Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 07: Thuyết bản nguyện tha lực của Đàm Loan

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 11834)
Chương 07: Thuyết bản nguyện tha lực của Đàm Loan

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG VII: THUYẾT BẢN NGUYỆN THA LỰC CỦA ĐÀM LOAN

Tiết 1: Sự tích và trứ tác của Đàm Loan

Căn cứ vào quyển hạ trong An Lạc tập của ngài Đạo Xước, thời Đường, có ghi: “Ở Trung Quốc, những tam tạng pháp sư thích quy ngưỡng Tịnh Độ, tất cả có sáu vị, trong đó có ngài Đàm Loan (sáu vị đại đức là Bồ-đề-lưu-chi, Huệ Sủng, Đạo Trường, Đàm Loan, Đại Hải, Pháp Thượng)”. Ngài Đàm Loan chú thích Vô Lượng Thọ kinh Ưu-bà-đề-xá tụng kệ của bồ-tát Thế Thân trứ tác, Bồ-đề-lưu-chi dịch, ngài cực lực đề xướng yếu nghĩa tịnh độ Tây phươngdựa vào tha lực và thuyết công đức bản nguyện của Phật Di-đà. Hai cương yếu này của tông Tịnh Độảnh hưởng rất lớn đối với hành giả tu Tịnh Độđời sau. Trong Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập của ngài Pháp Nhiên, người Nhật, nói tông Tịnh ĐộTrung Quốc được chia làm ba hệ phái lớn:

1. Lô sơn Huệ Viễn

2. Tam tạng Từ Mẫn

3. Đạo Xước, Thiện Đạo v.v…

Tư tưởng Tịnh Độ do ngài Đạo Xước và ngài Thiện Đạo truyền đều tôn xưng ngài Đàm Loan là thỉ tổ. Vì ngài Lô sơn Huệ Viễn y theo pháp tu Bát-chu tam-muội, lấy kì vọng ở trong định thấy Phật mà được vãng sinh, còn ngài Đàm Loan thì lấy sức công đức bản nguyện của Di-đà Như Lai nhiếp dẫn chúng sinh mà chóng được vãng sinh, đắc quả vị Bất thoái chuyển. Tư tưởng Tịnh Độ và pháp tu hành của ba hệ phái này, từ nghìn năm trăm năm đến nay, ở Trung Quốc đan chéo lẫn nhau truyền bá rộng rãi không bị suy thoái. Ngài Pháp Nhiên người Nhật truyền thừa tư tưởng Tịnh Độ của ngài Thiện Đạo, phát huy rộng rãi ở Nhật, đồng thời tôn ngài Đàm Loan là tổ thứ năm của tông Tịnh Độ, mãi về sau được mọi người sùng ngưỡng.

Tục cao tăng truyện quyển 6 ghi: Ngài Đàm Loan là người Nhạn Môn, tỉnh Sơn Tây (Đại châu, tỉnh Sơn Tây, hoặc nói ở Vấn Thủy, Tinh châu), do nhà ở gần núi Ngũ Đài nên ngài thường được nghe nói về hóa tích linh cảm ở núi Ngũ Đài; lúc mười tuổi, ngài lên núi du ngoạn, tinh thần cảm thấy vui vẻ, liền phát tâm xuất gia. Ngài học rộng nội điểnngoại điển, nghiên cứu cả bốn bộ luận (Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn luận, Đại trí độ luận) và các vấn đề về Phật tính. Khi đọc kinh Đại tập, vì từ ngữ nghĩa lí của kinh này sâu kín, khó để khai ngộ, nên ngài phải chú thích. Ngài chú thích được một nửa, đột nhiên ngã bệnh, về sau tuy bệnh thuyên giảm nhưng ngài nghĩ đến thân mạng vô thường, bèn lập chí trước phải học thuật trường sinh của Tiên đạo. Bấy giờ, ngài đi về phương Nam, đến Kiến Khang (Giang Ninh, Giang Tô), giữa niên hiệu Đại Thông, đời Lương Vũ Đế, ngài đến Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, Lương Vũ Đế cho mời ngài đến điện Trùng Vân, đồng thời vua thưa hỏi một vài vấn đề về Phật tính. Hôm sau, Lương Vũ Đế ở điện Thái Cực bước xuống bệ lễ tiếp, đồng thời hỏi mục đích của đại sư Đàm Loan đến phương nam. Đại sư Đàm Loan đáp: “Tôi muốn học Phật pháp nhưng tuổi thọ ngắn ngủi, cho nên đến phương nam, tham vấn Đào Ẩn Cư, cầu các tiên thuật”. Lương Vũ Đế giới thiệu đến tham vấn Đào Hoằng Cảnh ở núi Câu Dung, Đào Ẩn Cư thấy ngài đường xa đến tham vấn nên tiếp đãi vui vẻ, bèn đem mười hai quyển kinh Tiên trao cho ngài để đáp lại thâm ý.

Sau khi được kinh Tiên, ngài Đàm Loan muốn tìm một ngọn núi nổi tiếng để tu luyện tiên thuật. Trở về Bắc Ngụy, trên đường qua Lạc Dương, ngài gặp tam tạng Bồ-đề-lưu-chi, người Ấn Độ, liền hỏi: “Trong Phật pháppháp trường sinh bất tử hơn phép kinh Tiên ở Trung Quốc không?”. Tam tạng Lưu-chi khinh thường kinh Tiên và nói: “Dẫu được trường sinh bất tử, cuối cùng cũng luân hồi trong ba cõi mà thôi, nói pháp trường sinh bất tử thì chỉ có đạo Phật của chúng ta mới có”. Nói xong, Tam tạng Lưu-chi trao cho quyển kinh Quán Vô Lượng Thọ và khuyên ngài Đàm Loan y theo kinh này mà tu hành, sẽ được giải thoát sinh tử, được trường thọ vĩnh cửu. Ngài Đàm Loan nhờ lời khai thị của ngài Bồ-đề-lưu-chi, quyết định thiêu hủy kinh Tiên, chuyên tu pháp môn Tịnh Độ Di-đà của Phật Vô Lượng Thọ. Ngài còn dạy cho rất nhiều tăng tục tu học, tự mình hành, dạy người hành, truyền bá rộng rãi. Đương thời, đế vương Bắc Ngụy tôn trọng đức hạnh của ngài, sắc phong ngài là Thần Loan, đồng thời sắc lệnh ngài trụ trì chùa Đại Nham ở Tịnh châu. Về sau, ngài đến trụ trì chùa Huyền Trung, Thạch Bích, Bắc Sơn, Phần Châu (huyện Giao Thành, tỉnh Sơn Tây), tập hợp chúng chuyên tu pháp môn niệm Phật. Vào tháng 5 niên hiệu Hưng Hòa thứ tư (542TL), thời Đông Ngụy, ngài thị tịch ở chùa Bình Dao Sơn, hưởng thọ 67 tuổi.

Trong lời đối đáp của ngài Đàm Loan lúc gặp ngài Bồ-đề-lưu-chi và tiếp nhận Quán kinh v.v…như đoạn văn trước đã nói, khiến cho chúng ta đâm ra nghi ngờ. Vả lại, Vãng sinh luận chú do ngài soạn, là lời giải thích luận này, lại thêm vào lời phê bình. Nhưng đặc biệt là ngài chú thích ở phía sau chữ “nhất tầm” với lời bình “Người dịch lấy chữ ‘tầm’ để nói, sao mà tối nghĩa quá”. Nếu Bồ-đề-lưu-chi là vị thầy quy y tịnh độ của Đàm Loan thì đây là câu nói vô lễ. Như thế, vị thầy mà ngài Đàm Loan thụ nghiệp cuối cùng là ai, không thể biết được. Nhưng ngài là người nghiên cứu qua bốn bộ luận: Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn luậnĐại trí độ luận. Lại xét theo thứ tự sáu vị đại đức Đạo Trường, Đàm Loan v.v…trong An Lạc tập nêu tên ra thì có lẽ ngài là môn hạ thụ học với ngài Đạo Trường, người nổi tiếng đương thời về giảng giải Trí luận. Lại nữa, ngài Đạo Trường từng thụ trì Ngũ Thông mạn-đồ-la, như trước đã nói, nên ngài Đàm Loan chuyển hướng Tịnh Độ, cũng có lẽ là do sự chỉ dạy của ngài Đạo Trường.

Lại nữa, liên quan đến niên đại nhập diệt của ngài, tuy nhiên Tục cao tăng truyện có ghi ngài tịch vào niên hiệu Hưng Hòa thứ tư, thời Đông Ngụy, nhưng thấy trong bài minh Thái tử tạo tượng được lập vào tháng 2 niên hiệu Thiên Bảo thứ 5 (554TL), thời Bắc Tề có khắc trong hai mươi bảy người, liệt kê có tì-kheo tên Đàm Loan. Nếu tì-kheo Đàm Loan này và ngài Đàm Loan nói ở đây là một người thì niên đại nhập diệt kia phải là vào niên hiệu Thiên Bảo thứ 5, thời Bắc Tề trở về sau. Lại nữa, Đàm Loan truyện trong quyển hạ Tịnh độ luận của Ngài Ca Tài có ghi: Vào cuối thời Ngụy, đầu thời Cao Tề, ngài vẫn còn tại thế. Đạo Xước truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 20 và Vãng sinh Tây phương tịnh độ thụy ứng san truyện đều có ghi là pháp sư Đàm Loan là người thời Tề. Vậy chúng ta có thể thấy ngài chẳng phải thị tịch vào thời Đông Ngụy.

Những tác phẩm của ngài Đàm Loan để lại đời sau, gồm có bộ Vãng sinh luận chú 2 quyển, Tán Di-đà Phật kệ 1 quyển, Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa 1 quyển. Trong đó, bộ Vãng sinh luận chú giải thích Vô Lượng Thọ kinh luận của bồ-tát Thế Thân. Quyển thượng giải thích hai mươi bốn hàng kệ nguyện vãng sinh, quyển hạ giải thích văn trường hàng, trong luận chú đối với yếu nghĩa Tịnh Độ Di-đà có sự phát huy độc đáo. Tán Di-đà Phật kệ là thơ thất ngôn, tổng cộng một trăm chín mươi lăm bài tụng là căn cứ kinh Vô Lượng Thọ để ca ngợi Phật A-di-đà và công đức trang nghiêm về y báo, chính báo tịnh độ Tây phương của Ngài, cho nên còn có nhan đề là Vô Lượng Thọ kinh phụng tán, hoặc là Đại kinh phụng tán. Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa là nói về tịnh độ Tây phương An Lạc chẳng phải ở trong ba cõi, sự trang nghiêm của quốc độ, phẩm vị của người vãng sinh, biên địa, thai sinhnghi hoặc về ngũ trí[6], cho đến các luận nghĩa về mười niệm tương tục.

Trong Vô Lượng Thọ kinh tông yếu 2 quyển của Nguyên Hiểu, người Tân La, đưa ra ví dụ mặc áo hay cởi áo lội qua sông được nêu trong đây được cho là thuyết của ngài La-thập. Pháp hoa huyền nghĩa tư ký quyển thứ 6 của Chứng Chân, người Nhật Bản, cho rằng sách Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa do ngài La-thập trứ tác, nhưng sách này dẫn dụng có Quán kinh, Vãng sinh luận được phiên dịch sau ngài La-thập, vì thế sách này không phải do ngài La-thập soạn thuật, không cần phải hoài nghi. Lại nữa, trong trứ tác của ngài Linh Không Quang Khiêm, người Nhật Bản, có nói Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa 1 quyển, chẳng phải do ngài Đàm Loan soạn, mà nói sách này là ngụy tác của người Nhật Bản nào đó, chứ chẳng phải thật sự do ngài Đàm Loan soạn. Nhưng trong Tịnh độ luận của ngài Ca Tài, quyển hạ có nêu ngoài Vãng sinh luận chúVô Lượng Thọ kinh phụng tán ra, còn có một quyển Vấn đáp (tức An Lạc độ nghĩa). Trong An Lạc tập của ngài Đạo Xước cũng thường dẫn dụng văn của sách này. Không chỉ như vậy, thời cận đại ở động Đôn Hoàng cũng phát hiện bản cổ của sách này, do đó, không phải ngụy tác của Nhật Bản. Ngoài ra, trong Tục cao tăng truyện có đề cập Điều khí luận; Kinh tịch chí trong Tùy thư có nói đến Liệu bách bệnh tạp hoàn phương 3 quyển, Luận khí trị liệu phương 1 quyển; Nghệ văn chí trong Tống sử thì nêu Phục khí yếu quyết 1 quyển, tất cả đều là do đại sư Đàm Loan trứ tác. Chúng ta có thể thấy đại sư Đàm Loan cũng tinh thông về y thuật. Bởi vì, ngài Đàm Loan đã từng bị ma bệnh quấy nhiễu, vì tìm cách tự trị bệnh cho mình, cho nên ngài cũng tinh thông về y thuật.

Tiết 2: Nói về đạo khó hành và đạo dễ hành

Ngài Đàm Loan đề cao giáo nghĩa Tịnh Độ, lấy Vãng sinh luận chú làm chủ yếu, phần Khai tông minh nghĩa ở trong sách này, ngài trích dẫn ở phẩm Dị hành trong Thập trụ Tì-bà-sa luận của ngài Long Thọ, có ghi: “Bồ-tát cầu A-tì-bạt-trí (Bất thoái chuyển), có hai đạo: 1. Đạo khó hành; 2. Đạo dễ hành.

1. Đạo khó hành, nghĩa là ở đời năm trược, thời không có Phật, cầu A-tì-bạt-trí là khó, giống như đi bộ thì khổ nhọc.

2. Đạo dễ hành, chỉ dùng nhân duyên tin Phật để nguyện sinh Tịnh Độ, Phật lực gia trì tức nhập Đại thừa chính định tụ, chính định tức là A-tì-bạt-trí. Vì đời ngũ trược không có Phật, pháp ngoại đạo thịnh hành, quấy rối hành pháp vô tướng của bồ-tát; pháp tự lợi, tự điều phục của Thanh văn Tiểu thừa làm chướng ngại hạnh đại từ bi của bồ-tát, nên khiến cho họ bị thoái chuyển. Lại nữa, người ác không biết nhân quả, phá hoại đức thù thắng của bồ-tát, thiện quả hữu lậu điên đảo, quấy phá phạm hạnh của bồ-tát; không chỉ như vậy, trong thời không có Phật, người tu hành đều dựa vào năng lực của mình, không có Phật lực gia trì, cho nên khó đắc A-tì-bạt-trí; ví như đi bộ thì khó. Trái lại, đạo dễ hành thì nhờ sức bản nguyện của Đức Phật, nhờ nguyện mà vãng sinh. Được Phật lực gia trì thì nhập Đại thừa chính định tụ, rồi trụ Bất thoái chuyển. Đây tức là nương vào tha lực mà đắc A-tì-bạt-trí, ví như đi đường thủy thì ngồi trên thuyền thì thoải mái, nên gọi là đạo dễ hành.

Bởi vì hai đạo khó hành và đạo dễ hành vốn là do ngài Long Thọ khởi xướng. Ngài cho rằng ở cõi này lâu dài, chuyên tu tinh tấn, trải qua nhiều gian nan rồi mới được Bất thoái chuyển, là đạo khó hành; còn xưng niệm danh hiệu mười vị Phật ở mười phương như Phật Thiện Đức ở phương đông v.v…và danh hiệu chư Phật, bồ-tát như Phật A-di-đà, Phật Thế Tự Tại Vương v.v…thì chóng được Bất thoái chuyển, là đạo dễ hành. Vì vậy, ngài cho rằng ở cõi này hai đạo khó hành và đạo dễ hành đều có thể được Bất thoái chuyển.

Nhưng ngài Đàm Loan lại không có quan điểm như thế, ngài cho là ở cõi này tu hành được Bất thoái chuyển là đạo khó hành, chỉ có vãng sinh Tịnh Độ rồi tu hành được Bất thoái chuyển, mới là đạo dễ hành. Cõi này và Tịnh Độ, khó hành và dễ hành là do phân biệt tương đối mà nói.

Lại nữa, bồ-tát Long Thọ nói: “Xưng niệm danh hiệu chư Phật, bồ-tát đều thuộc pháp của đạo dễ hành”. Ngài Đàm Loan lại phản đối thuyết này. Ngài nói: “Chỉ có xưng niệm một danh hiệu Phật A-di-đà mới là đạo dễ hành, vả lại nhờ sức bản nguyện của Phật A-di-đà mới có thể vãng sinh Tịnh Độ, vãng sinh rồi mới được Bất thoái chuyển”. Như thế thì tất cả đều nhờ sức gia trì của Phật A-di-đà mà được, cho nên bất đồng với thuyết của bồ-tát Long Thọ. Những điều này là ngài Đàm Loan căn cứ vào giáo nghĩa của kinh Vô Lượng Thọ và luận Vãng sinh để rút ra kết luận.

Tuy cách nhìn về yếu nghĩa Tịnh Độ của hai vị có hơi khác biệt nhưng ngài Đàm Loan vô cùng tôn sùng sự vĩ đại của bồ-tát Long Thọ. Ở trong Tán A-di-đà Phật kệ của ngài, có lời tán tụng:

“Đại sư Long Thọ ma-ha-tát

Sinh nhằm thời tượng pháp suy đồi

Đóng bít cửa tà, mở chính lý

Là mắt sáng của châu Diêm-phù.

Xin theo bồ-tát Hoan Hỉ địa

Qui hướng Di-đà, sinh An Lạc.

Giống như rồng lượn, mây cuốn theo

Che mát trùm cả châu Diêm-phù.

Nam mô Từ bi Long Thọ tôn

Chí tâm qui mạng đỉnh lễ ngài.……”.

Đây là những lời tán thán chí thành, sùng kính. Trong đó, câu “Xin theo bồ-tát Hoan Hỉ địa v.v…” là y theo phẩm Kệ tụng trong kinh Nhập Lăng-già do Bồ-đề-lưu-chi dịch vào niên hiệu Diên Xương thứ 2 (515TL), thời Bắc Ngụy, để kể lại lời huyền ký về ngài Long Thọ vãng sinh cõi An Lạc. Ngài Đàm Loan nhờ nghiên cứu bốn bộ luận, do đó từ việc này, chúng ta có thể suy đoán ngài là người rất kính trọng bồ-tát Long Thọ. Cho đến khi thấy được lời văn huyền ký trong kinh Lăng-già thì ngài lại càng sinh tâm sùng kính hơn. Ngài Đàm Loan chắc là phải y theo đây mà phát khởi tín tâm qui nhập Tịnh Độ. Không chỉ như thế, trong Dị hành phẩm của bồ-tát Long Thọ còn liệt kê bản nguyện của Phật Di-đà, lại dùng ba mươi hai hàng kệ tụng để tán thán Phật Di-đà và tịnh độ của Ngài.

Thế nên, ngài Đàm Loan tham khảo, nghiên cứu ý kiến sâu kín của bồ-tát Long Thọ, rồi ước định một Đức Phật Di-đà và đặc biệt luận về đạo dễ hành và nói về sự lợi ích lớn lao của việc đắc Bất thoái chuyển sau khi được vãng sinh.

Tiết 3: Thuyết bản nguyện tha lực

Đại sư Đàm Loan nhấn mạnh sự trọng yếu nguyện lực của Đức Phật Di-đà, đó là ngài y theo kinh Vô Lượng Thọ. Nhưng chắc là ngài được sự gợi ý của bồ-tát Long Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ sớm được lưu thông ở phương Nam (đất Lương, thuộc Nam Triều). Trong Cao tăng truyện có ghi: “Như pháp sư Pháp Độ ở chùa Thê Hà, pháp sư Bảo Lượng ở chùa Linh Vị v.v…thường thuyết kinh này. Thế nhưng, họ chưa từng trứ tác sách vở hay lập thuyết, đối với bản nguyện Di-đà cũng chưa có phát biểu ý kiến mới gì cả. Đợi đến khi kinh này được hoằng truyền ở phương Bắc, thì ngài Đàm Loan mới cực lực khởi xướng. Cho nên, ngài Đàm Loan thật sự là người đầu tiên luận về Nguyện lực. Lý luận này có ảnh hưởng rất lớn đối với người tu học pháp môn Tịnh Độđời sau. Trong Vãng sinh luận chú quyển hạ có nói đến sự mạnh mẽ của nguyện lực Di-đà, tu tập ngũ niệm môn để tự lợi lợi tha thì có thể mau đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Đây là nương nhờ duyên tăng thượng của A-di-đà Như Laichứng đắc. Vì vậy, tất cả người vãng sinh Tịnh Độ, cho đến bồ-tát, thanh văn, người, trời, đại chúng tu tịnh hạnh đều nương nhờ bản nguyện của A-di-đà Như Lai. Nếu chẳng phải nguyện lực của Đức Phật gia bị thì bốn mươi tám đại nguyện của Di-đà chỉ thiết lập suông.

Trong bốn mươi tám đại nguyện, ngài Đàm Loan đặc biệt chỉ ra ba đại nguyện mười một, mười tám và hai mươi hai để luận chứng. Y theo ba đại nguyện này tu hành thì có thể vãng sinh Tịnh Độ, có thể đắc Bất thoái chuyển, có thể đắc Chính định tụ cho đến chóng thành Phật đạo. Nguyện thứ mười một nói về trụ Chính định tụ: “Nếu tôi được thành Phật mà người, trời trong nước tôi không trụ Chính định tụ, chắc chắn được diệt độ thì tôi không thành Chính Giác”. Ngài Đàm Loan cho rằng người nhờ sức bản nguyện này được sinh về nước kia, đều trụ Chính định tụ thì không còn thoái chuyển. Nguyện thứ mười tám: “Nếu tôi được thành Phậtchúng sinh trong mười phương chí tâm tin ưa, muốn sinh nước tôi, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh thì tôi không thành Chính Giác, chỉ trừ kẻ phạm năm tội nghịchphỉ báng chính pháp”. Ngài Đàm Loan cho rằng nhờ sức bản nguyện này, chúng sinh trong mười phương đều được vãng sinh Tịnh Độ. Nguyện thứ hai mươi hai nói: “Nếu tôi được thành Phật, các chúng bồ-tát ở cõi Phật phương khác sinh đến nước tôi, rốt ráo nhất định đắc Nhất sinh bổ xứ, trừ người có bản nguyện riêng, tự tại biến hóa, vì chúng sinh, mặc giáp hoằng thệ, tích lũy công đức, độ thoát tất cả, đi đến các cõi nước Phật, tu hạnh bồ-tát, cúng dường mười phương chư Phật Như Lai, khai hóa Hằng sa vô lượng chúng sinh, khiến an lập nơi đạo vô thượng chính chân, vượt qua công hạnh của các địa bình thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền, nếu không được như vậy thì tôi không thành Chính Giác”. Ngài Đàm Loan cho rằng nương sức bản nguyện này, nhờ nguyện lực của Phật mà được vãng sinh Tịnh Độ, vượt qua các địa bình thường, nghĩa là vượt qua hạnh của các địa như sơ địa, nhị địa, tam địa v.v… mà mau chứng địa vị Nhất sinh bổ xứ.

Bởi vì, ngài Đàm Loan đã được truyền thừa nguyên ý bất thoái chuyển của bồ-tát Long Thọ, mà lại phát huy thêm thâm ý mau thành Chính Giác. Cho nên, ngài đặc biệt dẫn chứng nguyện mười một, nguyện hai mươi hai. Lại nữa, nhờ vào những nguyện này mà được vãng sinh Tịnh Độ, về sau mới được lợi ích, cho nên ngài nêu thêm nguyện mười tám làm tiền đề. Dùng ba đại thệ nguyện này làm trung tâm để đề xướng bản nguyện luận tha lực: “Đạo khó hành là nương vào tự lực; đạo dễ hành là dựa vào nguyện lực của Phật, nương nguyện vãng sinh, cho đến Phật lực gia trì để mau thành Phật đạo”. Luận chứng thâm ý này đối với giá trị chân chính của giáo lý Di-đà tịnh độtác dụng trình bày và phát huy mạnh mẽ. Đời sau, các ngài Thiện Đạo v.v…đều thừa kế thuyết này và phát huy càng rộng lớn thêm.

Tiết 4: Nói về Ngũ niệm môn

Như trên đã nói, ngài Đàm Loan cho rằng nguyện lực của Phật rất mạnh, nên chúng sinh được vãng sinh, đắc Bất thoái chuyển, chóng thành Phật đạo là cương lĩnh của giáo nghĩa Tịnh Độ. Trong đó, Bất thoái chuyển, chóng thành Phật đạo, Phật lực gia trì, nhất định phải do sự nỗ lực tu trì của bản thân hành giả tu Tịnh Độ mới được. Lại nữa, theo luận Vãng sinh của ngài Thế Thân lấy pháp tu Ngũ niệm môn làm pháp vãng sinh Tịnh Độ. Ngũ niệm môn:

1. Lễ bái môn

2. Tán thán môn

3. Tác nguyện môn

4. Quán sát môn

5. Hồi hướng môn.

Ý nghĩa của năm môn trên, chính ngài Thế Thân đã có giải thích, nhưng ngài Đàm Loan còn nói rộng thêm, đặc biệt ngài trình bày, phát huy và giải thích một cách tường tận.

1. Lễ bái môn nghĩa là trong tâm thường khởi nguyện cầu sinh Tịnh Độlễ bái Di-đà Như Lai. Đối với điều này không còn giải thích nào khác.

2. Tán thán mônxưng niệm danh hiệu Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai (Phật A-di-đà). Luận Vãng sinh có ghi: “Miệng tán thán danh hiệu Như Lai ấy, như ánh sáng trí tướng của Như Lai ấy, như danh nghĩa của Ngài, vì muốn tu hành đúng như thật tương ưng với danh nghĩa ấy”. Ngài Đàm Loan giải thích văn này: Ánh sáng của Phật là tướng trí tuệ, cho nên gọi là ánh sáng trí tướng, ánh sáng này chiếu khắp mười phương thế giới, không bị chướng ngại, có thể phá tan bóng tối vô minh cho chúng sinh trong mười phương, lại có thể làm thỏa mãn tất cả chí nguyện của chúng sinh. Tuy xưng danh, ức niệm nhưng vô minh vẫn còn, và sở nguyện không viên mãn, thế nên như thật tu hành tương ưng với nghĩa của danh hiệu Như Lai thì bóng tối vô minh mới bị phá trừ, tất cả chí nguyện mới được viên mãn.

Sao gọi là chẳng như thật tu hành? Là danh hiệu không tương ưng với nghĩa. Thế nào là chẳng như thật tu hành cùng với danh nghĩa chẳng tương ưng? Chẳng biết Như Lai là thân thật tướng, cho là thân vật chất. Lại có ba loại chẳng tương ưng:

a. Tín tâm không thuần, khi có khi không

b. Tín tâm bất nhất, không có tính quyết định.

c. Tín tâm chẳng tương tục, còn xen lẫn tạp niệm.

Vì thế, chẳng thành như thật tu hành cũng tức là danh và nghĩa chẳng thể nương nhau. Trái lại, nếu tín tâm thuần nhất, tín tâm quyết định, tín tâm tương tục thì danh nghĩa, như thật tu hành tương ưng, tất cả chí nguyện ắt thỏa mãn. Bởi vì luận Đại trí độ quyển 34 có ghi: “Phật có hai thứ thân: pháp tính sinh thân Phật và Hóa thân Phật tùy theo chúng sinh ưu liệt mà hiện. Pháp tính sinh thân Phật là không có việc gì không làm được, không có nguyện nào không thỏa mãn”. Căn cứ vào thuyết chỉ nghe danh Phật ấy thì có thể đắc đạo, cho rằng Phật A-di-đà là pháp tính sinh thân Phật. Vì thế, nếu có thể như thật tu hành, tất cả chí nguyện không nguyện nào không viên mãn. Lại nữa, căn cứ vào thuyết nhất tâm quy mạng Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai trong luận Vãng sinh, cho rằng tín tâm quyết định tương tục thì tương ưng với nghĩa của danh hiệu của Như Lai ấy và có thể trừ bóng tối vô minh. Về sau, ngài Thiện Đạo đặc biệt hoằng dương, lấy đây làm chính nhân vãng sinh Tịnh Độ, cho nên rất xem trọng.

Nhưng sự giải thích của đoạn văn này là chủ trương của cá nhân ngài Đàm Loan, e rằng chẳng phải nguyên ý của luận Vãng sinh. Nguyên nhân vì sao ở trong Tán thán môn thì nói đến như thật tu hành tương ưng? Trong Tác nguyện môn thứ ba có như thật tu hành xa-ma-tha, lại trong Quán sát môn thứ tư có như thật tu hành tì-bà-xá-na, nên có thể so sánh mà biết, như thật tương ưng là theo sự tu hành mà nói, bởi vì chữ tương ưng, Trung Quốc dịch từ chữ Du-già. Du-già có bốn loại: giáo, lý, hành, quả, trong đó công đức tán thán Như Lai là quả Du-già; xa-ma-tha, tì-bà-xá-na tức là hành Du-già; y báochính báo trang nghiêm gồm ba loại, hai mươi chín câu là cảnh Du-già. Nhờ đây, chúng ta có thể biết sự sắp xếp của Ngũ niệm môn chủ yếu là y theo giáo nghĩa của Du-già mà thành lập. Vậy thì, ngài Đàm Loan đem sự giải thích này làm nghĩa của danh nghĩa tương ưng, là điều không hợp với nguyên ý của ngài Thế Thân.

3. Tác nguyện mônnhất tâm chuyên niệmphát nguyện vãng sinh cõi An Lạc, muốn như thật tu hành xa-ma-tha tức là tu Chỉ, vì xa-ma-tha Hán dịch là Chỉ. Ngài Đàm Loan giải thích “Chỉ” là nghĩa dứt điều ác, có ba nghĩa:

a. Nhất tâm chuyên niệm A-di-đà Như Lai, nguyện sinh cõi ấy, nhờ danh hiệu của Như Lai này và danh hiệu của cõi nước kia mà có thể dứt tất cả điều ác.

b. Cõi An Lạc vượt qua ba cõi, nếu người vãng sinh cõi ấy, tự nhiên dứt được điều ác của thân, miệng và ý.

c. Sức trụ trì chính giác của A-di-đà Như Lai tự nhiên ngăn cái tâm của chúng sinh ở cõi kia cầu Thanh văn, Bích-chi-phật.

Ba loại Chỉ này sinh từ công đức như thật của Như Lai, cho nên nói muốn như thật tu hành xa-ma-tha.

4. Quán sát môn là phải chính niệmquán sát ba loại, hai mươi chín câu trang nghiêm của tịnh độ kia, rồi muốn như thật tu hành tì-bà-xá-na tức là tu Quán. Ngài Đàm Loan giải thích Quán có hai nghĩa:

a. Ở cõi này khởi tưởng để quán sát công đức của ba loại trang nghiêm, vì công đức này như thật nên người tu hành cũng được công đức như thậtquyết định được sinh về tịnh độ ấy .

b. Người được sinh về tịnh độ ấy, liền thấy Đức Phật A-di-đà, tuy chưa chứng bồ-tát tâm tịnh nhưng cũng đồng với bồ-tát tâm tịnh được chứng pháp thân bình đẳng. Vì thế, nói như thật tu hành tì-bà-xá-na.

Trong đây, dùng xa-ma-tha để giải thích nghĩa dứt ác, lập riêng ba nghĩa để nói là điều không hợp với nguyên ý. Lại dùng tì-bà-xá-na làm nghĩa sinh về cõi kia, sau đó thấy Phật A-di-đà, cũng không được thỏa đáng và cũng không hợp với ý của bồ-tát Thế Thân. Nhưng lấy Đức Phật làm trung tâm, đứng trên lập trường “Phật lực trụ trì”, mà giải thích ý đồ của tất cả, là đặc trưng giáo nghĩa của ngài Đàm Loan, đây là chủ trương trước sau như một của ngài.

5. Hồi hướng môn là chẳng đem tất cả công đức thiện căn cầu cho tự thân được an vui mà vì muốn dứt trừ tất cả khổ cho chúng sinh nên phát nguyện nhiếp thủ họ đồng sinh tịnh độ An Lạc. Ngài Đàm Loan nói: “Hồi hướng có hai loại: vãng tướng và hoàn tướng. Vãng tướng là đem công đức của mình hồi hướng cho tất cả chúng sinh, phát nguyện cùng sinh về cõi Phật ấy. Hoàn tướng là sau khi sinh về cõi ấy, đắc xa-ma-tha, tì-bà-xá-na và thành tựu phương tiện lực thì quay về thế giới Ta-bà để giáo hóa tất cả chúng sinh cùng hướng về Phật đạo. Nhưng tâm hồi hướng này là chỉ cho tâm Vô thượng bồ-đề, đã được nói trong ba hạng vãng sinhkinh Vô Lượng Thọ. Tâm Vô thượng bồ-đềtâm nguyện thành Phật; tâm nguyện thành Phật tức là tâm độ chúng sinh; tâm độ chúng sinh tức là nhiếp thủ chúng sinh mà sinh vào cõi có Phật. Vậy thì nguyện sinh tịnh độ An Lạc nhất định phải phát tâm bồ-đề này. Nếu không phát tâm này mà chỉ cầu cho bản thân hưởng thụ cõi An Lạc thì không thể vãng sinh cõi An Lạc. Do đây, vì cầu vãng sinhphát tâm bồ-đề, vì vậy tâm bồ-đề được gọi là chính nhân của vãng sinh Tịnh Độ.

Ở trên, ngài Đàm Loan lấy Ngũ niệm môn làm nhân vãng sinh. Trong đó, ngài y theo nguyên ý của Vãng sinh luận, Quán sát môn lẽ là ra hành môn chủ yếu, như trong Quán sát môn đã nói. Nhưng trong Thập trụ Tì-bà-sa luận thì xác tín rằng danh hiệu là thuyết Dị hành. Lại nữa, trong Tán thán môn nói xưng tán danh hiệu Như Lai đối với công đức xưng danh thì được coi trọng hơn. Lại cho rằng xưng danh hiệu Phật thật có công đức rất sâu, và cổ súy mọi người nên tin theo. Phần đầu của Vãng sinh luận chú nói kinh Vô Lượng Thọ dùng danh hiệu Phật làm thể. Lại nữa, danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai có đại dụng phá trừ bóng tối vô minh. Danh hiệu Như Laidanh hiệu quốc độ của Ngài có năng lực dứt tất cả điều ác. Chúng sinh ở trong sinh tử tuy có vô lượng tội lỗi nhưng dùng bảo châu thanh tịnh chí cực vô sinh của Di-đà Như Lai gieo vào trong tâm ô uế của chúng sinh thì có thể diệt được tội trong mỗi niệm của họ, tâm tịnh thì được vãng sinh. Trong Vô Lượng Thọ kinh phụng tán có ghi: “Người nghe đức hiệu của Di-đà, sinh lòng tin, vui vẻ lắng nghe, cho đến một niệm sinh tâm chí thành, hồi hướng nguyện sinh thì đều được vãng sinh”.

Ngài Đàm Loan căn cứ vào điều nguyện thứ 18 trong kinh Vô Lượng Thọ: “Cho đến mười niệm, nếu chẳng vãng sinh thì tôi không thành Chính Giác”. Phần Hạ phẩm hạ sinh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có ghi: nếu xưng Nam mô A-di-đà Phật đủ mười niệm thì tội có thể diệt, được vãng sinh và dùng mười niệm tương tục làm sinh nhân của vãng sinh Tịnh Độ, đồng thời giải thích đó là nhân tố để thành tựu sự nghiệp vãng sinh. Có liên quan ý nghĩa của mười niệm, Vãng sinh luận chú quyển thượng cho rằng nghĩa của ức niệm A-di-đà Phật, hoặc là tổng tướng, hoặc là biệt tướng, tùy theo duyên sở quán vào một tướng nào, tâm khôngý tưởng khác, mười niệm tương tục, gọi là thập niệm. Xưng danh hiệu cũng lại như thế.

Lại nữa, trong Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa có nêu ví dụ mặc áo, cởi áo để qua sông có ghi: “Mười niệm tương tục, giống như có người ở nơi hoang dã bị giặc truy đuổi, do đó nghĩ cách chạy trốn, bỗng thấy trước mặt có dòng sông lớn chắn ngang, nhưng phải vượt qua sông ấy mới có thể thoát được ách nạn. Khi đó, người này chỉ nghĩ vượt qua sông, không có ý nghĩ nào khác. Nói cách khác, khi đó, người này tuyệt nhiên không thể suy đi nghĩ lại là nên mặc áo để bơi qua sông, hay nên cởi hết áo quần để bơi qua sông, nếu mặc áo quần xuống nước thì áo quần sẽ bị thấm ướt, không tiện cho việc bơi lội, e sẽ bị chết chìm; nếu cởi hết áo quần để bơi qua sông thì giặc đuổi đến nơi, thời gian lại không cho phép. Chỉ có một niệm qua sông, lại không có ý niệm khác. Hành giả tu Tịnh Độ nhất tâm chuyên niệm Phật A-di-đà lại không có tâm khác xen tạp trong đó, niệm niệm nối nhau, cho đến mười niệm, đây gọi là mười niệm tương tục. Tức là nói: “Không luận xưng danh hiệu, hay là quán tưởng tướng hảo của Phật Di-đà, chỉ cần nhất tâm chuyên chú, tâm khôngý tưởng khác xen tạp, mười niệm tương tục tức gọi là thập niệm.

Hỏi: Chỉ dùng nhất tâm tương tục này chuyên chú quán tưởng tướng hảo của Phật Di-đà, như vậy làm sao biết được trước sau tổng cộng có bao nhiêu niệm? Như ban đầu quán tưởng tướng hảo của Phật Di-đà, giữa chừng xen tạp sự duyên khác, đợi sự duyên qua đi, lại nhiếp tâm quán niệm, như thế thì có thể tính ra số lần niệm. Nhưng niệm trước niệm sau có bị gián đoạn, cho nên không thành tương tục. Niệm tức là niệm trước và niệm sau gián đoạn, giữa chừng tương tục không gián đoạn. Ngài Đàm Loan đối với thập niệm này đầy đủ, xác nhận đó là điều then chốt để thành tựu sự nghiệp vãng sinh. Nếu ngưng tâm quán tưởng, lại nương vào đây có thể nhớ kỹ bao nhiêu niệm?

Đáp: Kinh nói thập niệmnói hành nghiệp vãng sinh thành tựu, không cần phải biết số niệm, giống như con ve tuy nó sinh vào mùa hạ và cũng chết vào mùa hạ nên nó không biết có mùa xuân, mùa thu như người hiểu biết tự có thể biết rõ mạng số của nó. Mười niệm tương tục có thể thành tựu tịnh nghiệp vãng sinh, đây tuy là việc không biết của hàng phàm phu chúng ta nhưng nhìn từ lập trường của bậc chứng thần thông thì họ biết rõ ràngthành tựu hay không? Vì thế, hành giả chỉ nhất tâm không loạn, tích niệm tương tục, không duyên việc khác, lại có rãnh rỗi đâu mà đi phân biệt số niệm. Nếu cần biết thì cũng có phương tiện, đó là phải truyền miệng chứ không thể hình dung bằng bút mực. Đây là chuyên niệm tương tục được ngài Đàm Loan đặc biệt xem trọng, và lấy đây làm điều then chốt để thành tựu tịnh nghiệp.

Tiết 5: Luận về tịnh độ Di-đà

Thời ngài Đàm Loan đối với thuyết phân loại Tịnh Độ, hình như còn chưa phân biệt rõ ràng, nhưng y theo Vãng sinh luậnĐại trí độ luận cho rằng Tịnh Độ Di-đà vượt qua khỏi ba cõi. Trong Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa có nêu nước An Lạc nhưng chẳng thuộc trong ba cõi. Luận Đại trí độ cũng có nói Tịnh Độ chẳng thuộc ba cõi. Vì sao? Vì Tịnh Độ không có tham dục nên chẳng phải Dục giới; vì là địa cư nên chẳng thuộc Sắc giới; vì có hình sắc nên chẳng thuộc Vô sắc giới. Lại nữa, Vãng sinh luận chú quyển thượng, khi giải thích câu kệ “Thắng quá tam giới đạo”, ngài Đàm Loan nói: “Xưa sở dĩ Phật nói lên công đức thanh tịnh trang nghiêm này, vì ngài thấy ba cõi là tướng hư ngụy, là tướng luân chuyển, là tướng vô cùng, như con sâu đo tuần hoàn, như con tằm tự ràng buộc mình. Than ôi! Chúng sinh ở trong ba cõi này, điên đảo bất tịnh, Đức Phật vì muốn đặt chúng sinh ở chỗ không hư ngụy, chỗ không luân chuyển, chỗ không cùng tận, được ở chỗ rốt ráo an lạc thanh tịnh, cho nên nói ra công đức trang nghiêm thanh tịnh này”.

 

Lại nữa, khi Đàm Loan nói đến vấn đề thân Phật Di-đà là báo thân hay là ứng thân, thì trong Vãng sinh luận chú, ngài nêu lên bồ-tát Pháp Tạng ở chỗ Đức Phật Thế Tự Tại Vương chứng ngộ Vô sinh pháp nhẫn, giai vị này gọi là chủng tính Phật. Ở trong tính này, bồ-tát Pháp Tạng phát bốn mươi tám đại nguyện, mà tu hạnh trang nghiêm tịnh độ tức là tịnh độ An Lạc. Vì thế, cõi này là nhân sở đắc của Ngài. Vì trong quả nói nhân cho nên gọi là tính. Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa cũng nói đến bồ-tát Pháp Tạng ở trước Đức Phật Thế Tự Tại Vương phát hoằng thệ nguyện, để nhiếp thủ sự trang nghiêm thanh tịnh quốc độ của chư Phật, và đã vô lượng a-tăng-kỳ kiếp phát nguyện tu các ba-la-mật-đa để trang nghiêm vạn thiện được thành tựu viên mãn, rồi chứng đắc Phật đạo vô thượng. Đây tức là do biệt nghiệp mà được, cho nên tịnh độ chẳng thuộc ba cõi, ba thân đầy đủ. Do đây không cần hoài nghi Đức Phật kia không phải là báo thân Phật, tịnh độ Tây phương không phải báo độ. Ở trong Quán kinh nghĩa sớ của Cát Tạng có ghi: “Địa luận sư phương Bắc nói rằng tịnh độ Di-đà chẳng thuộc ba cõi. Lại nữa, khi bồ-tát Pháp Tạng đã chứng địa vị bát địa trở lên, là pháp thân đại sĩ, nên tịnh độ mà ngài trang nghiêm là Thật báo trang nghiêm độ v.v…”. Điều này chỉ cho thuyết của ngài Đàm Loan.

Ngài Đàm Loan lại dẫn kinh Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà nói: “Tịnh độ Di-đà có vô lượng vô số chúng Thanh văn” và Vãng sinh luận có ghi: “Chủng tính nhị thừa không sinh”. Hai thuyết này trái nhau, nếu dùng cả hai nghĩa bổ sung cho nhau thì sẽ được dung thông. Hai nghĩa này:

1, Đời ngũ trược, Thích Tôn nơi một phương tiện nói thành ba, Tịnh Độ không có ngũ trược, nên không có sự phân biệt nhị thừa thì Tây phương tịnh độ không có hàng nhị thừa. Kinh Vô Lượng Thọ v.v… nói: có hàng Thanh văn là chỉ cho A-la-hán, thật sự chẳng phải người Thanh văn thừa. Vì A-la-hán đều đã đoạn hoặc, không còn thụ sinh trong ba cõi, nhưng họ chưa được giải thoát hoàn toàn, không cầu vãng sinh tịnh độ ở ngoài ba cõi mà lại cầu đại đạo vô thượng, do đó, trong kinh vẫn gọi là Thanh văn, không hề có sai lầm.

2. Chủng tính Tiểu thừa không được sinh ở tịnh độ ấy, cho nên nói “Chủng tính nhị thừa không sinh”. Ví như ở vùng Giang Bắc tuyệt đối không có cây quýt, mà trong cửa hàng trái cây ở Hà Bắc, Lạc Dương có thể mua được trái quýt. Cũng vậy, trong cõi An Lạc không sinh chủng tính nhị thừa, nhưng không từ chối bậc Thanh văn sinh cõi ấy. Vì thế, nói trong tịnh độThanh văn cư trú. Vấn đề này, đời sau ngài Thiện Đạo v.v… nghiên cứuthảo luận, phần nhiều y theo thuyết sau để giải thích thật sự trong tịnh độ ấy có Thanh văn. Nhưng theo ý của Thế Thân, cõi ấy thuần là chúng Bồ-tát, mà không có chúng nhị thừa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10045)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10445)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10060)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20247)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11544)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13701)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 18962)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46569)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12021)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11586)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 22939)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17746)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10057)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17593)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13823)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 13956)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15004)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20185)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18155)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17275)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18062)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12622)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12734)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13322)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 16911)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11402)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18203)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18515)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21252)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22017)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16776)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12496)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15256)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24405)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14160)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11552)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19539)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13307)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22703)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18904)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18368)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21519)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20465)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19934)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13971)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14942)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13728)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15041)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17136)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15194)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12754)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15803)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12889)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13046)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 14951)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22523)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7081)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19257)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37443)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9080)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8568)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17778)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14815)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 26926)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19824)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15209)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15398)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26710)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14485)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19566)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14530)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18571)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15830)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16260)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19293)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19647)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19832)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18545)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29699)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14512)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17682)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32295)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15213)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17230)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29645)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31371)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64546)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32687)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20132)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18449)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30691)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19826)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45814)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32478)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39212)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40315)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 49976)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19036)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18473)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20602)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant