Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 01: Tổng Tự

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10992)
Chương 01: Tổng Tự

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG I: TỔNG TỰ

Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà, sau khi chết mong được sinh về tịnh độ.

Trong các kinh luận Đại thừa tuy nói mười phương thế giớiHằng sa vô lượng chư Phật, các Đức Phật kia đều an trútịnh độ của các Ngài và giáo hóa chúng sinh ở cõi đó, thế nhưng rất ít đề cập đến các Đức Phật ấy và tịnh độ của các Ngài, chỉ có một vài bộ kinh riêng đề cập đến Phật A-di-đà, Phật A-súc, Phật Dược Sư, trong đó các kinh nói về Đức Phật A-di-đà chiếm đa số. Các kinh này tường thuật nhân vị từ khi bắt đầu phát nguyện tu hành của Đức Phật A-di-đà cho đến sự trang nghiêm của thế giới tịnh độ Cực Lạc ở phương tây. Sự thật này có thể chứng minh tịnh độ của Phật A-di-đà, từ xưa đến nay được chọn làm cõi tiêu biểu cho tịnh độ của chư Phật.

Phật giáo từ Ấn Độ lưu truyền đến nay, các bộ luận nói về tịnh độ của Đức Phật A-di-đà rất thịnh hành như luận Thập trụ tỳ-bà-sa của ngài Long Thọ, luận Cứu cánh nhất thừa bảo tính của ngài Kiên Tuệ, Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá của ngài Thế Thân. Điều này chứng tỏ mục đích của các ngài là có ý nguyện sinh tịnh độ. Kinh Đại bi quyển 2, kinh Đại pháp cổ quyển thượng, kinh Văn-thù-sư-lợi phát nguyện, kinh Đại phương đẳng vô tưởng quyển 6 v.v…nói về tỳ-kheo Kỳ-bà-già, đồng tử dòng Ly-xa tên Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến, Văn-thù-sư-lợi, nữ vương Tăng Trưởng v.v… họ đều thệ nguyện sinh về tịnh độ của Đức Phật A-di-đà. Mãi đến khi pháp môn Tịnh Độ lưu truyền sang Trung Quốc, người qui hướng rất đông cả tăng lẫn tục đến mấy nghìn vạn người. Lúc đó, pháp môn Tịnh Độ được truyền bá rộng khắp các nước thuộc châu Á và đã trở thành tín ngưỡng thực tiễn của các dân tộc. Vì thế, Tịnh Độ giáo tuy chỉ chung cho giáo lý tịnh độ của chư Phật, nhưng nay y theo nội dung trên, chỉ nói đến các sự kiện lịch sử liên quan đến Đức Phật A-di-đà.

Niên đại có liên quan đến lúc Phật giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc, từ bài tựa của kinh Tứ thập nhị chương cho đến luận Lý hoặc của Mâu Tử, Xuất tam tạng kí tập quyển 2, Lương cao tăng truyện quyển 1 v.v… đều nói vào thời vua Minh Đế, đời Hậu Hán. Ban đêm, vua Minh Đế mộng thấy người vàng, liền sai các quan như Thái Âm v.v… đến Tây Vực cầu pháp. Các vị ấy theo Ca-diếp Ma-đằng v.v… trở về Lạc Dương. Vào giữa niên hiệu Vĩnh Bình, ngài Ma-đằng dịch kinh Tứ thập nhị chương cho nên Lịch đại tam bảo kỷ quyển 2 y theo thuyết này mà công nhận niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 (67TL), đời vua Minh Đế, là niên đại Phật giáo mới truyền vào Trung Quốc. Thế nhưng, kinh Tứ thập nhị chương bị cho là do người Trung Quốc ngụy soạn, và còn cho rằng truyền thuyết về ngài Ca-diếp Ma-đằng đến Trung Quốc cũng không có căn cứ đáng tin, những điều này là do người đời sau bịa đặt ra.

Lại nữa, Lịch đại tam bảo kỷ quyển 2, luận Phá Tà quyển hạ do ngài Pháp Lâm soạn vào đời Đường quyển hạ nói: Vào thời Tần Thỉ Hoàng, có mười tám hiền giả người nước ngoài như sa-môn Thích Lợi Phòng v.v…đem kinh Phật đến để giáo hóa Tần Thỉ Hoàng, ông ta không tin, lại còn bắt họ giam vào ngục, đêm đó có vị thần Kim Cang cao một trượng sáu đến phá ngục đưa họ ra, Tần Thỉ Hoàng sợ hãi, đảnh lễ tạ tội. Việc này ở trong Kinh lục của ngài Thích Đạo An và Chu Sĩ Hành… cũng có ghi. Nhưng quyển Kinh lục của ngài Đạo An đã sớm bị thất lạc, rốt cuộc không biết trong đó ghi lại những gì. Nhưng trong sách Đông tây giao thiệp sử chi nghiên cứu của Đằng Điền Phong Bát nói: điều mục năm thứ 33 của Tần Thỉ Hoàng bổn kỷ trong Sử kí quyển 6 có câu cấm “Bất-đắc tự”. “Bất-đắc” là phiên âm của Buddha (Phật-đà), có nghĩa là cấm thờ cúng Phật. Tần Thỉ Hoàng tín ngưỡng pháp thần tiên là cầu không già, không chết, do đó chán ghét pháp quán vô thường của Phật giáo, nên mới có luận điệu cấm đoán người dân thờ cúng Phật. Một âm Phật-đà mà ngày xưa có người viết là Phù-đồ (浮屠), có người viết là Phù-đồ (浮圖) và có người viết là Phục-đậu, bây giờ nghĩ lại âm viết xưa nhất cho rằng ‘Bất-đắc’ là ‘Phật-đà’ cũng rất có lí. Dựa theo đây mà suy luận, thời Tần Thỉ Hoàng nếu có cấm thờ cúng Phật thì có lẽ trong Kinh lục của ngài Đạo An có viết về việc này.

Niên hiệu Tần Thỉ Hoàng thứ 33 (214 trước CN), sau năm thứ 18 tại vị của vua A-dục ở Ấn Độ (237 trước CN) 23 năm, lúc đó vua A-dục phái các sư đến các vùng Kiện-đà-la (Gandhāra) và Đại Hạ (Bactria) để truyền đạo. Vì thế, ngay lúc truyền đạo từ các địa phương ấy rồi lại tiến triển đến lãnh thổ Trung Quốc, không phải không có khả năng ấy, nhưng sau đó do bị ngăn cấm, không thể phiên dịch kinh điển được nên chưa thể cho đây là khởi nguyên của Phật giáo du nhập vào Trung Quốc.

Phật giáo đầu tiên được truyền vào Trung Quốc đại khái là trước thời vua Ai Đế, Tiền Hán. Chú thích Ô Hoàn Tiên Ty Đông Di truyện trong Tam Quốc Chí – Ngụy Thư quyển 30, dẫn dụng Ngụy Lược của Ngư Hoạn ghi chép là vào Nguyên Thọ nguyên niên, đời vua Ai Đế, thời Tiền Hán (năm thứ 2 trước CN) có Bác sĩ đệ tử[1] tên Cảnh Lô thụ nhận kinh Phật bằng cách truyền miệng từ sứ của vua nước Nhục-chi tên là Y Tồn. Kinh Phật này rốt cuộc là kinh gì, tuy chưa có nói rõ nhưng chính là kinh Phật trong Ngụy Lược đã đề cập đến, nói rõ ngày đản sinh của Thích Tôn và những việc về cha mẹ Ngài, đại khái là có liên quan với truyện của Phật trong kinh Tu hành bản khởi. Tóm lại, đây là nói khoảng năm thứ 2 trước công nguyên, sứ của vua nước Nhục-chi đã đem kinh Phật truyền miệng lại cho các học giả Trung Quốc, đây tức là thuyết nói về truyền nhập đầu tiên của Phật giáo vào Trung Quốc.

Sau đó, đầu niên hiệu Kiến Quốc thời Vương Mãng (9 TL), bởi vì đường giao thông với Tây Vực bị cắt đứt, tạm thời kinh Phật truyền vào phía đông cũng dứt giữa chừng, mãi đến thời Hậu Hán mới khôi phục lại đường giao thông giữa hai nước thì Phật giáo cũng tiếp tục lần lượt truyền đến. Tây Vực truyện trong Hậu Hán thư quyển 78, có ghi: Sở Vương Anh bắt đầu tin Phật giáo, Trung Quốc nhờ đây có nhiều người phụng thờ Phật. Lại nữa, cũng trong Hậu Hán thư quyển 78, truyện thứ 32 trong Tứ thập nhị liệt truyện, Quan Vũ thập vương liệt truyện ghi: Khi nhỏ, Sở Vương Anh thích làm hiệp sĩ, giao tiếp nhiều bạn bè, về già ông lại thích đạo Hoàng Lão, học làm Phật, giữ trai giới, cúng tế. Niên hiệu Vĩnh Bình thứ 8 (65TL), vua hạ chiếu trong thiên hạ tất cả những kẻ bị tội chết đều dùng lụa chuộc tội. Sở Vương Anh sai quan Lang Trung Lệnh đem ba mươi cuộn lụa vàng và lụa mịn trắng đến phủ Quốc tướng, nói: “Xin ngài giúp đỡ, tôi tội lỗi quá nhiều xin ngài vui vẻ ban đại ân mà nhận số lụa trắng dâng tặng này để tôi chuộc tội lỗi”. Quốc tướng nghe tâu, nói rằng: “Sở Vương Anh tụng đọc lời vi diệu của đạo Hoàng Lão, nhưng vẫn kính chuộng chùa tháp thờ Phật, trai giới ba tháng, nguyện với thần linh mà còn trách gì, nghi gì nữa? Nếu ta nhận thì sẽ có tai họa, thôi hãy đem thứ này về giúp cho y-bồ-tắc[2] lo cúng dường tang-môn[3].

Căn cứ những điều đã ghi ở trên thì Sở Vương Anh ở trước năm thứ 8 niên hiệu Vĩnh Bình thời vua Minh Đế, ông đã qui y Phật giáo, thành ưu-bà-tắc đã biết trai giới, cúng tế. Nếu như vậy thì trước niên hiệu Vĩnh Bình đã có đạo Phật lưu hànhTrung Quốc, sau đó Minh Đế (67TL) mộng thấy người vàng mới biết người ấy là Phật, bèn sai sứ đi Tây Vực cầu pháp. Điều này xét ra chẳng phải hoàn toàn trái với sự kiện lịch sử.

Niên hiệu Quang Hòa thứ 2 (179TL), đời vua Linh Đế, thời Hậu Hán, Chi Sấm đã dịch ra kinh Bát-chu tam-muội là sự mở đầu của Tịnh Độ giáo truyền đến Trung Quốc. Tiếp đến có Chi Khiêm ở nước Ngô, Trúc Pháp Hộ ở Tây Tấn v.v… dịch kinh A-di-đà, kinh Bình đẳng giác. Cưu-ma-la-thập thời vua Diêu Tần, Bảo Vân cùng với Khương Lương Da-xá v.v… thời Lưu Tống dịch kinh A-di-đà, luận Thập trụ tỳ-bà-sa, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v… như thế lần lượt các kinh thuộc Tịnh Độ liên tiếp được dịch ra khiến hàng xuất giatại gia dần dần sinh lòng tin kính, phụng hành. Người đầu tiên phát nguyện cầu sinh Tây phương là ông Khuyết Công Tắc thời Tây Tấn, sau đó rất nhiều người nối tiếp nhau phát nguyện vãng sinh liên tục không ngừng. Trong số đó, người nổi tiếng nhất là đại sư Huệ Viễn thời Đông Tấn, ở phía nam Lô sơn, ngài kết Bạch Liên xã cùng với mọi người chuyên tu pháp môn Niệm Phật tam-muội, chủ yếu là y theo kinh Bát-chu tam-muội, lấy thấy Phật vãng sinh làm mục tiêu chính yếu, thành ra dòng tu chủ yếu của Tịnh độ giáo ở Trung Quốc.

Thời Lưu Tống về sau, tín ngưỡng Tịnh độ dần dần được truyền bá ở các nơi, việc giảng nói các kinh Vô Lượng Thọ v.v… được phổ biến rộng rãi, tượng Đức Phật A-di-đà cũng liên tiếp được tạo lập. Thời Tuyên Vũ Đế, triều Bắc Ngụy có Bồ-đề-lưu-chi dịch Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá, tiếp đến ngài Đàm Loan chú giải, đều y theo hai đạo dị hànhnan hành của luận Thập trụ tì-bà-sa, chủ trương tha lực, bản nguyện, bắt đầu làm sáng tỏ nghĩa chính của sự lập giáo Tịnh Độ tông. Vùng phía bắc Tinh Châu là trung tâm có rất nhiều người phát nguyện cầu vãng sinh. Đến thời Bắc Chu và Tùy thì việc nghiên cứu kinh văn thịnh hành, có các ngài như Huệ Viễn (Tịnh Ảnh), Linh Dụ, Cát Tạng, Pháp Thường trứ tác các sớ về các kinh Vô Lượng ThọQuán kinh v.v… Lại có các ngài như Trí Khải, Đạo Cơ, Trí Nghiễm, Ca Tài, mỗi vị đều viết sách luận thuyết về thân Phật, tịnh độ v.v… lộ rõ cảnh tượng hoa lan, hoa cúc khoe sắc. Đương thời, Địa luậncho đến các học phái khác, phần nhiều cũng có khuynh hướng tín ngưỡng Di-đà. Nhưng các sư trong học phái Nhiếp Luận cho rằng thuyết phàm phu vãng sinh trong Quán Kinh là “Biệt thời ý”nghĩa là hiện đời này không thể vãng sinh được, làm cho sự hoằng hóa của Tịnh Độ bị không ít trở ngại.

Đến đời Đường, các ngài Đạo Xước, Thiện Đạo… xuất thế kế thừa giáo nghĩa của ngài Đàm Loan, các ngài cực lực nhấn mạnh bản nguyện lực của Phật, cổ súy tư tưởng mạt pháp và nói về sự trọng yếu của thời giáo tương ưng. Đặc biệt là ngài Thiện Đạo khí khái làm mẫu mực cho xưa nay, soạn Quán kinh sớ để đả phá lập nghĩa của chư sư, củng cố cơ sở giáo nghĩa độc lập của Tịnh Độ. Pháp NhiênNhật Bản tin nhận thuyết này, khởi xướng Tịnh Độ tông cho đến ngày nay, các học giả Nhật Bản y theo chủ trương ấy phát huy đến cùng tận. Đương thời ở Trường An có các ngài Trí Thủ, Tịnh Mại, Huệ Tịnh, Viên Trắc, Đạo Huệ, Đạo Ngân, Hoài Cảm… đều viết sớ giải thích các kinh A-di-đà, Quán kinh… Lại nữa, ở nước Tân La cũng có các sư Từ Tạng, Nguyên Hiểu, Nghĩa Tương, Pháp Vị, Huyền Nhất, Cảnh Hưng, Nghĩa Tịch, Thái Hiền, Độn Luân… đều trước tác kinh sớ, cho nên sự nghiên cứu kinh văn về Tịnh Độ đạt đến cao trào, đây là chịu ảnh hưởng của sự bộc phát giáo học đầu đời Đường

Đầu niên hiệu Khai Nguyên, khi ngài Huệ Nhật từ Ấn Độ trở về nước, các thiền sư thời ấy cho rằng thuyết Tịnh Độ chẳng qua là phương tiện giả tạm để hướng dẫn người ngu. Ngài Huệ Nhật đối với việc này kịch liệt phản kích, đề xướng yếu nghĩa niệm Phật vãng sinh, tự thành lập một phái. Sau đó, có các ngài Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Phi Tích…kế thừa thuyết ấy, cho pháp niệm Phật tam-muội là pháp vô thượng thâm diệu của thiền môn, cũng không ngớt lời bài xích bụng rỗng tâm cao của đệ tử nhà thiền. Bấy giờ trong số các thiền sư cũng có người đồng tình với việc này như ngài Tuyên Thập đệ tử của ngài Ngũ Tổ, đề xướng Nam Sơn Niệm Phật Thiền, ngài Huệ Trung ở Nam Dương, đệ tử của ngài Lục Tổ cũng đề xướng Hành giải kiêm tu, cho đến cháu đích tôn của ngài Pháp Nhãn là ngài Vĩnh Minh Diên Thọ lại nói lý Không hữu tương thành, đồng thời tích cực cổ súy yếu môn Thiền Tịnh song tu, tự thành một thiền phong. Thậm chí các ngài Thiên Y Nghĩa Hoài, Huệ Lâm Tông Bản, Cô Tô Thủ Nột, Trường Lô Tông Trách, Hoàng Long Tử Tâm, Chân Yết Thanh Liễu… cũng đều tu Tịnh độ. Lại có các cư sĩ Dương Kiệt, Vương Cổ, Giang Công Vọng, Vương Điền, Vương Nhật Hưu… đều thiền tịnh song tu và đều có thể nói đó là những người kế thừa di phong ấy.

Tông Thiên Thai cũng có nhiều người tin tu pháp môn Tịnh Độ và sớ giải các kinh Tịnh Độ. Trong số đó, vào đời Tống có các vị Hành Tịnh, Trừng Vực, Nghĩa Thông, Nguyên Thanh, Văn Bị, Tuân Thức, Tri Lễ, Trí Viên, Nhân Nhạc, Tòng Nghĩa, Trạch Anh, Tông Hiểu… nối tiếp nhau trứ tác Quán kinh sớ, A-di-đà kinh sớ, đồng thời biên soạn các sách nói rõ về giáo lý Tịnh Độ. Trong đó, Quán kinh sớ diệu tông sao của Tứ Minh Tri Lễnổi tiếng nhất, chủ trương dùng tâm quán Phật, là một bộ luận dung hợp hai tông Thiên ThaiTịnh Độ, được tông Thiên Thai xưa nay coi trọng. Tiếp theo có ngài Nguyên ChiếuDư Hàng dựa vào Nam Sơn Luật để phu diễn Tịnh Độ giáo nên trứ tác Quán kinh sớ v.v…thành thuyết của một nhà. Môn nhân Dụng Khâm, Giới Độ v.v… cũng đều trứ tác chú sớ, noi theo học thuyết của thầy, sau đến thời đại Nam Tống, do Tuấn Nãi truyền vào Nhật Bản. Những vị này đều đáng được gọi là những người phục hưng Tịnh Độ giáo học thời Tống.

Lại nữa, đương thời phong trào Kết xã niệm Phật được lưu hành ở phương nam, có các vị Tĩnh Thường, Tuân Thức, Tri Lễ, Mộc Như, Linh Chiếu, Tông Trách, Đạo Thâm đều lãnh đạo kẻ tăng người tục kết xã, chuyên tu niệm Phật. Đây là xa thì chấn hưng di phong của Bạch Liên xãLô sơn, gần thì bước theo dấu chân tốt đẹp của ngài Thiện Đạo, Pháp Chiếu. Đầu thời Nam Tống có Từ Chiếu Tử Nguyên đề xướng Bạch Liên tông. Kế đến có ngài Phổ ĐộLô sơn kế thừa ngài Từ Chiếu và trứ tác Liên tông bảo giám.

Từ thời nhà Nguyên trở về sau, phong trào Thiền Tịnh song tu lại càng lưu hành, các vị đại lão như Trung Phong Minh Bản, Thiên Như Duy Tắc, Sở Thạch Phạm Kỳ, Đoạn Vân Trí Triệt đều hướng tâm về Tây phương. Lại có các vị Trạm Đường Tính Trừng, Ngọc Cương Mông Nhuận, Ngân Giang Diệu Hiệp, Vân Ốc Thiện Trụ… cũng đều tán dương Tịnh Độ. Đến đời Minh có Sơ Sơn Thiệu Kỳ, Không Cốc Cảnh Long, Cổ Âm Tịnh Cầm, Nhất Nguyên Tông Bản, Vân Thê Châu Hoằng, Tử Bá Chân Khả, Hám Sơn Đức Thanh, Bác Sơn Nguyên Lai, Trạm Nhiên Viên Trừng, Cổ Sơn Nguyên Hiền, Vi Lâm Đạo Bái… nối tiếp nhau khởi xướng Thiền Tịnh hợp hành. Trong đó, ngài Châu Hoằngnổi tiếng nhất. Vào niên hiệu Long Khánh, ngài chọn núi Vân Thê, tỉnh Hàng Châu, để chuyên tu Niệm Phật tam-muội, chú giải kinh A-di-đà và viết sách cổ súy tông chỉ Thiền Tịnh nhất trí, về sau ngài cảm hóa rất rộng khắp trong giới học kinh giáo. Tông Thiên Thai có các ngài Vô Ngại Phổ Trí, Diên Khánh Đạo Diễn, Cự Am Đại Hựu, U Khê Truyền Đăng, Linh Phong Trí Húc, Cổ Hấp Thành Thời… đều soạn sách làm sáng tỏ giáo lý Tịnh Độ. Trong đó, ngài Trí Húc trứ tác Tam học nhất nguyên luận, chủ trương ba tông Thiền-Giáo-Luật như ba chân của chiếc đỉnh, không nên bài xích lẫn nhau và chỗ qui nạp của tam học tức là pháp môn Tịnh Độ. Bấy giờ, có các cư sĩ Viên Hoành Đạo, Trang Quảng Hoàn đều viết sách tuyên dương Tịnh Độ.

Đến thời nhà Thanh, tín ngưỡng Tịnh độ phần nhiều do cư sĩ cổ súy, giữa niên hiệu Khang Hy, có các vị Chu Khắc Phục, Du Hành Mẫn, Chu Mộng Nhan…đều có soạn sách khuyên người tu tịnh nghiệp. Giữa niên hiệu Càn Long, có các vị Bành Thiệu Thăng, Bành Hy Tốc… biên tập Vãng sinh truyện, đặc biệtBành Thiệu Thăng viết rất nhiều sách ca ngợi Tây phương, nỗ lực hoằng truyền Tịnh Độ giáo. Cuối niên hiệu Khang Hy, có Thật Hiền Tư Tề tiếp nối di phong của ngài Châu Hoằng, ở Hàng Châu ngài kết Liêngiáo hóa xa gần, mọi người đều cho rằng ngài là Vĩnh Minh tái sinh, được mọi người khâm phục và kính ngưỡng. Vào đời Khang Hy, Càn Long cũng có các vị như Hành Sách, Tục Pháp, Minh Hoằng, Minh Đức, Tề Năng, Phật An, Thật Thành, Tế Tỉnh… các ngài đều chuyên tu tịnh nghiệp. Về sau, có các vị Thụy Chương, Hồ Đĩnh…lại tiếp tục soạn Vãng sinh truyện. Tiếp đó có ngài Đạt Mặc, Ngộ Khai; cư sĩ có Trương Sư Thành, Chân Ích Nguyện… cũng viết sách tuyên dương Tịnh Độ.

Từ thời Tống trở về sau, Tịnh Độ giáo, đa phần lưu hành ở phía nam vùng Giang Nam, Chiết Giang. Đến thời nhà Thanh, lấy Bắc Kinh làm thủ đô, tin thờ Lạt-ma giáo, nên tín ngưỡng Tịnh Độ vào thời này hầu như bị hạn cuộc chỉ một vùng ở phương nam. Lại nữa, từ thời Minh về sau, nói chung, sinh khí của Phật giáo suy tàn, vì thế không ai có một chút sáng kiến riêng, nếu có viết sách Tịnh Độ thì chẳng qua cũng sao chép những pháp ngữ của người xưa mà thôi. Khi sắp bước sang thời Dân Quốc thì Phật giáo cũng hơi có chút khởi sắc trở lại, nhưng lại theo sự biến động của thời cuộc mà phải chịu ảnh hưởng quá lớn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11332)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10425)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10693)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9655)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9447)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12796)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13159)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13345)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19685)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12414)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13138)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13454)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 12928)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12284)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18443)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10586)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12283)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 10879)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11102)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14569)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22333)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11501)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10073)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34412)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17573)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32532)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 21975)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11119)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17417)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17002)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10606)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10775)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9473)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10535)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10554)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10471)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12383)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12342)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9922)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13103)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9639)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9047)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11736)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13365)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 11965)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11201)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11510)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10242)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10159)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10818)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28058)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10718)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7336)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9256)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11690)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11586)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10999)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10201)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10162)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13707)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14795)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10407)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11793)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10760)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10433)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10522)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9807)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10554)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9187)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 9861)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10082)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10386)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10517)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10439)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10001)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9725)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13401)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16186)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13358)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11448)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11036)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11003)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12105)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15224)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10503)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11616)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10494)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 10993)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 9932)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10279)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11333)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 10896)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12798)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24119)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12508)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10206)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28372)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19221)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10819)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23111)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant