Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 02: Phiên dịch kinh điển về Di-đà và tín ngưỡng Tịnh độ thời kỳ đầu

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10751)
Chương 02: Phiên dịch kinh điển về Di-đà và tín ngưỡng Tịnh độ thời kỳ đầu

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG II: PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN VỀ DI-ĐÀ VÀ TÍN NGƯỠNG TỊNH ĐỘ THỜI KỲ ĐẦU

Tiết 1: Truyền dịch kinh Bát-chu tam-muội

Phật giáo Trung Quốc do các nước Ấn ĐộTây Vực truyền đến, vì thế điều tất nhiên phải lấy sự phiên dịch kinh điển làm đầu. Sự nghiệp dịch kinhTrung Quốc bắt đầu vào đời vua Hoàn Đế, thời Hậu Hán (147-167), An Thế Cao là vị Tam tạng pháp sư đầu tiên dịch kinh điển. Vào những năm cuối của đời vua Hoàn Đế, thời Hậu Hán có ngài Trúc Phật Sóc và Chi Sấm (Chi-lâu-ca-sấm) đến Lạc Dương dịch ra rất nhiều kinh điển như kinh Bát-nhã… truyền bá giáo lý Đại thừa.

Vào tháng 10 niên hiệu Quang Hòa thứ 2 (179 TL), đời vua Linh Đế, Chi Sấm cùng với Trúc Phật Sóc dịch kinh Bát-chu tam-muội, do Mạnh Phúc và Trương Liên bút thụ, đây tức là thời điểm mở đầu cho việc truyền dịch kinh điển về đức Phật A-di-đà ở Trung Quốc. Kinh này tuy không thuật lại những sự trang nghiêmliên quan tịnh độ của đức Phật A-di-đà nhưng y theo pháp môn chuyên niệm này có thể thấy Đức Phật A-di-đà ở Tây phương, tán dương pháp Minh thị tam-muội thấy Phật. Có lẽ đây là một bộ kinh biên dịch sớm nhất trong các kinh điểnliên quan tới đức Phật A-di-đà. Kinh A-di-đà và kinh Đại A-di-đà… chính là xuất phát từ kinh này nhưng nói tỉ mỉ và đầy đủ hơn mà thôi.

Kinh này ở trong tạng kinh có bốn bản dịch, trong đó hai kinh cùng một nhan đề là Bát-chu tam-muội. Một bộ chỉ có 1 quyển, gồm 8 phẩm; một bộ có 3 quyển, gồm 16 phẩm, đều thấy có ghi tên người dịch là Chi-lâu-ca-sấm, thời Hậu Hán, nhưng một người thì không thể đồng một lúc dịch một bộ thành hai bộ được. Xuất tam tạng ký tập quyển 2 ghi: Thời Tây Tấn, ngài Trúc Pháp Hộdịch kinh Bát-chu tam-muội, 2 quyển, có thể trong đó một bộ do ngài Trúc Pháp Hộ dịch. Lại nữa, có kinh Bạt-pha bồ-tát cũng là bản dị dịch của kinh Bát-chu, kinh này 1 quyển, chưa phân chương phẩm, tên người dịch không truyền, cũng tức kinh Bạt-phi-đà bồ-tát đã ghi ở An công cổ dị kinh lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 3, có thể biết đó là bản cổ dịch vào thời vua Phù Kiên trước đây. Riêng có bộ Đại phương đẳng tập kinh Hiền Hộ phần, một tên là kinh Hiền Hộ, gồm 5 quyển 17 phẩm, ngài Xà-na-quật-đa đã dịch vào đời Tùy, bản kinh này tường thuật rất tinh tế. Lại nữa, Tân tập tục soạn thất dịch tạp kinh lục ở trong Xuất tam tạng ký tập quyển 4 có kinh Bát-chu tam-muội niệm Phật chương gồm 1 quyển và kinh Bát-chu tam-muội khác 1 quyển, kinh Niệm Phật chương, cũng có lẽ là từ trong phẩm Hành sao chép ra, tên kinh khác nhưng cũng chỉ là kinh Bạt-pha bồ-tát mà thôi!


Tiết 2: Phiên dịch kinh Đại A-di-đà và kinh Bình đẳng giác

Đến thời Tam Quốc, đầu niên hiệu Hoàng Vũ (222 TL) đến giữa niên hiệu Kiến Hưng (253 TL) thời Ngô, Chi Khiêm dịch truyền rất nhiều kinh điển. Trong đó, kinh Đại A-di-đà 2 quyển, hiện nay kinh này được thấy trong tạng kinh. Bản nước Cao Ly có nhan đề là A-di-đà tam-da tam-phật tát-lâu-phật đàn quá độ nhân đạo. Ba bản thời Tống, Nguyên, Minh gọi tắt là kinh A-di-đà, từ xưa đến nay vì để phân biệt với kinh A-di-đà 1 quyển của ngài Cưu-ma-la-thập dịch, cho nên gọi kinh này là Đại A-di-đà, cũng tức là bản dịch kinh Vô Lượng Thọ xưa nhất, bộ kinh quan trọng nói về sự phát tâm, phát nguyện của Đức Phật A-di-đà khi còn ở nhân địa và sự trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Lịch đại tam bảo kỷ và Khai nguyên thích giáo lục đều nói: kinh Vô Lượng Thọ, từ thời Hậu Hán về sau từng có người dịch, tức là lần đầu vào thời Hậu Hán, ngài An Thế Cao dịch kinh Vô Lượng Thọ 2 quyển. Kế đó, ngài Chi Khiêm dịch kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác 2 quyển (hiện nay chia làm 4 quyển); lần thứ ba vào thời Tào Ngụy, ngài Chi Khiêm vào thời Ngô dịch kinh Đại A-di-đà; lần thứ tư, ngài Khương Tăng Khải dịch kinh Vô Lượng Thọ 2 quyển; lần thứ năm cũng vào thời Tào Ngụy, ngài Bạch Diên dịch kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác 2 quyển; lần thứ sáu vào thời Tây Tấn, ngài Trúc Pháp Hộ dịch kinh Vô Lượng Thọ 2 quyển.

Nhưng 6 bản kinh dị dịch này, Xuất tam tạng ký tập đã ghi lại chỉ có 2 kinh của ngài Chi Khiêm dịch vào thời Ngô và ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Đông Tấn, hiện tại chỉ còn 2 bộ kinh: Đại A-di-đà và Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác. Vì thế, đến thời Tây Tấn là ngưng, kinh Vô Lượng Thọ có thể có 2 lần dịch, nhưng trong 2 bản dịch này, bản kinh Đại A-di-đà của ngài Chi Khiêm dịch thì trong các kinh lục đều nói như nhau và không có dị luận, còn bản kinh Vô Lượng Thọ của ngài Trúc Pháp Hộ dịch thì có dị thuyết cho rằng rất nhiều người dịch. Như 4 bản khác trong 6 bản dị dịch đã nói ở trên, chính là đã nêu ra ở dị thuyết kia. Lương cao tăng truyện quyển 1 nói: Trong niên hiệu Cam Lộ, thời Tào Ngụy (256-259TL), ngài Bạch Diên dịch kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác; căn cứ Lịch đại tam bảo kỷ quyển 5, Tấn thế tạp lục của Đạo Tổ thời Lưu Tống và Chúng kinh mục lục của Bảo Xướng ghi: trong niên hiệu Gia Bình, thời Tào Ngụy (249-254TL), ngài Khương Tăng Khải dịch kinh Vô Lượng Thọ; cũng trong Chúng kinh mục lục quyển thứ tư, điều mục nói về ngài An Thế Cao, thời Hậu Hán, căn cứ theo Biệt lục thì có thuyết cho rằng kinh Vô Lượng Thọ do ngài An Thế Cao dịch; cũng trong Chúng kinh mục lục điều mục nói về ngài Chi Khiêm, dẫn dụng thuyết trong Ngô lục của ngài Đạo Tổ có thuyết cho rằng kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác do ngài Chi Khiêm dịch; kì thật những kinh này đều không ngoài dị thuyết mà thôi.

Kinh Vô Lượng Thọ của ngài Trúc Pháp Hộ dịch, còn có một tên nữa là Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác mà trong Xuất tam tạng ký tập quyển 2 có ghi rõ. Vì thế trong các kinh lục hoặc ghi là Vô Lượng Thọ, hoặc ghi là Bình đẳng giác, tên kinh tuy khác nhưng kì thật chẳng qua chỉ là một kinh. Đồng thời, Tấn thế tạp lục cho đến Biệt lục đều là dựa vào Tam bảo kỷ thì điều đó thật có giá trị đáng tin không? Nếu chưa thể lí giải được các dị thuyết về những người dịch cùng một bản kinh mà không có một chút phê phán, cứ dễ dàng nào chấp nhận các thuyết, rồi xét theo thời đạiliệt kê ra thứ tự người nào dịch bản thứ nhất, người nào dịch bản thứ hai, cũng khiến người ta cảm thấy đáng buồn cười, cho là ngu muội.

Hiện có trong tạng kinh, y theo thuyết của Tam bảo kỷ, cho đến thuyết của Khai nguyên lục hiện có kinh Bình đẳng giác do ngài Chi Khiêm dịch vào thời Hậu Hán. Thuyết này vốn y cứ vào Ngô lục của ngài Đạo Tổ, nhưng Ngô lục này, đương thời trong Tam bảo kỷ đã thất lạc không còn truyền, do đó, tác giả của Tam bảo kỷ nói là căn cứ vào Ngô lục thì nhất định có sự nghi vấn, mặc dù, đương thời có thể thấy ở trong các văn hiến khác nhưng có lẽ cũng không ra ngoài đa số dị thuyết của truyền thuyết kia, trong dị thuyết được cho là lý do chính đáng nhất. Trong các Kinh lục hiện còn thì có thể nói niên đại của Xuất tam tạng ký tập là xưa nhất và những việc ghi lại trong đó cũng đủ để đáng tin cậy. Do đó, kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác hiện nay được công nhận là do ngài Trúc Pháp Hộ thời Tây Tấn dịch. Nhưng Lương cao tăng truyện ghi là của ngài Bạch Diên, Bảo Xướng lục ghi là của ngài Khương Tăng Khải, đều là những thuyết được lưu hành vào đời Lương, cho nên khó có thể xác định người dịch. Nội dung kinh này ghi lại hầu như đồng nhất với kinh Đại A-di-đà của ngài Chi Khiêm, bản nguyệnnhân vị cũng đầy đủ hai mươi bốn nguyện, nhưng thứ tự văn nguyện và nội dung có chỗ bất đồng thì có thể biết nó chẳng phải đồng một bản Phạn.

Ngoài ra, thời Tam Quốc và thời Tấn cũng dịch nhiều kinh điển nói về bản sinh của Đức Phật A-di-đà như các kinh Huệ ấn tam-muội, Vô lượng môn vi mật trì do ngài Chi Khiêm vào thời Ngô dịch; các kinh Đức Quang thái tử, Quyết định tổng trì, Hiền Kiếp, Chính pháp hoa, Tề chư phương đẳng học, Sinh Kinh, Quang Thế Âm, Đại Thế Chí thụ ký v.v…do ngài Trúc Pháp Hộ vào thời Tây Tấn dịch. Lại nữa, ở Thất Dịch Tạp Kinh Lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 4 có liệt kê có Di-đà Phật kệ 1 quyển, A-di-đà Phật kệ nay đã thất truyền, nhưng Hậu xuất Di-đà Phật kệ vẫn còn ở trong Tạng kinh, gồm mười bốn hàng kệ theo thể ngũ ngôn, trong đó nêu hai mươi bốn nguyện, phải chăng từ bản Phạn dịch ra hay do người Trung Quốc sáng tác thì không thể biết được, nhưng trước thời Lưu Tống đã có, đây là điều không cho hoài nghi.


Tiết 3: Tín ngưỡng tịnh độ thời kỳ đầu

Như đã nói ở trên, ngài Chi Khiêm thời Ngô, ngài Trúc Pháp Hộ thời Tây Tấn kế tiếp nhau dịch các kinh điển về tịnh độ của Đức Phật Di-đà, sau đó, những người đọc tụng những kinh điển này dần dần nguyện cầu vãng sinh Tây phương. Pháp Uyển Châu Lâm quyển 42 dẫn dụng truyện ký trong Minh tường ký kể về Khuyết Công Tắc và học trò của ông là Vệ Sĩ Độ vãng sinh tịnh độ Tây phương. Như trong văn ghi: Khuyết Công Tắc là người nước Triệu. Ông sống đạm bạc, siêng năng làm pháp sự, vào đời Tấn Vũ (265-274TL) ông qua đời ở Lạc Dương. Đạo tục đồng lòng thiết hội ở chùa Bạch Mã. Đêm ấy, đang tụng kinh bỗng nghe trên không trung có tiếng ca tụng, ngưỡng lên thấy một người thân hình to lớn, uy nghi chỉnh tề, người ấy nói: “Tôi là Khuyết Công Tắc, được sinh về thế giới Tây phương An Lạc, nay cùng với các bồ-tát đến nghe kinh”. Đây có lẽ là người tín ngưỡng Di-đà sớm nhất ở Trung Quốc, hiện còn ghi trong tài liệu lịch sử. Luận Niệm Phật tam-muội bảo vương quyển trung của ngài Phi Tích, đời Đường có ghi: Chi Đạo Lâm và Ngu Hiếu Kính thời Đông Tấn đều có viết bài văn Tán ca ngợi Công Tắc.

Lại nữa, trong Minh tường ký ghi: Vệ Sĩ Độ là người Cấp Quận (huyện Cấp, tỉnh Hà Nam) cũng là cư sĩ khổ hạnh. Ông giỏi văn chương, có viết bài sám Bát quan trai, ông qua đời giữa niên hiệu Vĩnh Xương (322TL), thời Đông Tấn và cũng có xuất hiện điềm lạ, có người tạo tượng, viết truyện thánh hiền ghi đầy đủ việc này, nói Vệ Sĩ Độ cũng được sinh Tây phương. Xuất tam tạng ký tập quyển 2 ghi: Vệ Sĩ Độ sống thời Tấn Huệ Đế, có làm toát yếu về kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật đạo hành 2 quyển, đủ cho thấy ông ấy cũng là người tinh thông Bát-nhã.

Lại nữa, năm cuối của thời Tây Tấn có ngài Trúc Tăng Hiển, người đất Bắc, ngài thường lấy sự tụng kinh, thiền định làm sự nghiệp. Cuối niên hiệu Thái Hưng, thời Đông Tấn (321TL), ngài đi về phía nam đến Giang Tả. Sau đó, ngài bị bệnh nặng lâu ngày, vô cùng đau khổ, ngài luôn nghĩ tưởng Tây phương, thấy chân dung Phật Vô Lượng Thọ giáng xuống, ánh sáng chiếu đến thân ngài, sự đau đớn đều thuyên giảm. Sáng hôm sau, ngài ngồi yênthị tịch. Kế tiếp có ngài Trúc Pháp Khoáng, người Hạ Phi (huyện Phi, tỉnh Giang Tô), là đệ tử của sa-môn Trúc Đàm Ấn, sau ngài đến ẩn náu ở thạch thất trong núi sâu, thường cho kinh Pháp hoayếu chỉ của tam hội, kinh Vô Lượng Thọ là nhân của tịnh độ, ngài thường ngâm vịnh hai bộ này, có chúng thì giảng, một mình thì tụng.

Vào niên hiệu Hưng Ninh, thời Đông Tấn (363-365TL), ngài đi về phía đông đến Vũ Huyệt (Núi Uyển Ủy, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang) cùng Hi Siêu, Tạ Khánh Tự kết bạn xuất thế. Những người bệnh trong nhân gian đến cầu ngài chữa trị, phần nhiều đều được lành bệnh. Bấy giờ, sa-môn Trúc Đạo Lân tạc tượng Phật Vô Lượng Thọ, ngài Pháp Khoáng bèn vận động những người có duyên với mình cùng xây dựng đại điện, việc này được ghi ở quyển 5 và quyển 11 trong Lương cao tăng truyện. Trong đó, có nói đến việc Pháp Khoáng giảng kinh Vô Lượng Thọ cho đại chúng nghe. Kinh mà Pháp Khoáng đã giảng, tôi suy đoán có thể là kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác của ngài Trúc Pháp Hộ dịch.

Tóm lại, việc này thật là sự khởi đầu của việc giảng giải kinh điển Di-đà ở Trung Quốc.

Đầu thời Đông Tấn có Chi Độn, tự Đạo Lâm, người Trần Lưu (huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam), vốn có tụng kinh Đạo hành bát-nhã và kinh Huệ ấn tam-muội v.v… cùng với Vương Hiệp, Hi Siêu, Tôn Sước kết bạn xuất thế và ông có trứ tác các sách Tâm du huyền luận, Đạo hành chỉ qui. Thái Hòa nguyên niên (366TL), ông thị tịch, hưởng dương 53 tuổi. Ông đã từng sai thợ tạc tượng Đức Phật A-di-đà, tự soạn bài văn tán, về sau được ghi lại ở quyển 15 trong Quảng hoằng minh tập. Trong bài văn A-di-đà Phật tượng tán và tựa có ghi: “Cuối thời Đông Tấn này có người thờ Phật, giữ giới, tụng kinh A-di-đà, nguyện sinh về nước của Ngài, luôn luôn chí thành, mạng chung có hiện điềm lành, vãng sinh về đó, được thấy Phật, khai ngộ liền đắc đạo”. Đây chính là chỉ cho Chi Độn phúng tụng kinh A-di-đà của ngài Chi Khiêm dịch, y theo kinh này dạy mà phát nguyện cầu vãng sinh tịnh độ.

Lại nữa, tượng Phật của Chi Độn tạc này so với tượng Phật của ngài Trúc Đạo Lân tạc đã nói ở trên, tượng nào tạc trước thì không cách nào phân biệt được. Nhưng tóm lại chỉ biết là từ đầu thời Đông Tấn đã có người tạc tượng Phật A-di-đà.

Lại nữa, văn của Di-lặc bộ trong Pháp uyển châu lâm quyển 16 ghi: “Thời Tấn, nước Tiêu có Đái Quì, tự Đạo An, người nước Tiều trốn sang vùng đất nước Ngô cũ, nghiên cứu Phật giáotạc tượng Phật Vô Lượng Thọ có hai vị bồ-tát đứng hầu, bị nhiều lời bình phẩm nên ông đã gia tâm sửa chữa kỹ càng hơn, suốt ba năm mới thành tựu, một lúc sau thì ông liền nghinh tiếp tượng vào chùa Linh Bảo, ở Sơn Âm (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang). Hi Siêu ở Cao Bình nghe liền đến lễ bái, về sau tượng này phóng ánh sáng lớn, đạo tục ai thấy đều phát tâm bồ-đề.

Tấn thư quyển 94 ghi: “Vào đời Hiếu Vũ Đế, thời Đông Tấn, Đái Quì nhờ Tán kị thường thị, Quốc tử bác sĩ trình bày nhiều lần, kiên trì nhưng không được nên ông bèn trốn sang nước Ngô. Việc này xảy ra khoảng giữa niên hiệu Thái Nguyên (376-395TL).

Lại nữa. Tục cao tăng truyện quyển 29, Pháp uyển châu lâm quyển 13 có ghi: Tháng tư niên hiệu Ninh Khang thứ 3, thời Đông Tấn (375TL) sa-môn Thích Đạo An ở chùa Đàn Khê, Tương Dương đúc tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng, cao mười tám thước, đến cuối mùa đông năm sau thì thành tựu tốt đẹp, vào tối hôm đó, tượng tự di chuyển ra đứng trước cửa chùa, mọi người đều kinh ngạc, bèn đổi tên chùa là Kim Tượng. Nhưng Quảng hoằng minh tập quyển 15 ghi ngài Thích hòa thượng (tức ngài Đạo An) viết bài tựa ca ngợi tượng Phật mười sáu thước ở Tương Dương thời Tấn, nhưng chẳng thấy có một lời nào nói đến Di-đà và tịnh độ, lại có câu: “Vĩ đại thay Thích-ca! Ngài khéo chuyển pháp luân ở thế gian”, và trong Lương cao tăng truyện quyển 5 chỉ nói tượng đồng, không nêu tên Phật, vì thế tượng này không phải là tượng Phật Vô Lượng Thọ mà là tượng Phật Thích-ca. Sau này, vào đầu niên hiệu Nguyên Hưng, thời Đông Tấn (402TL), ngài Huệ Viễn kết Bạch Liên xãLô sơn (huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây), theo văn phát thệ của Lưu Di Dân ghi: “Mọi người ở trước tượng Phật A-di-đà tại tinh xá Bát-nhã Đài lập thệ nguyện”. Điều này có thể thấy, lúc đó ở Lô sơn đã có thờ tượng Phật A-di-đà.

Bởi có liên quan đến việc tạo tượng Phật, kinh Bát-nhã tam-muội, phẩm Tứ sự ghi: “Nếu ai muốn mau đắc tam-muội thì nên tạo hình tượng Phật”. Kinh Đạo hành bát-nhã quyển 10, phẩm Đàm-vô-kiệt bồ-tát ghi: “Sở dĩ tuy tượng Phật không có thần thức nhưng tạc tượng là vì muốn cho người thế gian cúng thờ được phúc mà thôi”. Lại nữa, kinh Bồ-tát bản nghiệp của ngài Chi Khiêm dịch vào thời Ngô cũng ghi:

“Thấy được hình tượng Phật,

Nên nguyện cho chúng sinh

Khắp mười phương đều thấy

Mắt không bị ngăn che”.

Như thế thì việc tạo tượng vào thời đại Tam Quốc đã được sự chú ý của những người tín ngưỡng. Trong đó, kinh Bát-nhã tam-muội đã ghi: “Nếu ai muốn mau đắc tam-muội thì nên tạo hình tượng Phật, ở trước tượng Phật, một lòng quán tưởng thì có thể chóng đắc tam-muội, thấy chư Phật hiện tiền”. Các pháp quán tưởng trong kinh Quán Phật tam-muội hải, quyển 9, phẩm Quán tượngkinh Quán Vô Lượng Thọ v.v... dạy tạo lập tượng Phật rồi quán tưởng cũng đều từ thuyết này mà ra. Tuy nhiên, lúc đó cũng có dựa vào thuyết tạo lập tượng Phật được phước trong kinh Đạo hành bát-nhã, nhưng chủ ý của sự tạo tượng vốn xuất phát từ ý muốn để chóng đắc tam-muội. Y theo kinh Bát-chu tam-muội, nếu mong muốn được thấy Phật, trước cần phải tạo lập hình tượng Phật. Tín ngưỡng Tịnh Độ là thời kì đầu, kế đó tạo tượng Đức Phật A-di-đà tức là dựa vào yêu cầu này. Người đời sau dùng bản tôn qui y nên an trí tượng Phật, cho biểu tượng đó là Phật thật, khiến cho người thấy sinh tâm tôn trọng, cung kính, tự nhiên ý nghĩa của hai trường hợp này không đồng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31512)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10495)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11194)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12698)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10790)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16570)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10780)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22907)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11976)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11468)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10656)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12302)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11171)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9990)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10308)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11882)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10666)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12324)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9766)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11227)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13814)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9552)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12599)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9670)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10422)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10514)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10272)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9858)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11022)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11977)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10122)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10767)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9513)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9866)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8738)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9473)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14487)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8744)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12510)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10383)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9036)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10518)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9300)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8754)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10472)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9153)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8327)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11983)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9674)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10177)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10193)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19064)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9366)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8946)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9554)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8992)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14710)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10053)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8314)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8917)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8934)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8719)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9325)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14529)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8993)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8726)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8999)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10489)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8594)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9954)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24231)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10133)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10993)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8972)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9437)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7974)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9214)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15302)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10306)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9539)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17380)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21319)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12117)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10198)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19175)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25954)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7938)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14712)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10595)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11315)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9494)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18588)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12311)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11841)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10684)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13304)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9953)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9241)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9346)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15799)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant