Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10: Tịnh độ luậnSinh nhân thuyết của Cát Tạng

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 11281)
Chương 10: Tịnh độ luận và Sinh nhân thuyết của Cát Tạng

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG X: TỊNH ĐỘ LUẬNSINH NHÂN THUYẾT CỦA CÁT TẠNG

Tiết 1: Sự tích ngài Cát Tạng

Ngài Cát Tạng vốn là người nước An Tức (nước Táp-mạt-kiến), cha ngài tránh kẻ thù nên dời sang Nam Hải. Về sau, ông chuyển đến Kim Lăng (Nam kinh, Giang Tô), rồi mới sinh ngài Cát Tạng. Năm 12 tuổi, ngài xuất gia với ngài Pháp Lãng ở chùa Hưng Hoàng, học Bách luận v.v… Năm nhà Tùy bình định Bách Việt, ngài đi về phương Đông đến núi Tần Vọng (phủ Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang), dừng ở chùa Gia Tường giảng kinh luận, đồ chúng hơn cả nghìn người, đời gọi ngài là đại sư Gia Tường. Niên hiệu Đại Nghiệp thứ 2 (606TL), đời Tùy, theo lời thỉnh của Dạng Đế, ngài đến đạo tràng Huệ NhậtDương Châu (huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô). Ngài lại dời đến chùa Nhật Nghiêm ở Trường An (huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây), chỉ chuyên giảng thuyết kinh luận. Đầu niên hiệu Vũ Đức, thời Đường, ngài là một trong mười vị đại đức nổi tiếng đương thời, ngài giám sát hai ngôi chùa Thật TếĐịnh Thủy. Vào tháng 5 niên hiệu Vũ Đế thứ 6 (623TL), ngài bị bệnh và đã trứ tác Tử bất bố luận. Về sau, ngài thị tịch, hưởng thọ 75 tuổi (hoặc 70 hay 71 tuổi). Các sách của ngài trứ tác gồm Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ 1 quyển, Quán Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ 1 quyển, Pháp hoa kinh huyền luận 10 quyển, Pháp hoa kinh nghĩa sớ 12 quyển, Tịnh Danh huyền luận 8 quyển, Thắng Man bảo quật 6 quyển, Đại thừa huyền luận 5 quyển, Tam luận huyền nghĩa 1 quyển, Tam luận huyền nghĩa sớ 16 quyển v.v… cả thảy vài chục bộ.

Ngài Cát Tạng y theo giáo nghĩa của Bát-nhã cổ súy Vô đắc chính quán, ngài được tôn xưng là vị tổ trùng hưng tam luận và ngài cũng rất quan tâm đối với giáo môn Tịnh Độ, nên ngài đã giải thích văn nghĩa kinh Vô Lượng ThọQuán kinh sớ, trong bài tự, ngài ân cần thuật rõ yếu chỉ vãng sinh tịnh độ. Cát Tạng truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 11 ghi: “Ngài tạo hai mươi lăm tôn tượng, sớm tối chí thành lễ sám”. Nếu hai mươi lăm tôn tượng này là hai mươi lăm vị bồ-tát được nói trong kinh Thập vãng sinh A-di-đà Phật quốc thì có thể thấy được ngài là một người tín ngưỡng Di-đà. Cát Tạng truyện lại có ghi: “Khi ngài Cát Tạng sắp mạng chung, thị giả đốt hương, ngài bảo xưng danh hiệu Phật”. Tuy chưa rõ là danh hiệu Phật gì nhưng theo trong Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ v.v… của ngài, thấy được nhiều lần ngài nêu lên mười niệm vãng sinh, danh hiệu Phật ấy có phải là danh hiệu Di-đà hay không cũng chưa thể biết được. Tóm lại, đại sư Cát Tạng không phải là người chỉ giải thích về nghĩa lý của pháp môn Tịnh Độ mà thôi.

Tiết 2: Phân loại Tịnh Độ

Nay thử nói về ngài Cát Tạng đối với việc phân loại Tịnh Độ: Trước tiên, Đại thừa huyền luận quyển 5 nói rõ quốc độ có 5 loại độ: tịnh độ, bất tịnh độ, bất tịnh tịnh độ, tịnh bất tịnh độ và tạp độ.

Tịnh độ là cõi thuần tịnh của chúng sinh được bồ-tát giáo hóa, tu thiện duyên mà cảm ứng.

Bất tịnh độ là cõi bất tịnh của những chúng sinh tạo duyên ác mà chiêu cảm.

Tịnh bất tịnh độ nghĩa là ban đầu thì là cõi tịnh, sau khi duyên của chúng sinh cảm ứng được cõi tịnh này hết, thì có chúng sinh tạo duyên ác sinh đến, nên cõi này biến thành cõi bất tịnh, tức là sau khi Di-lặc nhập niết-bàn, thế giới Ta-bà này lại trở thành bất tịnh độ.

Bất tịnh tịnh độ nghĩa là ban đầu thì cõi này bất tịnh, duyên của chúng sinh cảm ứng cõi bất tịnh này hết , lại có chúng sinh tịnh thiện sinh đến, cõi này lại chuyển thành tịnh độ. Như khi Di-lặc xuất thế, thế giới Ta-bà này biến thành tịnh độ; lại như ban đầu Phật Thích-ca xuất hiệnuế độ, sau đó Linh Sơn biến thành tịnh.

Tạp độ là cõi tịnh uế xen tạp nhau do chúng sinh tạo nghiệp thiện, ác lẫn lộncảm ứng.

Năm độ này đều do tự nghiệp của chúng sinh cảm ứng, cho nên gọi là Báo độ của chúng sinh. Như một quốc gia phải có một vị vua; cũng vậy Đức Phật thường vào trong các Báo độ này để giáo hóa chúng sinh, cho nên những Báo độ ấy cũng gọi là Ứng độ. Vì vậy, Báo độ của chúng sinh chia thành 5 loại riêng biệt, Ứng độ của Đức Phật ứng hiện cũng có 5 loại, hợp thành 10 độ. Trong Quán kinh sớ của ngài cũng nói báo, ứng, tịnh, uế mỗi cõi đều có 5 câu riêng biệt: 1. Trước uế sau tịnh, 2. Trước tịnh sau uế, 3. Trước sau đều tịnh, 4. Trước sau đều uế, 5. Trước sau tạp hội. Trước uế sau tịnh tức là Bất tịnh tịnh độ ở trước; Trước tịnh sau uế tức là Tịnh bất tịnh độ ở trước; Trước sau đều tịnh tức là Tịnh độ thứ nhất; Trước sau đều uế tức là Bất tịnh độ; Trước sau tạp hội tức là tương đương với Tạp độ ở trước. Hai sách này đồng một thuyết. Trong Hoa nghiêm kinh du ý có ghi: Phân biệt 5 độ này vốn là do ngài Tăng Duệ lập ra. Nếu như vậy thì nhất định là ngài dựa theo thuyết của ngài Tăng Duệ.

Lại nữa, ngài đối với tịnh độ trong 5 độ, lại chia làm 4 loại: 1. Phàm thánh đồng cư độ, 2. Đại tiểu đồng trụ độ, 3. Độc bồ-tát sở trụ độ, 4. Chư Phật độc cư độ. Đại thừa huyền luận quyển 5 giải thích:

1. Phàm thánh đồng cư độ, như khi Di-lặc xuất thế thì phàm thánh cùng cư trú trong tịnh độ giới nội, lại như phàm phu cùng với thánh hiền tam thừa đồng vãng sinh về chín phẩm ở thế giới Tây phương Cực Lạc.

2. Đại tiểu đồng trụ độ là cõi mà A-la-hán, Bích-chi-phật và đại lực bồ-tát xả thân phần đoạn ở trong ba cõi mà sinh về tịnh độ giới ngoại, tức hàng nhị thừa Tiểu thừa và bồ-tát Đại thừa đồng cư trú, cho nên gọi là Đại tiểu đồng trụ độ.

3. Độc bồ-tát sở trụ độ là cõi chỉ có chúng bồ-tát cư trú, không có danh tự nhị thừa, như thế giới Hương Tích, thế giới Thất Bảo.

4. Chư Phật độc cư độ là cõi chỉ có Phật cư trú, kinh Nhân vương nói: “Tam hiền thập thánh trụ quả báo, chỉ có Phật một mình cư trú ở tịnh độ”.

Lại nữa, Pháp hoa nghĩa sớ quyển 10 có ghi: “Ba thân của Phật đều có độ của mỗi thân, phân biệt thành Pháp thân độ, Báo thân độ và Hóa thân độ”.

Pháp thân độ tức Thật tướng độ như kinh Phổ Hiền quán ghi: “Thích-ca Mâu-ni còn gọi là Tì-lô-giá-na biến khắp mọi nơi, chỗ Phật ấy trụ gọi là Thường tịch quang”. Kinh Nhân vương bát-nhã ghi: “Chỉ có riêng một mình Phật cư trú ở tịnh độ”. Kinh Bồ-tát anh lạc ghi: “Cũng lấy trung đạo đệ nhất nghĩa gọi là Pháp thân độ”, đều chỉ cho độ này.

Báo thân độ, báo thân tức là ứng thân, có 2 loại: nội ứng thân và ngoại ứng thân. Nội ứng thân tương ưng với pháp thân, cũng thuộc pháp thân và với pháp thân đồng độ. Pháp hoa luận ghi: “Tịnh độ của Ta không bị hủy hoại mà chúng sinh thấy cháy rụi, chân thật tịnh độ của báo Phật Như Lai thuộc Đệ nhất nghĩa”, tức là chỉ cho độ này. Ngoại ứng thânbáo thântịnh độ thành Phật giáo hóa đại bồ-tát, lấy bảy thứ báu làm Tịnh Độ, tuy không bị kiếp hỏa thiêu cháy nhưng cuối cùng cũng có diệt tận, không thể xem đồng với Đệ nhất nghĩa đế. Hóa thân độ như cõi hóa thân của Thích-ca v.v… cư trú, có sự khác biệt bảy báu với đất cát, thông cả tịnh và uế nhưng đều có thể hoại diệt, cho nên gọi là Hóa độ.

Đối với ba độ này, nếu phân ra thường và vô thường thì Pháp thân độ chỉ có thường, chẳng có vô thường; Hóa thân độ chỉ có vô thường chứ không có thường; Ứng thân độ cũng thường cũng vô thường, nội ứng thân độ là thường, ngoại ứng thânvô thường. Nếu phân hai độ tịnh và uế: hai cõi Pháp thânBáo thân là độ của tịnh hóa thân bất định hoặc tịnh hoặc uế. Lại nữa, ngài Cát Tạng lại căn cứ vào hai môn Bản và Tích để phân loại tịnh độ: Pháp thân độ là Bản độ, hai độ Báo và Hóa là Tích độ. Pháp hoa huyền luận quyển 9 của ngài ghi: “Nếu hợp ba thân làm hai thân Bản và Tích thì Pháp thân thuộc Bản độ, hai thân kia thuộc Tích độ”. Trong Tịnh Danh huyền luận quyển 9 ghi: “Độ tuy vô lượng nhưng không ra ngoài ba loại: Pháp thân thuộc Bản độ và hai độ Báo, Ứng thuộc Tích độ”, tức là chỉ cho thuyết này.

Ngài Cát Tạng chia tịnh độ thành bốn loại, lại luận về tịnh độ của Phật có ba độ và hai độ khác. Đại thể là noi theo thuyết của ngài Huệ Viễn và ngài Trí Khải, bốn loại tịnh độ được nói trong đó, hầu như giống hoàn toàn với thuyết của ngài Trí Khải. Phàm thánh đồng cư độ thì cả hai thuyết đều đồng tên; Đại tiểu đồng trụ độ, ngài Trí Giả gọi là Phương tiện hữu dư độ; Độc bồ-tát sở trụ độ, ngài Trí Giả gọi là Thật báo trang nghiêm độ; Chư Phật độc cư độ, ngài Trí Giả gọi là Thường tịch quang độ. Trong đó đem Phương tiện hữu dư độ đổi tên thành Đại tiểu đồng trụ độ, đại lực bồ-tát cũng trụ trong đó, đây là điểm khác của ngài. Đây chính là căn cứ kinh Thắng Man, được gọi là thuyết Biến dịch sinh tử, đem độ này làm chỗ cư trú của người biến dịch bất khả tư nghị.

 

Ngài Cát Tạng kém ngài Trí Giả hơn hai mươi tuổi, tương truyền ngài từng nghe ngài Trí Giả giảng pháp, sự phân loại tịnh độ này có lẽ dựa vào thuyết của ngài Trí Giả chăng! Lại nữa, tịnh độ của Phật có ba loại Pháp, Báo và Hóa cũng vốn là thuyết của các ngài Huệ Viễn v.v… đã đề xướng. Thuyết hai độ Bản và Tích thông với nghĩa hai độ Chân và Ứng của ngài Huệ Viễn. Thuyết Nội ứng thân và Ngoại ứng thân cũng có thể thấy đồng một nghĩa với Pháp ứng độ và Báo ứng độ trong Viên ứng độ của ngài Huệ Viễn, cho nên có thể gọi luận điểm về Tịnh độ luận của ngài Cát Tạng, phần nhiều kế thừa thuyết của người xưa.

Tiết 3: Phán định về Tịnh độ Di-đà

Liên quan đến Tịnh độ Di-đà, ngài Cát Tạng cho rằng Phàm thánh đồng cư độ là một trong bốn độ thì đồng với thuyết của ngài Trí Khải. Vì phàm phu đủ thứ trói buộc mà cũng được vãng sinh cõi ấy, cõi ấy phàm thánh ở chung, dựa theo người cư trú mà gọi là đồng cư độ. Nhưng nếu căn cứ theo bốn mươi tám lời nguyện của Đức Phật A-di-đà phát nguyện khi còn tu nhân, trang nghiêm cõi nước mình thì cõi ấy là Báo độ, lại có thể gọi là Ứng độ. Liên quan đến vấn đề này, Quán kinh nghĩa sớ nêu ra dị thuyết của Bắc địa và Nam địa. Như trong sớ này đã ghi: “Sư ở Giang Nam nói: Báo độ này là do bồ-tát Pháp Tạngđịa vị phàm phu tu tích không quán đã phát bốn mươi tám nguyện mà thành”. Người Bắc địa nói: “Ở giai vị pháp thân Bát địa trở lên phát nguyện mà thành cho nên gọi là Báo độ”.

Ngài Cát Tạng lập ra hai môn Thông và Biệt để luận, theo Thông môn thì tất cả quốc độ chỉ là thù nhân, nên có thể gọi là Báo độ. Nhưng theo Biệt môn thì không như vậy, vì bồ-tát Pháp Tạng có hai môn Bản và Tích. Theo Tích môn mà luận thì ở địa vị phàm phu lấy nguyện để tạo độ, có thể gọi là Báo độ, nên kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật ấy thành Phật đến nay đã trải qua mười kiếp, nay đang ở thế giới Vô Lượng Thọ”. Nếu luận theo Bản môn thì bồ-tát này ở địa vị Đẳng Giác, không còn tạo nghiệp cho nên chẳng phải là Báo độ mà chỉ là cõi ứng hiện. Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Nay Ngài thành Phật, cõi nước bảy báu tự nhiên hiện ra”. Đây là căn cứ vào giai của bồ-tát Pháp Tạng phát nguyện nên phân biệt hai độ Báo và Ứng. Nếu căn cứ vào ý nghĩa của Tích môn trong kinh Pháp hoa thì khi bồ-tát kia ở địa vị phàm phu đã phát nguyện, thực hành ba-la-mật nên cõi nước được tạo ra là nhờ cảm báo của nhân hạnh mà thành, vì vậy gọi cõi ấy là Báo độ của Phật. Nếu theo ý nghĩa của Bản môn thì bồ-tát từ Bát địa trở lên, ở địa vị Đẳng Giác đã phát nguyện, bồ-tát này sau đó không còn tạo nghiệp để cảm quả nên cõi ấy gọi là Ứng độ. Đây chính là chiết trung hai thuyết của Bắc Địa và Nam Địa, chủ trương Phật và chúng sinh đều có tịnh độ, chúng sinh tu nhân thì sinh về cõi nước ấy, đây là Báo độ của chúng sinh, đồng thời chính là Ứng độ của Phật. Nói cách khác, chúng sinh tu nhân thì được cảm quả sinh vào Ứng độ của Phật.

Lại nữa, tịnh độ Di-đà ở trong phần đoạn sinh tửbiến dịch sinh tử thì nó thuộc vào loại nào? Quán kinh nghĩa sớ cũng nêu ra hai thuyết của Bắc Địa và Nam Địa. Thuyết của Nam Địa nói: “Do nhân sở hành ở trong hạng phàm phu cạn cợt mà được, nên quả báo không được tốt đẹp, vì thế thuộc về phần đoạn”. Thuyết của Bắc Địa nói: “Đây là sở hành và sở tạo của bồ-tát ở giai vị cao thâm từ Bát địa trở lên đã tạo, cho nên gọi là quả báo biến dịch bất khả nghị”. Ngài Cát Tạng lấy thuyết hạng phàm phu phát nguyện của Nam Địa, vì thọ mạng ở cõi kia tuy vô lượng nhưng lại có kỳ hạn chung tận, cho nên thuộc về phần đoạn.

Lại nữa, cõi Vô Lượng Thọ có thuộc về ba cõi hay không, cũng có hai thuyết:

1. Bắc Địa y theo luận Đại trí độ nên nói: Vì vô dục nên chẳng phải cõi Dục, vì địa cư nên chẳng phải cõi Sắc, vì có sắc nên chẳng phải cõi Vô Sắc, nên chủ trương cõi ấy chẳng thuộc ba cõi.

2. Nam Địa nói: Vì chưa dứt phiền não trong ba cõi mà được vãng sinh nên thuộc ba cõi. Trí luận nói: Vô dục chẳng phải thể khôngphiền não, nhưng chỉ vì không có sự hiện hành của phiền não nên nói là Vô dục.

Ngài Cát Tạng đối với việc này chia ra làm hai loại là ba cõi phương tiệnba cõi thật sinh. Theo cái thấy của hạng phàm phu nghiệp uế thì tịnh độ Di-đà thuộc ba cõi phương tiện. Như kinh Vô Lượng Thọ có ghi: “Cõi trời Ba Mươi Ba nương vào đâu mà trụ? Đức Phật nói: Nương nghiệp báo mà trụ”. Lại nữa, kinh Hoa nghiêm ghi cõi ấy là tịnh độ thuộc phẩm thấp nhất trong trăm vạn a-tăng-kỳ phẩm. Trong đây, tuy không chỉ rõ là luận sư của Nam Địa hay Bắc Địa nhưng có thể biết ngài Cát Tạng chủ yếu theo thuyết của luận sư Nam Địa.

Tiết 4: Sinh nhân tịnh độ và giai vị của người vãng sinh chín phẩm

Ngài Cát Tạng đối với nghiệp nhân vãng sinh tịnh độ chia ra làm hai môn Thông và Biệt. Thuyết Thông môn thì tổng hợp ba phúc, mười sáu pháp quán làm sinh nhân tịnh độ. Thuyết Biệt môn thì lấy tâm bồ-đề làm nghiệp chủ của nó, còn các điều thiện khác như ba phúc, mười sáu pháp quán v.v…dùng làm nghiệp duyên. Trong đó, tâm bồ-đề làm nghiệp chủ vì tâm bồ-đề chính là chính nhân để đạt đến quả vị Phật. Chúng sinh nghe nói con đường thành Phật dài xa, phần nhiều sinh tâm thoái lui nên tạm chỉ ra quả gần ở tịnh độ để làm duyên tiến đến quả Phật, cho nên vãng sinh tịnh độ là lấy tâm bồ-đề làm chủ. Điều này do ngài Cát Tạng kế thừa ý của hai ngài Đàm LoanHuệ Viễn rồi nhấn mạnh thêm. Nghiệp duyên chính là chỉ ba phúc, mười sáu pháp quán.

Liên quan đến ba phúc, ngài Cát Tạng cho rằng ‘thế phúc’ là điều thiện của hạng phàm phuthế gian; ‘giới phúc’ là điều thiện của Tiểu thừa; ‘hạnh phúc’ là điều thiện của Đại thừa. Nhưng ba phúc này, hoặc ba người tu ba phúc riêng biệt, hoặc một người tu cả ba phúc. Một người tu thì ban đầu tu điều thiện ở thế gian, kế nhập vào Phật pháp thụ tam quy, ngũ giới, rồi từ Tiểu chuyển sang Đại, tu trì ‘hạnh phúc’. Người tu ba phúc này được sinh Tây phương, vì ba loại phúc này đều làm cho tâm họ thanh tịnh. ‘Tâm tịnh nên cõi Phật tịnh’ trong kinh Duy-ma là nói lý này.

Nói về mười sáu pháp quán: mười ba pháp quán đầu đều là quán về quả, gọi chung là quán Vô Lượng Thọ. Ba pháp quán sau quán về nhân gọi là quán Cửu bối. Pháp quán có 2 loại: sinh diệtbất sinh diệt. Quán sinh diệt thì quán pháp sinh diệt của các hiện tượng; quán bất sinh diệt thì quán chung lý của thật tướng bất sinh diệt. Hai pháp quán này hoặc hai người tu hai quán riêng biệt, hoặc một người tu cả hai quán. Hai người tu hai quán riêng biệt là người Tiểu thừa tu quán sinh diệt, người Đại thừa tu quán bất sinh diệt. Một người tu cả hai quán thì trong Đại thừa đầy đủ hai quán này, tức là quán ứng thân Đức Phật sinh ở Vương cung, diệt độ tại Song Lâm là quán sinh diệt; quán pháp bất sinh ở Vương cung, không diệt độ tại Song Lâm là quán bất sinh diệt. Quán được nói trong Quán kinh tức là hai quán sinh diệtkhông sinh diệt của Đại thừa. Tuy đủ cả hai quán nhưng chỉ nói quán sinh diệt, vì chủ yếu là quán quả sinh diệt của năm thứ: kiếp số dài ngắn, vị hóa chủ, quốc độ, giáo mônđồ chúng ở nước đó.

Trong mười sáu pháp quán, mười ba pháp quán trước gọi chung là quán Vô Lượng Thọ nhưng không gọi quán Phật Vô Lượng Thọ, trong các quán ấy không chỉ niệm Phật, mà còn quán rộng về quả của năm thứ thanh tịnh như thời tiết v.v… Lại nữa, quán Vô Lượng Thọ này có thể gọi là Niệm Phật tam-muội, nhưng niệm Phật cũng có phân biệt niệm pháp thân Phật, niệm sinh thân Phật. Niệm thật tướng của các pháp gọi là niệm pháp thân Phật, niệm ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp của Như Lai thì gọi là niệm sinh thân Phật. Nay quán Vô Lượng Thọ trong kinh này chính là quán các tướng hảo quang minh của Như Lai, tức là niệm sinh thân Phật, chẳng phải niệm pháp thân Phật. Niệm Phật tam-muội có công năng trị hết tất cả ba độc. Vì thế, luận Đại trí độ có ghi: Các tam-muội khác hoặc trị sân mà chẳng trị nghiệp, hoặc trị nghiệp mà chẳng trị báo; nhưng Niệm Phật tam-muội trị hết tất cả, trị hết ba độc, ba chướng; nghĩa là tam-muội này có công năng đối trị tất cả hoặc chướng, nghiệp chướngbáo chướng. Tu tam-muội này thì có thể diệt được tội chướng, vãng sinh tịnh độ, tuyên dương công năng Niệm Phật tam-muội.

Quán Cửu bối là ba pháp quán sau, quán nhân vãng sinh của người sinh ở tam bối cửu phẩm. Quán thượng bối là quán người Đại thừa tu thiện Đại thừa, đắc quả Đại thừa. Quán trung bối là quán người Tiểu thừa tu thiện Tiểu thừa, đắc quả Tiểu thừa. Quán hạ bối là quán chúng sinh làm ác không làm thiện, khi sắp mạng chung nhờ nghe pháp vi diệu của Đại thừađắc quả Đại thừa. Pháp quán này đồng một ý nghĩa với pháp quán tha sinh của ngài Huệ Viễn, tức là y theo kinh mà được cửu bối này nên đều gọi là quán.

Lại nữa, ngài Cát Tạng phán định giai vị của người vãng sinh chín phẩm: Người thượng phẩm thượng sinh về cõi Cực Lạc thì đắc Vô sinh pháp nhẫn, Vô sinh pháp nhẫn tuy thông với Sơ địa, nhưng nhờ người hạ phẩm thượng sinh đắc pháp Vô sinhSơ địa, biết pháp Vô sinh của thượng phẩm thượng sinh, ắt chỉ cho sở đắc ở giai vị Thất địa. Nhưng lại có người vượt giai vị như Thích-Ca thành Phật trước Di-lặc thì giai vị ấy thật không thể biết được. Người trung phẩm thượng sinh về cõi ấy trải qua một tiểu kiếp đắc Vô sinh pháp nhẫn, Vô sinh pháp nhẫn này cũng chỉ cho sở đắc ở giai vị Thất địa, cho nên biết người này đã là bồ-tát Địa thượng. Người hạ phẩm thượng sinh sinh về cõi ấy, đắc Vô sinh pháp nhẫnSơ địa, có thể biết người này là Tam hiền trước thập địa. Lại nữa, ba phẩm của hạ bối dựa theo sự nặng nhẹ của việc làm ác mà phân phẩm vị, tức thượng phẩm hạ sinh làm mười điều ác, trung phẩm hạ sinh phạm bốn tội trọng, hạ phẩm hạ sinh là người tạo năm tội nghịch. Nếu người phỉ báng pháp, xiển đề không sinh tịnh độ, do nghe pháp tịnh độkhông sinh lòng tin, cho nên không được vãng sinh. Lại nữa, người Tiểu thừa nghe nói có mười phương chư Phật mà họ không tin, cũng không được vãng sinh, cho nên những hạng người này đều không thuộc trong chín phẩm. Nhưng trong Quán kinh sớ chỉ luận về căn cơ của hạng thượng bối và hạ bối này, chưa nêu ba phẩm ở trung bối, e rằng y theo văn kinh, thượng phẩm trung sinh là bậc thánh nhân ở ba quả trước, còn hai phẩm trung trung, trung hạ là nội phàm, ngoại phàm ở bậc kiến đạo trở lên, các phẩm này chỉ theo quả sở đắc sau khi vãng sinh, phán định giai vị chín phẩm về cơ bản thì giống với thuyết của ngài Huệ Viễn.

[1] Bác sĩ đệ tử博士弟子: là chức quan văn đời Tiền Hán

[2] Y-bồ-tắc伊蒲塞 (S: upāsaka): tức ưu-bà-tắc dịch là cư sĩ nam, ở đây chỉ cho Sở Vương Anh

[3] Tang-môn 桑門:tức là sa-môn (S: śramaṇa):chỉ cho người xuất gia đã thụ giới Cụ túc trong đạo Phật.

[4] Lục Kinh: sáu kinh của Nho gia: kinh Thi, kinh Thư. Kinh Lễ, kinh Nhạc. kinh Dịch, kinh Xuân Thu

[5]. Đại Tiên chỉ cho Đức Phật

[6] Ngũ trí: 1. Phật trí, 2. Bất tư nghì trí, 3. Bất khả xưng trí,.4. Đại thừa quảng trí, 5. Vô lượng vô luân tối thắng trí (kinh Vô Lượng Thọ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25634)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19569)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9495)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14359)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35556)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10645)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23192)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13353)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10740)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20198)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10594)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9954)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14862)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17648)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17590)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13183)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31150)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25735)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13973)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17497)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10967)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12279)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10462)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12264)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11752)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9610)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12349)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9194)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8490)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9949)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12026)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14411)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9897)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8292)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10964)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14080)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9904)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15199)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13033)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23070)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23970)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12561)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15420)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17771)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15045)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16542)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16085)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17631)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11582)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11614)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17818)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10771)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10515)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11317)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12075)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11034)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36398)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8953)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9671)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34702)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10231)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10466)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12195)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13628)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14645)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9143)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24797)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11628)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10307)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15932)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15563)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14511)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12994)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12439)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14566)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18347)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9564)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18507)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18572)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19005)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18825)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11826)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13331)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47976)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11061)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13544)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13030)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11056)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12544)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11045)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31762)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11657)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant