muốn tự sát nữa là khác. Một số người nghĩ rằng đời sống của sư sãi thật rảnh rỗi và dễ dàng. Cứ để họ thử đi và xem họ chịu đựng được bao lâu. Nghiệp vụ của các nhà sư thật khó khăn. Các vị phải tích cực trong công tác tự giải toả tâm mình để lòng từ ái bao trùm mọi vật. Trong khi nhìn thấy sự sinh diệt của đời sống, nhà sư ý thức được rằng chẳng có gì tùy thuộc vào thầy cả, nhờ thế thầy dồn đau khổ đến đường cùng.

Nếu hành thiền một cách nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ gặt hái được thành quả ngay. Bạn cứ thử đi sẽ thấy, tôi chẳng cần quảng cáo làm chi.

Thu thúc

Lối sống thế tụctính cách hướng ngoại, buông lung. Lối sống của nhà tu bình dịtiết chế. Nhà sưlối sống khác hẳn kẻ thế tục, từ bỏ thói quen, ăn ngủ và nói ít lại. Nếu làm biếng, phải tinh tấn thêm; nếu cảm thấy khó chịu đựng, phải kiên nhẫn thêm; nếu cảm thấy yêu chuộng và dính mắc vào thân xác, phải nhìn những khía cạnh bất tịnh của cơ thể mình.

Nhiều người cho rằng, "Đối kháng lại dục vọng, tham ái, là một điều khó khăn, chúng ta hãy nương theo nó và bỏ dần, đây là một phương pháp chậm chạp nhưng có hiệu quả." Tôi không đồng ý như thế, vì dung túng cho tham ái, dục vọng bạn sẽ không bao giờ đến đích được.

Giới luậtthiền định hỗ trợ tích cực cho việc luyện tâm, giúp cho tâm an định và thu thúc. Nhưng bề ngoài thu thúc chỉ là một sự chế định, một dụng cụ giúp tâm an tịnh. Bởi vì dù bạn có cuí đầu nhìn xuống đất đi nữa, tâm bạn vẫn có thể bị chi phối bởi những vật ở trong tầm mắt bạn.

Có thể bạn cảm thấy cuộc sống khó khăn và bạn không thể làm gì được. Nhưng càng hiểu rõ chân lý của sự vật, bạn càng được khích lệ hơn. Giả sử trên đường về nhà, bạn dẫm phải gai. Gai đâm sâu vào chân bạn. Quá đau đớn bạn cảm thấy không thể nào đi nổi. Thế rồi, thình lình một con cọp xuất hiện. Bạn quên hết cái đau, nhỏm dậy chạy về nhà.

Phải luôn luôn tự hỏi, "Tại sao ta xuất gia?" Hãy xem câu này như một khích lệ giúp ta tiến bước. Không phải xuất gia để được thoải máihoan lạc. Sống ở đời còn dễ dàng hơn nhiều. Trong lúc đi khất thực, phải luôn luôn tự hỏi, "Tại sao ta phải làm như vầy? Ta không nên bỏ thói quen này." Khi nghe pháp, bạn nghe lời dạy hay chỉ nghe âm thanh? Có thể lời nói đi vào tai, nhưng bạn đang suy nghĩ, "Khoai lang điểm tâm sáng nay thật tuyệt."

Phải giữ tâm chánh niệm thật sắc bén. Trong khi làm các công việc trong tu viện phải làm với sự chú ý. Phải biết mình đang làm gì, đang có cảm giác gì trong khi làm. Phải biết rằng khi tâm quá dính mắc vào ý niệm thiện ác của nghiệp là tự mang vào mình gánh nặng nghi ngờbất an vì luôn luôn e sợ không biết hành động của mình có sai lầm, có tạo nên nghiệp ác không. Đó là một sự dính mắc cần tránh. Quá dính mắc vào điều này làm bạn trở nên e dè sợ hãi mỗi khi làm công việc gì. Chẳng hạn lúc quét nhà, bạn lo sợ sẽ làm kiến chết. Trong khi đi, bạn lo sợ sẽ làm hại cây cỏ. Càng giữ giới trong sạch, những nghi ngờ lo sợ càng đến với bạn nếu bạn dính mắc vào giới. Nếu tiếp tục băn khoăn lo lắng, bạn chỉ đạt được sự bình an tạm thời. Bạn phải hiểu rõ tiến trình của hoài nghi để chấm dứt nó.

Trong lúc tụng kinh chúng ta thường nói rằng chúng ta là những kẻ phụng sự Đức Phật. Phụng sự có nghĩa là hoàn toàn đặt mình dưới quyền điều khiển và sử dụng của ông chủ, và ông chủ sẽ ban cho ta mọi nhu cầu: thức ăn, quần áo, chỗ ở, lời hướng dẫn, v. v.

Chúng ta, những kẻ mặc áo thừa kế của Đức Phật, phải hiểu rằng mọi nhu yếu chúng ta nhận được từ thiện tín nhờ đức hạnh của Đức Phật chớ không phải ở phước báu riêng của chúng ta. Chúng ta phải biết tri túc trong vật dụng (thức ăn, y phục, chỗ ở, thuốc men). Chẳng cần phải mặc y thật tốt; y chỉ cốt đủ che thân. Chẳng cần phảithức ăn ngon; thực phẩm chỉ để nuôi mạng sống. Đi trên đường Đạo là đối kháng lại mọi phiền nãoham muốn thông thường.

Một nhà sư lúc đi khất thực, nếu thấy lòng tham muốn nói, "Cho tôi nhiều", ngài sẽ nói, "Cho tôi ít". Nếu phiền não nói, "Cho tôi mau mau", hạnh thu thúc sẽ nói, "Cho tôi chậm chậm". Nếu tham ái muốn thức ăn nóng và mềm, hạnh thu thúc sẽ yêu cầu nó lạnh và cứng.

Trong mọi hành động của chúng ta -- mặc y, đi bát, đều phải làm trong chánh niệm. Giáo phápgiới luật Đức Phật ban cho ta chẳng khác nào một vườn cây trái ngon ngọt. Chúng ta khỏi bận tâm về việc gieo trồng và săn sóc. Chúng ta cũng khỏi phải lo sợ gặp phải trái cây độc hay không thích hợp. Tất cả đều có lợi íchtốt đẹp cho ta.

Một khi đạt được sự mát mẻ bên trong, bạn không nên vất bỏ nếp sống tu viện này. Bạn hãy làm khuôn mẫu cho những kẻ đến sau, đó là thái độ của những nhà sư giác ngộ.

Giới là dụng cụ

Nhiều người sợ mình hành động sai lầm, tội lỗi, lo lắng quá đáng đến độ mất ngủ. Lúc còn dính mắc vào giới luật thì giới luậtgánh nặng, dần dần bạn sẽ giữ giới một cách nhẹ nhàng và thoải mái hơn. Nhưng thoạt đầu bạn phải trải qua thời kỳ nặng nề cũng như trước khi vượt qua đau khổ, bạn phải đau khổ trước. Một người tận tâm, chu đáo trong việc tu hành, trước tiên phải chịu nhiều khó khăn, chẳng khác nào cá nước ngọt phải sống trong nước mặn. Cố gắng giữ giới luật khiến mắt bạn nóng bỏng, xốn xang.

Một người thờ ơcẩu thả trong việc giừ gìn giới luật thì sẽ chẳng cảm thấy bị phiền lụy chút nào, nhưng họ cũng chẳng bao giờ có dịp học hỏi để thấy chân lý.

Giữ hai trăm hai mươi bảy (227) giới là điều thiết yếu mà một nhà sư phải hành trì. Chúng ta phải giữ gìn giới luật trong sạch. Nhưng không phải chỉ giữ giới là đủ. Hãy nhớ rằng giới chỉ là sự chế định hay dụng cụ mà thôi. Không cần phải nghiên cứu hết mọi ý nghĩa lý của giáo pháp hay thông hiểu hết tất cả luật lệ. Cũng như khi làm một con đường băng qua rừng, bạn chẳng cần phải đốn hết cây rừng.

Mọi phương pháp thực hành đều dẫn đến giải thoát, trở thành người thấy rõ ánh sáng trong mọi thời gian. Con đường duy nhất giúp giới tịnh là làm cho tâm trong sạch.

Sang trái, sang phải

Một nhà sư Tây phương lưu ngụ ở Wat Pah Pong đã lấy làm thất vọng vì phải thực hành khó khăn và phải giữ nhiều giới luật phức tạp và có vẻ phi lý. Thầy bắt đầu chỉ trích những vị sư khác là hành thiền tùy tiện không đến nơi đến chốn. Thầy nghi ngờ những lời dạy của Ajahn Chah. Một dịp nọ thầy đến gặp ngài Ajahn Chah than phiền, cho rằng ngay chính ngài Ajahn Chah cũng mâu thuẫn và dường như nhiều lúc đi ngược lại đường lối giải thoát.

Ajahn Chah cười và cho biết nhiều nhà sư đã tự gánh lấy đau khổ khi chú ý phán đoán những người chung quanh. Sau đó Ajahn Chah giải thích cho nhà sư Tây phương rõ đường lối giảng dạy đơn giản của ngài: Cũng giống như trường hợp tôi thấy một người đang đi trên con đường mà tôi quen thuộc. Tôi theo dõi và biết người ấy sắp rơi vào hố bên phải của con đường. Tôi bèn gọi người ấy, "Hãy đi sang trái, sang trái". Cũng thế, khi thấy một người sắp rơi vào hố bên trái, tôi lại lớn tiếng, "Sang phải, sang phải". Đó là phạm vi chỉ dẫn của tôi. Bất kỳ thầy dính mắc vào cực đoan nào, dính mắc vào cái gì tôi đều bảo, "Hãy buông bỏ chúng đi. Hãy đi sang phải, hãy đi sang trái, rồi trở về trung tâm". Làm như thế thầy sẽ đến gặp Chân pháp.

Chữa trị bất an

Đây là phương pháp đối trị bất an và phóng tâm:

-- Ăn thật ít. Đừng nói chuyện với ai.

Sau bữa cơm, trở về liêu cốc của mình, đóng cửa lớn và cửa sổ, mặc nhiều áo vào, ngồi xuống, cảm thấy thế nào cũng mặc kệ.

Bằng cách này bạn sẽ trực tiếp đối diện với bất an. Khi cảm giác khởi dậy, hãy đặt câu hỏi với chúng. Bạn sẽ thấy chúng chỉ là cảm giác mà thôi.

Khi bạn cần đi sâu vào việc thực hành, sẽ có lúc những căng thẳng lớn lao trong tâm hồn bạn trôi theo những giọt mồ hôi và nước mắt. Nếu bạn chưa trải qua vài lần như thế, bạn chưa hành thiền thật sự.

Ý nghĩa sâu xa của việc tụng kinh

Mỗi buổi sáng, sau khi đi khất thực về, các nhà sư vào trai phòng ngồi thành hai dãy dài. Họ chắp tay cung kíng đọc kinh trước khi vào bữa ăn. Đây là những bài kinh chúc lành bằng tiếng Pali, nhắc lại những lời dạy của Đức Phật, trở về với thời kỳ Phật còn hiện tiền. Thiện nam tín nữ thuần thành đem thực phẩm đến dâng cúng cho chư tăng ngồi yên lặng thành khẩn khi các nhà sư tụng kinh. Sau đó chư tăng dùng cơm trong yên lặng chánh niệm.

Một vị khách Tây phương, còn mới mẻ với nếp sốngtruyền thống trong tu viện, hỏi Ngài Ajahn Chah ý nghĩa việc tụng kinh:

-- Phải chăng những nghi lễ này có một ý nghĩa sâu xa bên trong?

Ajahn Chah trả lời:

-- Vâng, rất có ý nghĩa. Đặc biệt là đối với những nhà sư đang đói bụng mà phải tụng kinh như thế này trước khi được ăn bữa cơm độc nhất trong ngày. Bài kinh bằng tiếng Pali có nghĩa là "Cám ơn." Họ nói, "Rất cám ơn!"

Chân lý nằm trong những công việc hèn mọn

Việc hành thiền ở đây thật ra chẳng có gì khó khăn, thế nhưng vẫn có nhiều người không muốn làm. Chùa Wat Pah Pong trong những ngày đầu tiên rất thiếu thốn, không có điện, không có giảng đường hay phòng ăn lớn. Bây giờ chúng ta đã đầy đủ và chúng ta phải chăm nom săn sóc chúng. Tiện nghi luôn luôn phát sinh ra những phức tạp, rắc rối.

Chúng ta, mọi người đều có nhiều bổn phận với ngôi tu viện này. Chăm sóc cốc liêu và nhà vệ sinh là môt việc làm quan trọng. Những việc đơn giản khác cũng quan trọng không kém, chẳng hạn như lau quét giảng đường, rửa bát cho các vị sư lớn tuổi, giữ sạch sẽ cốc liêu và nhà vệ sinh. Những cái dơ dáy nhất -- chúng ta phải thừa nhận trước tiên là cơ thể chúng ta, chúng ta cũng phải giữ sạch sẽ.

Đây không phải là việc làm khiếm nhã hay hèn mọn. Chúng ta phải hiểu biết một cách xa hơn, đây là việc làm tinh sạch nhất. Mọi công việc đều làm trọn vẹn, chánh niệm thì vừa đem lại lợi ích cho ta, vừa thể hiện việc hành thiền có kết quả tốt đẹp.

Sống hòa thuận, hài hòa với người khác

Một trong những mục đích luân lýđạo đức là sống hòa thuận, hài hòa với những người bạn tinh thần. Mục đích của chúng ta là vậy chứ không phải chỉ nhằm thỏa mãn những ham muốn ích kỷ của mình. Hiểu biết vị thế và tôn trọng các bậc truởng thượng là một phần quan trọng của giới luậtchúng ta hành trì.

Muốn sống hài hòa với mọi người, chúng ta phải loại bỏ tính kiêu căng tự phụ, cho mình là quan trọng hơn cả, đồng thời cũng không dính mắc vào những lạc thú phù du. Nếu không vất bỏ yêu ghét, thực ra bạn chưa có được chút nỗ lực tinh tấn nào. Không vứt bỏ có nghĩa là đi tìm an bình nơi không bình an. Hãy tự khám phá chân lý này. Chẳng cần phải lệ thuộc vào một đạo sư bên ngoài -- thân và tâm không ngừng dạy ta. Hãy lắng nghe bài thuyết giảng của chúng để không còn hoài nghi nữa.

Con người luôn luôn bị dính mắc vào ý nghĩ cho mình là lãnh tụ, người lãnh đạo. Cũng có kẻ dính mắc vào chuyện mình là một học trò, một môn đệ. Có ai tự hào rằng mình không phải là học trò khi mình có thể học hỏi ở tất cả mọi vật? Ai có thể dạy dỗ tất cả mọi điều mà không phải là thầy?

Hãy lấy việc vái lạy làm phương cách bảo vệ thế giới quanh bạn. Hãy vái lạy một cách tôn kính và đầy tình thương. Khi trở về cốc liêu một mình, hãy để mọi thứ xuống và việc trước tiên là nằm dài ra lạy. Muốn đi ra ngoài để quét dọn, hãy nằm dài ra lạy trước. Lúc quét dọn xong trở vào, lại tiếp tục lạy nữa. Vào nhà vệ sinh, phải vái lạy trước. Và vái lạy trước khi trở về phòng. Hãy nhủ thầm, "Mọi lỗi lầm do thân, khẩu, ý tôi gây ra, cầu mong đuợc tha thứ." Luôn luôn giữ mình chánh niệm.

Tu sĩ chúng ta là những kẻ đại may mắn. Chúng ta có chỗ ở, có bạn lành, có cư sĩ hỗ trợ và có Giáo Pháp. Chỉ còn việc thực hành nữa thôi.

Tiết chế lời nói

Muốn nói ít thì chỉ nói khi có ai hỏi, chỉ nói khi cần. Khi có ai hỏi, "Sư đi đâu?" chỉ cần trả lời, "Đi lấy gỗ mít." Nếu họ hỏi tiếp, "Lấy gỗ mít để làm gì?" chỉ trả lời, "Để nhuộm y." Thay vì trả lời dài dòng, "Tôi vừa từ Bangkok đến. Tôi nghe nói quanh đây có nhiều gỗ mít tốt. Vì vậy tôi đến kiếm một ít đem về nhuộm y. Tồi vừa mới may xong chiếc y tuần rồi. Còn anh thì sao, tuần này thế nào?"

Kẻ xuất gia không nên nói nhiều và thích quần tụ. Điều này không có nghĩa là phải hoàn toàn tịnh khẩu. Nhưng nhà sư chỉ nói khi cần thiết và hữu ích. Trong tu viện của ngài Ajahn Chah, buổi chiều sau khi các nhà sư đã kéo nước, quét dọn, tắm rửa, không còn nghe một âm thanh nào ngoài tiếng dép đi kinh hành của các nhà sư. Thường thì mỗi tuần một lần, các nhà sư vào giảng đường để nghe chỉ dẫn hoặc học hỏi giáo lý. Xong xuôi, các vị lại trở về cốc liêu để ngồi thiền hay đi kinh hành. Các đường đi lại trong thiền viện đã khá mòn trước đây, nhưng ngày nay vì các nhà sư ít đi lại nên người ta chỉ thấy dấu chân những con chó trong làng.

Càng ngày càng khó tìm ra những thiền viện tốt đẹp. Bởi thế một số nhà sư cho rằng Phật Giáo chỉ chú trọng vào việc nghiên cứu học hỏi giáo lýkhông thật sự thực hành. Khắp nơi người ta chỉ lo đốn cây khai rừng để tạo nên những ngôi chùa mới mà chẳng lưu tâm gì đến việc luyện tâm. Ngày xưa trái lại, các thiền sư chỉ sống với thiên nhiênkhông kiến tạo gì cả. Ngày nay các tín đồ xem việc xây dựng chùa chiền là hoạt động chính của tôn giáo và đó là lãnh vực mà nhiều người ưa thích. Như vậy cũng đúng. Nhưng chúng ta phải hiểu mục đích của việc xây dựng chùa chiền. Việc thực hành giáo pháp của nhà sư chiếm khoảng 80 đến 90% thì giờ, thời gian còn lại dành để giúp đỡ mọi người. Lại nữa, muốn dạy người khác, tự mình phải kiểm soát được mình; có kiểm soát được chính mình mới có đủ khả năng giúp đỡ người. Đừng mang gánh nặng của kẻ khác. Những buổi nghe Pháp là cơ hội để kiểm điểm lại tâm mình, kiểm điểm lại sự thực hành của mình. Điều quan yếu là phải thực hành những điều đã học hỏi. Bạn có thể tìm thấy những lời dạy dỗ này trong chính bản thân bạn không? Bạn đã thực hành đúng hay gặp một vài khuyết điểm? Bạn có tầm nhìn đúng không? Không ai có thể thay bạn làm những điều này. Bạn không thể diệt hoài nghi nhờ nghe người khác. Bạn có thể tạm thời xoa dịu mọi nghi nan của bạn, nhưng chuyện rồi đâu lại vào đấy, và nhiều câu hỏi lại phát sinh ra. Cách duy nhất để chấm dứt hoài nghi là chính bạn phải tự mình diệt chúng.

Chúng ta phải dùng phương pháp độc cư trong rừng để thanh lọc tâm chứ không phải để tách rời với mọi người hay để đào thoát. Làm thế nào có thể đào thoát khỏi tâm chúng ta; làm thế nào có thể trốn khỏi vô thường, khổ và vô ngã, khi chúng nó có mặt khắp nơi? Chúng chẳng khác nào mùi hôi thối của phân. Dầu dính ít hay nhiều vẫn hôi như nhau.

Đối diện với tham ái

Nếu đời sống thế tục thuận lợi cho việc hành thiền, Đức Phật đâu có khuyến khích chúng ta đi tu làm gì. Thân và Tâm chúng ta là những băng đảng cướp của giết người luôn luôn lôi kéo chúng ta đến hầm lửa tham lam, sân hận, si mê. Đời sống thế tục có rất nhiều khó khăn trở ngại, ngũ dục luôn luôn lôi cuốn. Chúng mời gọi chúng ta đến căn nhà ái dục với một giọng nói ngọt ngào thân thiện, "Đến đây! Hãy đến đây!" Và khi bạn đến gần, cửa mở, súng nổ.

Bạn có thể đối trị tham ái bằng cách hành phép đầu đà -- chỉ dùng các vật dụng cũ kỹ, không hấp dẫn, hoặc hành thiền quán sát tử thi. Xem mọi người, kể cả chính bạn, chỉ là những xác chết, những bộ xương. Hành thiền cách này thực ra không phải dễ, bởi vì khi chợt thấy hình ảnh một cô gái đẹp, bạn sẽ không còn thấy xác chết nữa.

Niệm thân là cách tập luyện để đối kháng lại những quan niệm sai trái của mình. Chúng ta thường xem thân này tốt đẹp. Trong khi đó Đạo giải thoát bảo ta nhìn cơ thể này chỉ là những tập hợp của vô thường và bất toại nguyện. Khi chúng ta còn trẻ trung, khoẻ mạnh, chưa nhuốm bệnh ngặt nghèo, chúng ta dễ có những hành động và ý nghĩ sai lầm -- cái chết đối với chúng ta thật xa vời, chẳng phải sợ hãi gì cả. Những người không hành thiền thì mãi đến lúc mang bệnh nặng hay tuổi già đến, họ mới thay đổi quan niệm. Tại sao phải đợi đến lúc ấy? Hãy làm như người đã chết, mặc dầu lòng tham ái của bạn không bao giờ chết; đúng vậy, nhưng xem chúng như đã chết.

Đôi khi cần phải đi đến một thái cực, chẳng hạn sống gần với thú dữ, thấy nguy hiểm đe doạ tánh mạng mình, bạn không còn thì giờ để nghĩ đến tình dục nữa. Bạn cũng có thể bớt ăn hay nhịn ăn để giảm sự kích thích.

Một số nhà sư sống trong nghĩa địa, lấy tử thi làm đề mục hành thiền. Đây là đề mụchiệu quả chế ngự tình dục. Lúc còn trẻ tôi thích sống với những người già, hỏi họ thử xem cái già đến với họ như thế nào? Khi nhìn họ, tôi nhận thức được rằng chúng ta ai cũng phải đi con đường này. Tâm luôn luôn nghĩ đến cái chết, đến sự hủy diệt; không còn chút quyến luyến hay kỳ vọng gì vào cuộc đời này sẽ khiến chúng ta cảm thấy hoan hỉđịnh tâm. Khi thấy sự vật như nó đang hiện hữu, nghĩa là thấy sự vật theo chân tướng của nó, ta sẽ không bị nó ràng buộc. Sau đó, khi đã có tâm định kiên cố, chúng ta sẽ không còn gặp khó khăn nữa. Chúng ta còn bị ái dục lôi kéo vì thiền tâm chưa kiên cố. Khi trở thành những nhà sư sống trong rừng, chúng ta không còn để cho phiền não tự do hoành hành nữa, vì chúng ta đã nếm mùi những cú đá khá đau của chúng. Chỉ có kiên nhẫnchịu đựng mới là phương thuốc thích hợp. Thực vậy, trong lúc hành thiền, chẳng có gì cả ngoài sức chịu đựng. Thế mà nhờ sự chịu đựng, tất cả đều sẽ thay đổi.

Có nhiều người cho rằng chúng ta điên khi thấy chúng ta ngồi trong rừng bất động như những tượng đá. Nhưng họ đã sống ra sao? Họ cười, họ khóc, họ dính mắc vào sự vui buồn. Có khi họ giết nhau hay tự sáttham lam sân hận. Vậy thì ai điên đây?

Hãy luôn luôn nhớ kỹ trong tâm: Tại sao ta xuất gia? Người nào đến hành thiền như chúng ta mà không hưởng được hương vị giải thoát thì đã phí thì giờ vô ích. Những cư sĩ, với gia đình, nghề nghiệp, trách nhiệm, mà còn nếm được hương vị giải thoát, huống hồ một người xuất gia. Một tu sĩ nếu chịu hành thiền chắc chắn sẽ thành công.

Hoàn cảnh có thể thay đổi, nhưng tâm vẫn thế

Người ta thường nghĩ rằng từ bỏ hết đời sống thế tục, mặc y, mang bát, làm một vị sơn tăng là vất bỏ lại sau lưng tất cả những gì thuộc tư hữu của mình. Không còn làm chủ xe cộ, máy móc, sách vở, áo quần, nhà sư hoàn toàn tự do. Nhưng tâm luyến ái, như một cái bánh trớn, không thể đứng lại ngay mà phải dừng lại từ từ.

Bởi thế, một số nhà sư Tây phương vừa mới vất bỏ của cải trần thế đã sớm dính mắc vào y, bát. Họ nhuộm y thật đúng màu, xoay sở đủ cách để làm chủ một chiếc bát mới, nhẹ, làm bằng sắt không gỉ. Bận tâm, lo săn sóc hay dính mắc vào vài ba vật sở hữu có thể làm mất nhiều thì giờ, trong khi đó công việc của nhà sư là chỉ hành thiền mà thôi.

Một vài nhà sư Tây phương đã từng du lịch nhiều nơi trên thế giới trước khi đi tu. Họ đã tự do ăn mặc và sống theo sở thích trước đây; chẳng bao lâu họ sẽ cảm thấy đời sống an phận, khuất phục trong thiền viện rất tù túng, áp chế và khó khăn. Râu tóc cạo như nhau, y áo cùng kiểu, cách vái chào các sư cao hạ, cách ôm bình bát,v. v., đều cùng một lối giống nhau cả. Dù cho có chủ tâm tốt, người Tây phương cũng khó có thể cảm thấy thoải mái trong lối sống khuôn mẫu, thu thúc này.

Một vị sư đặc biệt trước đây không những là khách du lịch thường xuyên mà còn tự xem mình là một tín đồ của "đợt sóng mới," đội những chiếc nón thêu hoa đủ màu, trên gắn những cái chuông nhỏ, tóc dài để bím, v. v. Sau một vài tuần sống thúc bó trong qui củ thiền viện, một đêm nọ nhà sư thức giấc vào lúc nửa đêm vì một cơn ác mộng. Trong mộng nhà sư thấy mình mặc bộ y nhuộm đủ màu xanh đỏ; chiếc bát cũng được vẽ hoa lá và những đường ngoằn ngoèo theo lối hoa văn Tây Tạng.

Ajahn Chah cười khi nghe thuật chuyện sáng hôm sau, và ngài hỏi thăm nhà sư về sự tự do ở Mỹ. Phải chăng tự do thể hiện qua kiểu để tóc hay lối ăn mặc? Có lẽ sau đó Ajahn Chah nhắc nhở nhà sư và đưa nhà sư trở về với việc hành thiền, đó là ý nghĩa sâu xa của tự do. Việc làm chính của nhà sưkhám phá ra rằng: tự do vượt ra khỏi mọi hoàn cảnhthời gian.

Người nào gặt hái được kinh nghiệm về sự tham luyến trong khi khoác áo nhà tu và trong khi sống đơn giản, người ấy đã học được một bài học sáng ngời quí giá, hơn hẳn tất cả những bài học từ trước. Tư hữutham luyến hoàn toàn tách rời khỏi mọi hoàn cảnh bên ngoài. Chúng có gốc rễ từ trong tim và thể hiện trong mọi hoàn cảnh. Chỉ với một vật nhỏ bé, tư hữutham luyến cũng khởi dậy được. Cho đến khi nào chúng ta hiểu và học được bài học sâu xa về sự dứt bỏ, lúc bấy giờ những cấu hợp bên ngoài chỉ là đấu trường khác, nơi đấy những tập nhiễm tham ái đóng vai tuồng của chúng mà chẳng liên hệ gì đến chúng ta cả.

Ajahn Chah biết rõ sức mạnh của đời sống an cư trong rừng. Đấy là một sức mạnh lớn lao và sáng chói, rất hữu hiệu để đối trị những phiền toái trầm trọng mọc gốc rễ từ trong tâm trí chúng ta. Ưu thế của Ngài là dùng giới luật nghiêm khắc giúp các nhà sư trực tiếp đương đầu với những vấn đề của chính họ, bao gồm trong tham lam, phán đoán, sân hậnsi mê. Những lời dạy của Ajahn Chah thường nhằm mục đính đưa chư tăng trở về đối diện với chính tâm mình, nguồn gốc và cội rễ của mọi phiền toái trên cõi đời này.

Bạn trốn đi đâu bây giờ?

Nhiều người đến đây để xuất gia. Nhưng sau khi trở thành nhà sư, họ đối diện với chính mình và cảm thấy rằng chẳng an lạc chút nào. Thế rồi họ nghĩ đến việc hoàn tục, chạy trốn. Nhưng đi tìm an lạc ở đâu bây giờ?

Biết được cái gì tốt, cái gì xấu mới là điều quan trọng, dù đi nhiều nơi hay ở một chỗ cũng thế thôi. Bạn không thể tìm được an lạc trên đỉnh nuí cao vời hay trong hang động sâu thẳm. Dầu có thể tới tận nơi Đức Phật thành đạo nhưng không phải nhờ thế mà bạn có thể đến gần chân lý hơn.

Điều đương nhiên đến với bạn trước tiênhoài nghi: Tại sao chúng ta phải tụng kinh? Tại sao chúng ta ngủ ít thế? Tại sao phải nhắm mắt lúc ngồi thiền? Những câu hỏi tương tự như vậy sẽ nảy sinh trong tâm bạn khi bạn bắt đầu hành thiền. Chúng ta phải thấy tất cả mọi nguyên nhân của đau khổ -- đó là Chân Pháp, Tứ Diệu Đế, chứ chẳng phải một phương pháp luyện tâm đặc biệt nào. Chúng ta phải quan sát cái gì đang xảy ra. Nếu quan sát sự vật chúng ta sẽ thấy chúng đều là vô thường và trống rỗng, từ đó một ít trí tuệ sẽ nảy sinh. Khi chưa thật sự hiểu thực tại, chưa thấy rõ thực tại, chúng ta chưa hết hoài nghi và sự chán nản sẽ trở lại với chúng ta nhiều lần. Đó không phải là dấu hiệu xấu. Đó là một phần của những gì mà chúng ta phải đối đầu; đó là những sở hữu của chính tâm ta, đó chính là Tâm và Trí của ta.

Đi tìm Đức Phật

Ngài Ajahn Chah thường tỏ ra dễ dãicảm thông với những đệ tử xuất gia Tây phương thích đến rồi đi. Theo truyền thống, một thầy tỳ khưu mới tu phải ở với vị thầy đầu tiên ít nhất năm hạ rồi mới được ra đi làm một du tăng khất sĩ. Ajahn Chah thường nhắn nhủ đệ tử phải giữ gìn giới luật trong sạch. Giới luật là phần tối thiết yếu trong việc tu trì của một nhà sư. Phải nghiêm trì giới luật, ép mình trong khuôn khổ kỷ luật của thiền viện và của tăng đoàn. Nhưng một số nhà sư Tây phương, giống như trẻ được nuông chiều, đã được Ajahn Chah cho phép ra đi trước thời hạn để đến học với những vị thầy khác. Thông thường một vị sư ra đi là chuyện đương nhiên, chẳng có gì phải luyến lưu, nhung nhớ hay gây chút xáo trộn nào trong thiền viện. Đời sống trong giáo pháp trực tiếp, đầy đủ và trọn vẹn. Mỗi lần ngồi ở đâu Ajahn Chah đều nói, "Chẳng có ai đến và chẳng có ai đi."

Sau một năm rưỡi tu tập tại chùa Wat Pah Pong, một nhà sư Mỹ xin phép đến tu học với các thầy người Thái và Miến Điện khác. Một hai năm sau, nhà sư Mỹ trở về với nhiều mẩu chuyện về cuộc hành trình của mình gồm nhiều tháng hành thiền tích cực và một số kinh nghiệm đáng ghi nhớ. Sau buổi tụng kinh lễ Phật chấm dứt, nhà sư Mỹ được đối xử bình thường như chẳng hề có chuyện ra đi. Sau buổi thảo luận Phật Pháphoàn tất mọi công việc thường nhật với các nhà sư và khách đến viếng thăm, Ajahn Chah hỏi nhà sư Mỹ xem thử nhà sưtìm thấy giáo pháp gì mới lạ và hay ho không?

-- Không, mặc dù tôi đã học được nhiều điều mới trong khi hành thiền, nhưng thật ra, tất cả những điều đó đều tìm thấy ở Wat Pah Pong này. Giáo pháp luôn luôn ở ngay đây để mọi người thấy và thực hành.

Ajahn Chah cười nói:

-- A! Đúng vậy. Tôi đã từng nói với sư điều này trước khi sư đi, nhưng sư không hiểu đó thôi.

Nhà sư Mỹ sau đó đến cốc của Ajahn Sumedho, vị học trò đầu đàn người Tây phương của Ajahn Chah, và kể lại tất cả hành trình của mình, những điều hiểu biết mới và những thành quả lớn lao trong việc hành thiền. Sumedho yên lặng lắng nghe và chuẩn bị bình trà buổi chiều được pha bằng một vài loại cây rừng. Sau khi câu chuyện chấm dứt, Sumedho mỉm cười nói, "Vâng, thật kỳ diệu. Hãy để cho chúng trôi qua."

Cứ thế, những người Tây phương tiếp tục đến rồi đi, tất cả đều tự mình học những bài học này. Đôi lúc, trước khi họ lên đường, Ajahn Chah chúc họ đi thành công, nhưng thường thì nói vài câu trêu chọc họ.

Một nhà sư người Anh băn khoăn trong việc tìm kiếm một cuộc sống hoàn hảo, một vị thầy hoàn hảo, đến rồi đi, xuất gia rồi hoàn tục nhiều lần. Thấy thế, Ajahn Chah quở trách, "Nhà sư này đang tìm kiếm gì đây?" Ajahn Chah tuyên bố với toàn thể tăng chúng, "Con rùa có râu không? Quí vị nghĩ xem ông ta phải đi bao xa mới tìm thấy nó?"

Tệ hơn nữa, một vị sư Tây phương đến xin phép Ajahn Chah để đi, vì nhà sư thấy rằng việc thực tập với đời sống bó buộc của tu viện quá khó khăn, thấy quanh mình thật nhiều tệ hại, "Một số sư nói chuyện nhiều quá! Tại sao chúng tôi phải tụng kinh mới được chứ? Tôi cần nhiều thì giờ ngồi thiền một mình. Những vị sư cao hạ hơn, và ngay cả thầy nữa, chẳng chỉ vẽ gì cho người mới cả." Nhà sư nói trong nỗi thất vọng, "Ngay cả thầy cũng chẳng có vẻ gì là người giác ngộ cả. Thầy luôn luôn thay đổi. Lúc thì thật khó khăn, lúc thì như bất cần. Làm sao tôi biết thầy đã đắc đạo chưa?"

Ajahn Chah cười cởi mở khi nghe nhà sư người Anh nói thế. Vừa vui đùa, vừa chọc tức nhà sư trẻ, Ajahn Chah nói:

-- Cái hay là ở chỗ tôi không tỏ ra đã đắc đạo đối với sư. Bởi vì nếu như tôi giống khuôn mẫu người giác ngộ của sư, người giác ngộ lý tưởng phải làm những hành động như sư nghĩ thì sư vẫn dính mắc mãi vào việc tìm kiếm ông Phật ở bên ngoài. Ông Phật không ở ngoài, Phật ở ngay trong chính tâm của sư."

Nhà sư trẻ cúi đầu lạy Ajahn Chah, rồi trở về cốc để tìm ông Phật thật.

Hãy nương tựa vào chính mình

Ngồi xếp bằng trên nền đá cứng là chuyện tự nhiên và dễ dàng đối với những người sinh trưởng trong hoàn cảnh thiếu tiện nghi vật chất. Nhưng đó là việc hết sức khó khăn đối với một sa di trẻ tuổi Tây phương vừa mới đến thiền viện, một vị sa di còn vụng về và kém uyển chuyển. Không có gì khổ sở, khó chịu cho bằng phải ngồi trên sàn nhà cứng ngắc và lạnh lẽo. Vị sa di tìm ra được một cách thích nghi để làm giảm bớt sự căng thẳng này. Đó là mỗi buổi sáng sa di vào thiền đường thật sớm, lựa một chỗ ngồi gần với cột nhà, và khi mọi người đều nhắm mắt hành thiền thì sa di có thể nhẹ nhàng tựa lưng vào cột đá hành thiền một cách thoải mái theo kiểu Tây phương.

Sau một tuần lễ thực tập, vào một buổi tối, Ajahn Chah rung chuông báo hiệu giờ ngồi thiền chấm dứt và bắt đầu giảng pháp. Nhìn thẳng vào nhà sư mới, Ajahn Chah nói:

- Hôm nay tôi sẽ nói về đề tài: "Khi thực hành giáo pháp ta nên tự hỗ trợ cho mình, tự nương tựa nơi chính mình, đừng nương tựa vào nơi nào khác bên ngoài mình."

Mọi người trong thiền đường đều cười. Riêng chú sa di Tây phương, hơi bối rối một chút, ngồi thẳng thắn khác thường ngày, từ lúc bắt đầu buổi giảng cho đến khi bài pháp chấm dứt. Từ đấy trở đi, với quyết tâm mạnh mẽ, chú sa di đã học được cách ngồi thẳng lưng trên mọi sàn nhà, dưới bất kỳ hoàn cảnh hay điều kiện nào.

Học hỏi cách dạy học

Hôm nay là lễ Makkha Puja, ngày rằm tháng giêng. Đây là một ngày quan trọng trong Phật giáo, kỷ niệm ngày 1250 vị A la hán, những vị học trò giác ngộ của Đức Phật, hội họp. Trong cuộc họp mặt đó, Đức Phật đã dạy chư tăng đi khắp nơi để truyền bá giáo pháp, đem lại sự tốt đẹp, sự hạnh phúcgiác ngộ cho chúng sanh.

Trong dịp lễ này, Ajahn Cha và hàng trăm đệ tử của Ngài đã thức trọn đêm để hành thiền với thiện nam tín nữ. Cả ngàn người tham dự ngồi kín chánh điện rộng lớn. Họ ngồi một giờ đồng hồ, sau đó Ajahn Chah hay một trong những học trò lớn của Ngài sẽ thuyết pháp. Liên tục suốt đêm, cứ một giờ ngồi thiền lại một giờ thuyết pháp.

Một trong những vị học trò lớn người Tây phương của Ngài Ajahn Chah ngồi chung với những vị sư mới. Họ cảm thấy phấn khởi, thích thú lẫn khó khăn khi trải qua một đêm thực tập như vầy. Vào khoảng giữa đêm, sau khi dứt một giờ ngồi thiền, Ajahn Chah tuyên bố cho mọi người biết để đón nghe một nhà sư Tây phương thuyết pháp bằng tiếng Lào. Cả nhà sư đó và thiện tín hiện diện đều lấy làm ngạc nhiên trước sự đột ngột đó. Nhưng không còn dịp chuẩn bị hay băn khoăn, nhà sư phải cố gắng ngồi trước mặt mọi người, kể lại lý do tại sao thầy xuất gia và những hiểu biết mới mẻ về Phật pháp mà thầy đã gặt hái được qua thực hành. Sau lần nói chuyện này, thầy không còn bối rối khi phải thuyết pháp trước đám đông bằng ngôn ngữ mà mình mới lõm bõm.

Sau này Ajahn Chah giải thích rằng lúc thuyết pháp, hãy để cho pháp trôi chảy một cách tự nhiên từ con tim và từ kinh nghiệm nội tại của mình mà không cần sửa soạn trước, "Cứ ngồi, nhắm mắt lại và để Phật pháp tự thuyết lấy."

Một dịp khác, Ajahn Chah bảo Ajahn Sumedho, vị học trò Tây phương kỳ cựu của Ngài thuyết pháp. Sumedho thuyết trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Ajahn Chah bảo, "Thuyết thêm nửa tiếng nữa." Sau nửa tiếng, Ajahn Chah lại bảo, "Thuyết thêm nữa." Sumedho tiếp tục và bắt đầu chán. Nhiều thiện tín bắt đầu ngủ gục. Ajahn Chah khuyến khích, bắt thêm nữa. Sau khi chiến đấu suốt mấy tiếng đồng hồ, Sumedho đã hoàn toàn làm mọi người chán nản. Cũng từ đó về sau, Sumedho chẳng bao giờ lo sợ khi phải thuyết pháp trước đám đông, không còn sợ người ta phê bình, đánh giá mình trong khi thuyết pháp nữa.

Ajahn Chah hỏi một nhà sư sắp từ giã tu viện để về xứ rằng thầy có dự định dạy dỗ gì khi về Âu Châu không. Nhà sư trả lời rằng thầy không có dự tính dạy Phật pháp, tuy nhiên nếu có ai hỏi, thầy sẽ cố gắng giải thích cho họ biết cách hành thiền.

Ajahn Chah nghe nói thế bèn nói, "Tốt lắm. Dạy Phật Pháp cho người muốn học thì còn gì tốt bằng?" Ajahn Chah lại nói thêm, "Và khi thầy giảng dạy Phật giáo, tại sao không gọi đó là Thiên Chúa giáo. Ở Tây phương mà thầy nói đến Phật giáo thì họ không hiểu gì cả. Tôi nói về Thượng Đế với người Thiên Chúa, mặc dù tôi chưa đọc sách của họ. Tôi tìm thấy Thượng Đế trong tâm. Thầy có nghĩ rằng Thượng Đế là ông già Nô-en hàng năm thường đem quà đến cho trẻ em không?"

Thượng Đếgiáo pháp, là chân lý. Ai ý thức được điều này thì sẽ hiểu biết tất cả mọi sự. Và Thượng Đế chẳng có gì đặc biệt cả. Chỉ có vậy thôi.

Những điều chúng ta thực sự cần dạy là làm thế nào để thoát khỏi đau khổ, làm thế nào để có được tình thương, có trí tuệ và tràn đầy từ ái. Những lời dạy về tình thươngtrí tuệPhật pháp. Bất kỳ ở nơi đâu và dùng bất kỳ ngôn ngữ gì cũng có thể dạy về tình thươngtrí tuệ. Hãy gọi đó là Thiên Chúa giáo. Dạy như thế giúp nhiều người hiểu hơn.

Ajahn Chah đã dạy những điều sau đây cho một vị có ý muốn dạy Giáo pháp:

"Đừng làm cho họ ngại ngùng, lo sợ khi gặp thầy. Hãy vững vàng và trực tiếp. Hãy thành thật trước những khuyết điểm của mình. Hãy thừa nhận khả năng giới hạn của thầy. Hãy làm việc với tình thương và lòng quảng đại. Khi gặp người mà thầy không đủ khả năng hay nhân duyên để giúp, hãy phát triển tâm xả. Đôi khi việc dạy dỗ rất khó khăn, phải kiên nhẫn. Thầy dạy Đạo là cái thùng rác để mọi người vất vào đó mọi nỗi bực dọc và mọi vấn đề rắc rối. Thầy càng dạy nhiều người, thùng rác của thầy càng đầy. Nhưng đừng lo lắng. Dạy dỗ người khác là phương cách tuyệt diệu để thực hành Phật pháp. Phật pháp sẽ hỗ trợ cho kẻ nào thành thật áp dụng Phật pháp vào trong đời sống của họ. Người nào dạy dỗ kẻ khác thì Đức Kiên Nhẫn và Tri Hiểu Biết sẽ phát triển."

Ajahn Chah khuyến khích học trò của Ngài hãy chia xẻ với người khác những gì mình đã học hỏi được. "Khi thầy học được chân lý, thầy có thể giúp người khác, đôi khi bằng lời dạy của thầy, nhưng phần lớn thì bằng lối sống của thầy. Ai muốn hiểu tôi thì phải sống với tôi. Nếu thầy sống ở đây lâu thầy sẽ biết. Tôi đã làm một vị du tăng sống trong rừng nhiều năm. Tôi không dạy. Tôi thực hành và lắng nghe lời thầy tôi dạy. Và đây là lời nhắn nhủ quan trọng: Khi nghe hãy thực sự nghe. Tôi không biết phải nói gì nữa."


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31298)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10449)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11137)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12620)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10730)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16466)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10735)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22764)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11906)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11408)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10584)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11095)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9934)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10235)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11792)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10609)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9703)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11177)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13748)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9504)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12517)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9602)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10331)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10433)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10207)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9796)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10978)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11932)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10074)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10694)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9460)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9815)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8694)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14434)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12446)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10328)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8974)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10472)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9234)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8704)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10417)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9066)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8286)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11921)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9628)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10144)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10164)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9332)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8910)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9490)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8929)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14655)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10017)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8269)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8817)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8881)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8659)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9254)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14449)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8955)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8661)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10433)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8543)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9909)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24141)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10078)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10946)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8904)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9175)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15233)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10246)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9475)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21207)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12064)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10154)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19086)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25828)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7901)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14659)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10552)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11258)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9426)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18479)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12257)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11792)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10607)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13243)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9896)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9191)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9297)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15717)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant