TỊNH ĐỘ THỰC HÀNH VẤN ĐÁP
Thích Minh Tuệ
PHẦN I: VẤN ĐÁP
B- KIẾN GIẢI
1-Hỏi: Niệm Phật Vô tướng là sao?
Đáp: Niệm Phật Vô tướng là niệm Pháp thân Phật, cũng gọi là Thật tướng niệm Phật. Tức là nhập vào đệ nhất nghĩa tâm, là niệm tánh Phật bản lai của chính mình. Đây là quán pháp thân thật tướng của Phật, kết quả sẽ chứng được Chân như tam-muội. Pháp này dành cho bậc Thượng căn thượng trí, thuộc về Thiền tông, nhưng cảnh giới do tâm Thiền hiển lộ nên cũng nhiếp về Tịnh Độ. Nhưng nói đến phương tiện vãng sanh, Thật tướng niệm Phật vẫn chưa chánh thức thuộc Tịnh Độ, như ý nghĩa ba Kinh mà Đức Thế Tôn chỉ dạy. Do vậy, chư Tổ đề cập cho rộng thêm về nghĩa lý, mà không rộng tuyên hóa để khuyên người tu.
Nếu cần tham cứu thêm, kính xin liên hữu hãy đọc quyển Niệm Phật Vô tướng nguyên tác Hoa văn của Tiêu Bình Thật cư sĩ, cư sĩ Hạnh Cơ dịch ra Việt văn.
2-Hỏi: Niệm Phật Vô tướng là niệm Pháp thân Phật, còn quán tưởng niệm Phật thì sao?
Đáp: Quán tưởng niệm Phật là niệm Báo thân Phật tức là quán tưởng y báo, chánh báo cõi Cực Lạc. Cụ thể là tu mười sáu (16) phép quán tưởng mà Đức Thế Tôn dạy trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Kết quả đắc quán Phật tam-muội.
Thứ nhất quán: mặt trời, kế đến quán nước, đất… Thứ chín quán: chân thân Vô Lượng Thọ Phật. Phép quán cuối cùng, phép thứ mười sáu (16) là xưng danh hiệu Phật.
Điều đặc biệt ở đây là, Kinh này dạy quán tưởng, thế mà ở đoạn kết thúc, Phật không phó chúc quán tưởng mà lại phó chúc thọ trì danh hiệu Phật.
Liên tông Nhị Tổ Thiện Đạo đại sư dạy: “Tâm chúng sanh thô, cảnh quá vi tế, nên quán tưởng khó thành tựu”. Do vậy, Ngài tuyên hóa rộng rãi pháp trì danh niệm Phật.
3-Hỏi: Còn trì danh niệm Phật thì sao?
Đáp: Trì danh niệm Phật là niệm Hóa thân Phật. Pháp này được Đức Thế Tôn dạy trong Kinh A-di-đà và Kinh Vô Lượng Thọ, được tất cả chư Tổ Tịnh Độ hoằng dương rộng rãi. Đây là pháp dễ tu, dễ chứng, hợp thời cơ nhất. Kết quả đắc niệm Phật tam-muội, liền được thấy Phật A-di-đà và Thánh chúng ở Cực Lạc. Hiện đời là Đại Bồ-tát, khi vãng sanh quyết định ở vào Thượng phẩm. Gọi là ở vào Sơ địa Bồ-tát. Sơ địa Bồ-tát có thể hiện một trăm thân Phật ở một trăm thế giới không có Phật để độ sanh.
Niệm Phật tam-muội ngang với Minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ của Thiền.
Thời mạt pháp dù không đắc được niệm Phật tam-muội, thì cũng có thể đạt Bất niệm tự niệm bảo đảm vãng sanh.
Trong Quán Niệm Môn, Liên tông Nhị Tổ Thiện Đạo đại sư nói: “Hành giảmỗi ngày niệm Phật ba vạn câu trở lên là hành nghiệp Thượng phẩm thượng sanh”. Người niệm Phật đạt Bất niệm tự niệm sâu, mỗi ngày tự niệm từ sáu vạn đến mười hai vạn câu Phật hiệu, vậy là đã vượt quá mức ấn định trên rồi.
Dù không đạt được Bất niệm tự niệm, qua quá trình tu tập, nếu hành giả huân tập nhiều chủng tử Phật ở tạng thức, trước giờ phút lâm chung được Ban hộ niệm trợ lực, hành giả chỉ cần niệm một câu A-di-đà Phật liền được Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
Vãng sanh Cực Lạc liền ở ngay ngôi vị bất thoái, một đời thành Phật, nên nói:
Vãng sanh tức thành Phật.
4-Hỏi: Tại sao người niệm Phật cầu vãng sanh mà không được vãng sanh?
Đáp: Hành giả Tịnh nghiệp không được vãng sanh vì không hội đủ điều kiện vãng sanh. Vấn đề này đã được nói rõ ở câu đáp 50A. Sở dĩ hành giả không đáp ứng đủ điều kiện này là vì những lý do sau:
- Hôn mê, bất tỉnh (stroke, coma) trước khi chết, lúc ấy ý thức không còn hoạt động nữa, làm sao nghe được sự hướng dẫn niệm Phật hay khởi ý muốn vãng sanh?. Do vậy, mất phần vãng sanh.
- Cuồng loạn mất trí (điên), nên không thể chú tâm tưởng niệm.
- Trúng phong cứng họng, nên không thể xưng danh hiệu Phật.
- Bị thú dữ, cọp, sói, giặc cướp làm kinh hoàng, hốt hoảng.
- Bất đắc kỳ tử (hoạnh tử), chết đột ngột như chiến sĩ ở chiến trường, các tai nạn như xe đụng, máy bay rớt, tàu chìm, bom đạn, lửa cháy, nước trôi, v.v… tinh thần hốt hoảng, tán loạn. Lúc ấy ý thức không kịp niệm Phật hay sáng suốt muốn vãng sanh được nữa.
- Bệnh khổ bức bách thân thể như ung thư gan, v.v… hoặc vì tứ đại phân ly. Sự đau nhức cùng cực như con cua bị bỏ vào nước sôi, hay con rùa bị lột mai vậy.
- Tham sống sợ chết, luyến ái gia đình, vợ chồng con cháu, thân bằng quyến thuộc, tài sản…
- Không gặp bạn lành khai thị và trợ niệm, mà gặp bạn ác phá hoại lòng tin.
Chư Tổ dạy: “Tâm vô nhị dụng” nghĩa là tâm không thể làm hai việc cùng một lúc. Ba trường hợp cuối cùng nói trên, tâm thần hành giả rối loạn, điên đảo, luyến ái đủ thứ. Vì tâm quá bận rộn, nên ý thức không thể nhớ mà niệm Phật hay khởi ý muốn vãng sanh được, nên mất phần vãng sanh.
-Niệm Phật còn bị xen tạp, bị gián đoạn nên chẳng tương ưng.
-Hành giả còn ba điều nghi sau đây, nên tự tạo chướng ngại, làm mất chánh niệm không được vãng sanh:
a/ Nghi từ lúc sanh ra đến giờ tạo nghiệp rất nặng, còn việc tu hành lại rất ít, e rằng không được vãng sanh.
b/ Nghi mình còn thiếu nợ người, hoặc có tâm nguyện chưa làm xong, tham, sân, si chưa dứt, e rằng không được vãng sanh.
c/ Nghi tuy niệm A Di Đà Phật, nhưng lúc lâm chung, sợ Phật không đến tiếp dẫn.
5- Hỏi: Biên địa là gì? Vì sao sanh Biên địa?
Đáp:
1- Biên địa còn gọi là Nghi thành, nơi dành cho người còn nghi ngờ cư ngụ.
2- Hành giả phải có niềm tin tuyệt đối. Nếu còn chút xíu lòng nghi thì:
a. Khó được vãng sanh.
b. Dù có được vãng sanh cũng lạc vào Biên địa. Nơi đây tuy chúng sanh vẫn sung sướng như ở cõi trời Đao Lợi, nhưng không được gặp Phật, thấy Phật, Bồ-tát, không được nghe pháp và không được đi khắp mười phương cúng dường chư Phật.
Chúng sanh ở nơi này, sau năm trăm năm hết nghi, mới được sanh vào ba bậc chín phẩm.
6- Hỏi: Đức Phật tiếp dẫn vãng sanh bằng cách nào?
Đáp: Quán Kinh nói: “Vô Lượng Thọ Như Lai có tám muôn bốn ngàn tướng. Mỗi tướng có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình. Mỗi vẻ đẹp tùy hình lại có tám muôn bốn ngàn tia sáng. Những tia sáng ấy soi khắp các cõi ở mười phương, thâu nhiếp tất cả chúng sanh niệm Phật”.
Khi chúng ta niệm Phật (miệng niệm hay ý niệm) từ nơi ta phát ra tâm thanh (âm thanh phát xuất từ tâm). Mà pháp thân Phật A-di-đà ở khắp các chốn, Phật quang (như đã nói ở trên) chiếu thấu mọi nơi. Lúc đó, tâm thanh hòa nhập với Phật quang, Phật quang lại nhập vào tâm thanh, Phật quang và tâm thanh dung thông nhau. Đó chính là cách thức Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. (Xin xem DVD tiếp dẫn vãng sanh bằng cách nào?).
7- Hỏi: Người chết thiêu có xá-lợi, nói chắc là người ấy đã được vãng sanh, có đúng không?
Đáp: Xá lợi là tiếng Phạn, Hán dịch là “linh cốt” (xương thiêng) hay “thân cốt” (xương nơi thân) do sức giới, định, huệ của người tu tạo thành, hay do đạo lực cảm thành. Xá lợi là xá lợi, vãng sanh là vãng sanh, hai thứ khác nhau, không thể nói là một.
Người có xá lợi nếu giờ phút lâm chung có niệm Phật thì bảo đảm được vãng sanh, bằng như không có niệm Phật, thì không được tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. Vì không đúng bổn nguyện của Đức Phật A-di-đà.
8-Hỏi: Hành giả đạt Bất niệm tự niệm sâu, trước giờ lâm chung bị hôn mê (stroke), bị kinh hoàng trước mọi tai nạn, thân nhân quấy phá, xúc chạm cơ thể, oan gia trái chủ lôi kéo … như vậy có chắc chắn được vãng sanh không?
Đáp: Chắc chắn bảo đảm vãng sanh bởi các lý lẽ sau:
-Bị hôn mê (stroke) ý thức không hoạt động, chứ tạng thức vẫn hoạt động. Tạng thức niệm Phật liền được tiếp dẫn.
- Dù bị thân nhân quấy phá, bị xúc chạm cơ thể sanh đau nhức, bị kinh hoàng hốt hoảng trước mọi tai nạn, hành giả đạt Bất niệm tự niệm sâu, họ có định lực nên không bị ngoại cảnh chi phối. Dù cho bị chi phối cũng chỉ gây cho ý thức bận rộn với những việc này, đâu có can dự đến tạng thức. Tạng thức niệm Phật liền được tiếp dẫn.
-Oan gia trái chủ lôi kéo, tình trạng này không thể xảy ra vì:
a. Hằng ngày hành giả đã hồi hướng công đức tu hành của mình cho oan gia trái chủ được vãng sanh Cực Lạc là đã tháo gỡ hết oan kết rồi.
b. Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ nói: “Trước giờ phút lâm chung, Phật và thánh chúng đến, vây quanh hành giả, đức Phật phóng hào quang gia hựu giúp cho hành giả giữ chánh niệm, niệm Phật, để Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc”.
Đức Phật hiện diện ở đó, oan gia trái chủ không sao dám đến gần, nói chi đến việc lôi kéo hành giả.
9- Hỏi: Phản văn, văn tự tánh là sao?
Đáp: Là quay cái nghe lại, nghe tự tánh mình niệm. Người đạt Bất niệm tự niệm, nghe tự tánh mình niệm Phật bằng tánh nghe mới đúng nghĩa phản văn, văn tự tánh.
10- Hỏi: Người tu Tịnh Độ trước khi chết có những điềm lành gì không?
Đáp: Khảo cứu di tích vãng sanh của các bậc thánh hiền xưa nay, ta biết có mười một (11) thoại tướng sau:
1/ Nhất tâm bất loạn: Tâm niệm được chăm chú vào một cảnh.
2/ Biết trước thời chết đã đến.
3/ Tịnh niệm không mất, tức là tâm niệm chỉ ưa cõi Tịnh Độ và quyết chí bỏ cõi Ta-bà.
4/ Biết trước mà lo tắm rửa và thay quần áo.
5/ Tự mình niệm Phật, hoặc niệm có tiếng hay niệm thầm.
6/ Ngồi ngay thẳng, hoặc đứng và chắp tay mà ra đi.
7/ Có mùi thơm lạ khắp nhà.
8/ Có hào quang sáng soi vào thân thể.
9/ Nhạc trời trỗi giữa hư không.
10/ Tự nói ra bài kệ để khuyên đồ chúng (đệ tử).
11/ Mỉm cười, hoặc gật đầu, hoặc chớp mắt rồi tắt thở.
Nếu có đủ mười một điều tốt trên đây chắc chắn vãng sanh ở phẩm vị cao.
Chỉ có một vài điều tốt thôi cũng được vãng sanh.
11- Hỏi: Trung ấm thân là gì?
Đáp: Thân người đã chết, giữa khoảng đã chết và chưa sinh, trong vòng bốn mươi chín ngày, có cái thân gọi là thân trung ấm (cũng gọi là trung hữu). Ngoại trừ những người có cực trọng nghiệp dù thiện hay ác, đều tức khắc tái sanh kiếp sau ngay sau khi chết (không có trung ấm thân). Không tuyệt đối như vậy, có những trường hợp cá biệt, trung ấm thân vẫn còn sau bốn mươi chín ngày.
12- Hỏi: Con quy y với vị Thầy, Thầy con tu chứng được vãng sanh Cực Lạc, vậy con có được vãng sanh theo Thầy con không? Và bạn con lầm lỡ quy y với tà sư. Khi tà sư bị đọa, vậy bạn con có bị đọa theo vị tà sư đó hay không?
Đáp: Cả hai đều KHÔNG. Người xưa nói: “Ông tu, ông chứng, bà tu, bà đắc” và “Tội ai làm nấy chịu”. Luật nhân quả đấy “Tự tác hoàn tự thọ”, nghĩa là tự mình làm, tự mình chịu, không ai thay thế cho ai được cả.
13- Hỏi: Tu Tịnh Độ thuộc Tiểu thừa hay Đại thừa?
Đáp: Giáo pháp Tiểu thừa không có Tịnh Độ. Vậy Tịnh Độ thuộc Đại thừa. Nhưng nếu người niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc mà không phát tâm cứu độ chúng sanh, như vậy là không có bồ-đề tâm, thuộc căn tánh Tiểu thừa. Không đúng đại nguyện của Phật A-di-đà nên không được vãng sanh.
14- Hỏi: Vậy sao Kinh nói ở cõi Cực Lạc có Thanh văn, Duyên giác nhiều vô số kể?
Đáp: Những vị này, trước tu theo Tiểu thừa (Nguyên thủy), sau phát tâm hướng Đại thừa (thượng cầu hạ hóa), nghĩa là trên thì cầu thành Phật đạo, dưới là giáo hóa (độ) chúng sanh nên được vãng sanh.
15- Hỏi: Tại sao Phật giáo có nhiều Tông phái vậy?
Đáp: Ví như đường có nhiều loại như: đường vàng, đường trắng, đường kết tinh, đường cục (táng), đường cát, đường phèn…, nhưng tất cả đều là đường, duy có một vị ngọt. Nó được sản xuất thành nhiều hình thức khác nhau, để tùy ý thích mỗi người mà xử dụng khác nhau. Phật giáo cũng thế, Phật giáo Nguyên thủy, Tịnh Độ tông, Thiền tông, Mật tông… nhưng tất cả đều là Phật giáo, chỉ có một mục đích duy nhất là giác ngộ giải thoát. Có vậy để đáp ứng căn tánh sai biệt của chúng sanh, có nền văn hóa khác nhau và ở mỗi thời đại khác nhau.
Vãng Sanh Tức Thành Phật
16- Hỏi: Vì sao Thầy tu Tịnh Độ?
Đáp: Đầu tiên là tôi tu Thiền, tinh tấn hành trì một thời gian không thấy kết quả. Tôi bỏ Thiền, chuyển sang tu Tịnh Độ vì lý do sau:
1- Pháp môn Tịnh Độ hợp thời cơ.
a. Tượng Pháp Quyết Nghi Kinh dạy: “Sau khi Phật diệt độ là thời chánh pháp trong năm trăm năm trì giới kiên cố. Thời tượng pháp một ngàn năm kế tiếp thiền định kiên cố. Thời mạt pháp một muôn năm niệm Phật kiên cố”. Kiên cố nghĩa là thành tựu.
b. Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn nay đã hơn hai ngàn năm trăm năm mươi lăm năm (2555). Như vậy, hiện ta đi vào thời mạt pháp hơn một ngàn năm rồi, mà càng đi sâu vào thời mạt pháp thì đức trí chúng sanh càng hạ liệt, nên tu các pháp môn khác rất khó chứng đắc.
c. Kinh Đại Tập dạy: “Đời mạt pháp ức ức người tu hành, hiếm có một người đắc đạo. Chỉ có nương vào niệm Phật mới thoát khỏi sanh tử”.
d. Tổ thứ mười ba Ấn Quang đại sư dạy: “Cửu pháp giới chúng sanh lìa pháp môn này (Tịnh Độ) thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này (Tịnh Độ) thì dưới chẳng thể lợi khắp quần sanh”.
2- Pháp môn Tịnh Độ dễ tu.
Vì mọi người, mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh đều niệm Phật được.
Vì giản dị mà bao trùm các pháp, hiệu quả cao. Chỉ cần niệm sáu hay bốn chữ mà giải thoát sanh tử luân hồi, thành Phật.
Tổ Liên Trì dạy: “Một câu A Di Đà Phật gồm hết tám giáo, nhiếp cả năm tông”.
Tổ Trí Húc dạy: “Niệm A Di Đà Phật được thuần thục, thời tam tạng giáo lý gồm trong đó, một nghìn bảy trăm công án cơ quan hướng thượng cũng ở trong đó, ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ tịnh giới cũng không ra ngoài câu Phật hiệu”.
3- Pháp môn Tịnh Độ dễ chứng, dễ đắc.
a. Tự lực cộng tha lực: Hành giả niệm Phật thuần thục thì trước giờ lâm chung được Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. (Nguyện thứ mười tám trong Kinh Vô Lượng Thọ).
b. Dễ vãng sanh: Chỉ cần khởi ý muốn vãng sanh là được vãng sanh (Kinh Pháp Cổ). Cổ đức dạy: “Nhất cú Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương”. Tạm dịch là: “Một câu Di Đà không niệm gì khác, không nhọc, khẩy tay đến Phương Tây (Thế giới Cực Lạc)”.
c. Dễ đắc: Một khi được vãng sanh thì chỉ cần một đời là thành Phật. Kinh Niệm Phật Ba la Mật dạy: “Vãng sanh đồng ý nghĩa với thành Phật, vì vãng sanh tức là thành Phật”.
Vì vãng sanh Cực Lạc dễ thành Phật, nên trên có những Đại Bồ Tát, chư Tổ, dưới thì chúng sanh đều đồng nguyện vãng sanh, và đã vãng sanh nhiều vô số kể.
4- Vì Niệm Phật thành Phật.
Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: “Tất cả chư Phật trong mười phương ba đời (quá khứ, hiện tại và vị lai) đều học pháp niệm Phật, mau chóng chứng đắc đạo giác ngộ giải thoát”. Thế nên biết, chư Phật trong ba đời đều do niệm Phật được thành Phật.
(Xin đọc sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh- Phần I)
17- Hỏi: Thế nào là cực trọng nghiệp và ảnh hưởng việc tái sanh ra sao?
Đáp: Cực trọng nghiệp là nghiệp hết sức lớn. Có hai loại: thiện và bất thiện (ác). Người niệm Phật đạt Lý nhất tâm bất loạn là thiện cực trọng nghiệp. Trong lúc thân còn ở Ta-bà mà thần thức đã vãng sanh Cực Lạc như trường hợp Thừa Viễn đại sư, Tổ thứ ba Liên tông. Về thân xác muốn xả bỏ hay lưu giữ là tùy ý, gọi là sinh tử tự tại.
Người phạm tội ngũ nghịch là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu hoặc phá hòa hợp Tăng là ác cực trọng nghiệp. Tội này sa địa ngục A-tỳ (địa ngục vô gián). Minh Tuệ tôi đã chứng kiến một vị chưa chết mà nửa đêm bị quỷ sứ hành hạ đủ cách.
18- Hỏi: Thế nào là tích lũy nghiệp, ảnh hưởng ra sao?
Đáp: Tích lũy nghiệp là nghiệp tích lũy nhiều đời, nhiều kiếp cộng với kiếp hiện tại. Tích lũy nhiều thành cực trọng nghiệp, ít thì thành cận tử nghiệp.
19- Hỏi: Cận tử nghiệp là gì?
Đáp: Là nghiệp trước giờ lâm chung.
Ngoại trừ cực trọng nghiệp. Cận tử nghiệp quyết định nơi, cõi sẽ tái sinh.
Cổ đức nói rằng con người trước khi chết, các chủng tử nghiệp đua nhau khởi hiện hành, như cuộn phim chiếu lại cả cuộc đời hoạt động của mình. Chủng tử nào mạnh nhứt (chín mùi) chiêu cảm cảnh giới tương ưng để mình hội nhập (tái sinh) (chủ nợ nào mạnh kéo đi trước).
Hành giả Tịnh Độ hằng ngày niệm Phật là để huân tập chủng tử Phật vào tạng thức, hầu đem lại thành quả từ cao xuống thấp như sau:
1-Nhất tâm bất loạn (Cực trọng nghiệp) thì tự tại vãng sanh (sống, chết theo ý muốn).
2-Nhập tâm, đạt Bất niệm tự niệm (tích lũy nghiệp) thì bảo đảm vãng sanh, bất luận tình huống nào.
3-Chủng tử khá nhiều, khá mạnh, vừa chín (Cận tử nghiệp) đủ khả năng niệm theo khi được hộ niệm, mới được vãng sanh.
20- Hỏi: Người tu hành có bị cận tử nghiệp chi phối không?
Đáp: Cũng có, cũng không. Có hai trường hợp:
1) Những vị tu hành chứng đạo, đắc đạo như Tịnh Độ tông thì niệm Phật đạt Lý nhất tâm bất loạn hay Lý niệm Phật tam muội thì tự tại vãng sanh. Thiền tông thì nghiệp sạch tình không, Mật tông thì tam mật tương ưng (ba nghiệp thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh tịnh) tùy nguyện tái lai. Những vị đắc quả A-la-hán thì nhập niết-bàn.
2) Ngoài những vị nói trên đều bị cận tử nghiệp chi phối, điển hình như:
- Vua A-kỳ-đạt suốt đời hộ trì Tam bảo như cất chùa, nuôi tăng, v.v… Giờ chót bị người hầu làm rớt cây quạt vào mặt, nổi sân rồi chết, sanh làm con rắn mảng xà.
- Thiền sư công phu đắc lực, những ngày cuối cùng mến tiếc bụi mía trước am, để rồi chết sanh làm con sâu trong thân cây mía.
- Vị Ưu-bà-tắc nọ trước khi thân hoại mạng chung, vì quá yêu thương vợ nên tái sanh làm con dòi trong mũi vợ.
- Vua A-dục (Asoka) đã từng xây cất 84.000 cảnh chùa, 84.000 tháp đền, đài thọ chi phí cho kỳ kiết tập Kinh điển lần ba. Khi sắp lâm chung, vua ra lệnh đem của cải trong kho ra bố thí trọng đại để làm phước trước khi chết. Vị quan giữ kho phản đối. Nhà vua tức giận rồi chết, đầu thai làm con rắn độc trong vườn ngự uyển, chờ cơ hội thuận tiện cắn chết ông quan giữ kho để trả thù.
Hành giả Tịnh nghiệp hãy dõng mãnh tinh tấn hành trì, để đạt Bất niệm tự niệm bảo đảm vãng sanh, bằng như chưa đạt nổi, thì tối thiểu là chủng tử niệm Phật khá nhiều, khá mạnh, vừa chín, đủ khả năng niệm theo, khi được hộ niệm, hầu được vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh.
21- Hỏi: Người ăn thịt mà niệm Phật và người ăn chay mà không niệm Phật, ai hơn ai?
Đáp: Người niệm Phật hơn người kia. Tại sao? Vì:
1-Người ăn chay tuy có gieo được thiện căn, nhưng vẫn còn trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi (trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục).
2-Người niệm Phật, có niệm Phật là đã gieo hạt giống (chủng tử) Phật vào tạng thức, thì sớm muộn gì (đời này hay những đời kế tiếp) nhứt định được vãng sanh Cực Lạc, thành Phật. Kinh Pháp Hoa dạy: “Niệm một câu Phật là thành Phật đạo” là ý nghĩa này vậy!
Người biết niệm Phật mà không ăn chay là một thiếu sót lớn, thật đáng tiếc! cũng là do túc nghiệp đấy! Hãy tự phấn đấu để chiến thắng mình, Kinh Pháp cú dạy: “Thắng ngàn quân địch không bằng tự thắng mình”. Tự thắng được mình mới thật sự là vinh quang. (xin đọc câu đáp 75A)
22- Hỏi: Công danh, sự nghiệp tột đỉnh. Giàu sang, phú quý nhất đời. Đài sen chín phẩm ở Cực Lạc. Nên chọn cái nào?
Đáp: Người xưa nói: “Công danh cái thế, màn sương sớm. Phú quý kinh nhân, giấc mộng dài”. Ý nói: “Công danh tột đỉnh trên đời này cũng chỉ là màn sương sớm mai (mặt trời mọc, sương tan tức khắc). Giàu sang đến nỗi người phải kinh sợ cũng chỉ là giấc mộng dài mà thôi (giả không thật, không dài lâu).
Đài sen chín phẩm (vãng sanh Cực Lạc) là chuyển phàm thành Thánh, tu hành không thoái chuyển, một đời thành Phật.
Chọn cái nào, tùy ở quý vị quyết định.
Người trí nhứt định chọn đài sen chín phẩm ở Cực Lạc.
23- Hỏi: Người chuyên tu có nên đọc thêm nhiều Kinh sách hay nghe băng thuyết pháp để mở rộng thêm kiến thức không?
Đáp: Hành giả chuyên tu Tịnh Độ chỉ cần học hiểu, nắm vững phương pháp hành trì là đủ rồi. Điều quan yếu là dũng mãnh tinh tấn hành trì, đạt tối thiểu là Bất niệm tự niệm để bảo đảm vãng sanh. Nên dùng hết thời gian học hỏi, mở rộng kiến thức để hành trì niệm Phật, chứng đạt sở nguyện bảo đảm vãng sanh vẫn tốt hơn. Trong Niệm Phật Tông Yếu, Pháp Nhiên thượng nhân bảo: “Tu Tịnh Độ môn thì trở lại ngu si để vãng sanh” (câu đáp 87 sách Niệm Phật Tông Yếu).
Pháp sư Tịnh Không nói: “Đối với những người đầy đủ thiện căn, phước đức, nhân duyên, họ chẳng có hoài nghi, công phu chẳng xen tạp thì chuyên niệm Phật là đủ rồi, nghe giảng Kinh có ích gì? (Nghĩa là không cần nghe giảng Kinh nữa)”. (Ý nghĩa chân thật của Bổn nguyện niệm Phật- trang 80).
Cổ đức nói: “Tất cả Kinh, sách Tịnh Độ đồng có một chủ đích duy nhứt là giúp cho hành giả Tin sâu, Nguyện Thiết và Hành chuyên”. Vậy nếu hành giả đã tin sâu, nguyện thiết thì quyết định phải dốc toàn thời gian nổ lực chuyên tu, chí tử lão thật niệm Phật, vãng sanh ở phẩm vị cao hầu sớm trở về Ta Bà cứu độ chúng sanh.
Vãng Sanh Luận vàThánh Hiền lục cho thấy, từ xưa đến nay, có người cho đến một bộ Kinh cũng không biết, trọn đời chỉ niệm câu A-di-đà Phật, họ cũng đã đứng vãng sanh hoặc ngồi mà vãng sanh. (Điển hình nhất là học trò của Đế Nhàn pháp sư, dốt không học gì cả, chỉ chuyên niệm Phật A-di-đà, ba năm sau, đứng mà vãng sanh).
Liên Trì Cảnh Sách dạy: “Học hết tất cả học vấn thế gian không bằng không biết một chữ, chuyên niệm một câu Nam Mô A-di-đà Phật”.
Cổ đức cũng dạy: “Học Phật trước tiên phải học chữ “ngu”.
Nên nhớ:
- Thế trí biện thông là một trong tám nạn.
- Đa văn như Ngài A-nan vẫn thọ nạn sắc dục bởi Ma-đăng-già.
- Đừng cậy vào một ít học thức, địa vị thế gian, học được một ít Kinh điển Đại Thừa, chấp chặt vào danh từ ngôn ngữ ấy, tự cho mình là giỏi hơn mọi người, rồi đàm huyền, luận diệu với bạn đạo và quý Thầy, Sư cô, khởi tâm cống cao ngạo mạn, lên mặt chê bai, chỉ trích Tăng, Ni thất học, ngu dốt... Thật là tội lỗi vô cùng. Tệ hại hơn, là sở tri chướng này, sẽ tự làm chướng ngại, ngăn chặn đường tiến tu của mình. Vì vậy chư Tổ dạy: “Hạnh giải phải tương ứng”. Hiểu biết như vậy, Minh Tuệ tự nhủ và hôm nay cũng khuyên quý vị, hãy bắt chước ngu phu, ngu phụ lão thật niệm Phật, hầu được vãng sanh Cực Lạc, để được “tận mặt gặp Di-đà, lo gì không khai ngộ”.
- Minh tâm kiến tánh không phải do học rộng hiểu nhiều, mà do hành trì chứng đắc.
24- Hỏi: Một người suốt đời làm ác, lúc lâm chung niệm A-di-đà Phật, có được vãng sanh không?
Đáp: Được vãng sanh, vì đáp ứng đúng đại nguyện của Đức Phật A-di-đà, nhưng thử hỏi có mấy ai niệm được? Thiên, thiên nan, vạn, vạn nan, ức, ức, ức, người chưa từng có một. Hành giả tu Tịnh nghiệp yếu, chưa đạt Bất niệm tự niệm, còn chưa bảo đảm vãng sanh (như đã nói ở phần III, sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh). Kế đến, người thiện mà chưa tu Tịnh Độ, giờ phút lâm chung cũng không tài nào niệm Phật được. Huống hồ gì người suốt đời làm ác.
25- Hỏi: Tổ thứ chín Ngẫu Ích đại sư dạy: “Vãng sanh hay không là do có Tín, Nguyện hay không. Còn phẩm vị cao hay thấp là do công phu sâu hay cạn”. Vậy thì hành giả chỉ có Tín, Nguyện mà không có Hạnh thì có được bảo đảm vãng sanh hay không?
Đáp: Tín và Nguyện, Tổ dạy đây là Tin sâu, Nguyện thiết. Có tin mới có nguyện, nguyện mà không hành là nguyện suông (không tha thiết), coi như không có nguyện, nên không vãng sanh.
Ví như, quý vị ở Mỹ lâu năm, nhớ cha mẹ hay con cháu ở Việt Nam, khát khao, ao ước, muốn (nguyện) về Việt Nam, nhưng chỉ muốn suông, không có thông hành, không có chiếu khán, lại không mua vé máy bay hay vé tàu để đi về, thì thử hỏi quý vị có được về Việt Nam hay không? Vãng sanh Cực Lạc cũng không ngoài nguyên lý này. Tín, Nguyện, Hạnh là ba chân của cái đảnh, thiếu một, đảnh sẽ ngã.
Nói rõ hơn, có Tín sâu, mới Nguyện thiết, có Nguyện thiết mới có Hành chuyên, Hành bền chắc và ngược lại, ba thứ này tác động hỗ tương lẫn nhau, đồng tiến, đồng thoái, đồng diệt.
Kinh nghiệm bản thân cho thấy, khi hành càng chuyên, hành càng bền, nhất là đạt Bất niệm tự niệm, thì Tín và Nguyện càng sâu, càng thiết tha hơn.
26- Hỏi: Hành giả có Hạnh (niệm Phật A-di-đà đạt Bất niệm tự niệm) mà không có Tín, Nguyện có được bảo đảm vãng sanh hay không?
Đáp: Hành giả không có Tín, Nguyện khó mà đạt Bất niệm tự niệm, dù cho có đạt cũng không được vãng sanh. Vì lẽ đương nhiên không có cầu, không có cảm, làm sao có ứng?
Cổ đức đã từng dạy: “Dù cho niệm Phật vững như tường đồng vách sắt, mưa tạt không vào, gió thổi không lọt, như thế cũng không được vãng sanh”, vì thiếu cảm ứng. Tín, Nguyện, Hạnh là ba món tư lương của Tịnh Độ tông, chúng tương quan mật thiết với nhau, tác động hỗ tương lẫn nhau, cộng sinh, cộng tồn, thiếu một không phải là hành giả Tịnh nghiệp. Bởi vậy, người niệm Phật mà không có Tín, Nguyện thì không phải là hành giả Tịnh-độ, không thuộc Tịnh Ðộ tông. Ví như cái đảnh có ba chân thiếu một, đảnh sẽ ngã.
Trên đường Trời Người, tu phước làm đầu. Trong biển sinh tử, niệm Phật bậc nhất.
Nam Mô A Di Đà Phật.
27- Hỏi: Niệm Phật được vãng sanh Cực Lạc là việc đời sau. Không biết hiện đời có lợi ích gì không?
Đáp: Danh hiệu A-di-đà Phật là vạn đức hồng danh, nên xưng Thánh hiệu này có vô lượng công đức cho đời quá khứ, hiện tại và vị lai (Xin đọc Phần IV, Lợi ích của sự niệm Phật, sách nói trên). Niệm một câu A-di-đà Phật sẽ diệt được tám mươi ức kiếp trọng tội sanh tử (quá khứ), hưởng được tám mươi ức kiếp công đức vi diệu (hiện tại và vị lai), hiện đời luôn được hai mươi lăm vị Bồ-tát, trong đó có Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền Bồ-tát... thường theo sát bảo vệ, không cho ác thần, ác quỷ làm hại (Kinh Thập Vãng Sanh). Thân tâm thường an lạc và được trường thọ.
Nhị Tổ Thiện Đạo đại sư dạy: “Người niệm Phật, tức là người quý, người diệu hảo, người bậc thượng thượng, người hiếm có, người tối thắng trong loài người.
Đời này đã được sự lợi ích như vậy, sau khi bỏ thân này, sanh vào nhà chư Phật, nghĩa là sanh về Tịnh Độ của chư Phật. Đến đó nghe pháp dài lâu, đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Nhân quả tròn đầy, sẽ ngồi đạo tràng thành Phật”.
Tôi xin đơn cử vài trường hợp điển hình như sau:
1- Niệm Phật điều trị được bịnh ung thư (Pháp sư Đạo chứng- sách Niệm Phật chuyển hóa tế bào ung thư, cư sĩ Lưu tố Vân, cư sĩ Thanh Tịnh Vinh, v.v...).
2- Niệm Phật trị được bệnh tim (cư sĩ Lý mộc Nguyên- sách Lắng nghe tiếng hát sông Hằng).
3- Niệm Phật được trường thọ (Pháp sư Tịnh Không).
28- Hỏi: Người niệm Phật mới nhập tâm, để nuôi lớn mức nhập tâm nên quyết đóng cửa tịnh tu, cắt đứt mọi quan hệ bên ngoài như: không tiếp xúc bạn đồng tu, không làm những Phật sự lặt vặt hằng ngày… Như vậy có lỗi là chấp pháp, ích kỷ, thiếu trí huệ không?
Đáp: Hành giả niệm Phật mới nhập tâm, cần được tích cực huân trưởng mức nhập tâm để tiến lên Bất niệm tự niệm hầu bảo đảm vãng sanh. Có tự độ được mình, mới mong độ được người khác chứ (tự độ để độ tha)! Ví như không biết lội mà nhảy xuống sông vớt người chết đuối, thì cả hai đều bị chết chìm, là việc dĩ nhiên. Đành rằng mình có chấp pháp mà không vị kỷ và không phải thiếu trí huệ (mà là người đại trí).
Người xưa nói: “Trạch thiện cố chấp” nghĩa là chọn việc thiện rồi giữ vững việc thiện ấy. Mình còn non kém, phải chấp pháp để tiến tu hầu độ đời.
Hành giả Tịnh độ không chết, sống mà ra đi. Vãng sanh Cực
lạc là chuyển phàm thành Thánh, liễu sinh thoát tử, bất thoái chuyển, nhất sanh bổ xứ, vô lượng thọ, một đời thành Phật.
29- Hỏi: Nói rằng Tịnh Độ môn là pháp môn cực viên đốn, thù thắng, vi diệu vô thượng, là thế nào?
Đáp: Là so với Tông môn mà nói. Chúng ta hãy phân tách kỹ như sau:
1) Cực viên đốn:
a- Thiền tông.
Phải tu đến nghiệp sạch tình không, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, mới liễu sanh thoát tử, rồi tiến tu để thành Phật.
Thời mạt pháp này, đắc định còn quá hiếm, thì thử hỏi có mấy ai được đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh?
Trong quyển “Niệm Phật Luận” của Đàm Hư đại sư, Ngài nói cả đời Ngài gặp được, hoặc nghe đến những người tham thiền đến mức đắc thiền định, quả thật là rất ít, còn người tham thiền đến khai ngộ, thì không những một đời chưa gặp, mà cũng không nghe đến.
Nếu tham thiền mà không thể đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh thì không kể là thành công. Công phu đắc thiền định có sâu có cạn, công phu cạn thì sanh lên cõi trời Sơ thiền, Nhị thiền. Công phu sâu thì sanh lên cõi trời Tam thiền, Tứ thiền. Cõi trời Tứ thiền và Tứ Không (Bát định) vẫn chưa thoát khỏi Thiên đạo (còn sinh tử luân hồi).
b- Tịnh Độ tông.
Người niệm Phật được đới nghiệp (mang nghiệp) vãng sanh. Vãng sanh đạt vô lượng thọ, được bất thoái chuyển, một đời thành Phật. Pháp môn này dễ tu, (bất luận tăng tục, ngu trí, vua quan, dân dã, nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, sang hèn, sĩ, nông, công, thương, binh, đau ốm bệnh tật gì… cũng đều tu thành công dễ dàng (dễ chứng). (Xin đọc Phần I, dễ tu, dễ chứng, sách nói trên).
Tăng tục Việt Nam nhờ niệm Phật dễ thành tựu, nên đã vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc nhiều vô số kể.
Điển hình, riêng tu học tại chùa Tịnh Luật thôi, trong hai năm qua đã có hơn chín mươi vị Tăng, Tục niệm Phật được nhập tâm và đạt Bất niệm tự niệm, bảo đảm sẽ vãng sanh về Cực Lạc, bất luận tình huống nào.
Có những vị Tăng, Ni, Cư sĩ nhập Phật thất ở Tu viện Tịnh Luật niệm Phật hai ngày được "nhập tâm‟ và bảy ngày đạt Bất niệm tự niệm.
Cư sĩ Châu Quảng Đại ở Hoa Thịnh Đốn chỉ biết niệm Phật mới ba ngày mà được vãng sanh Cực Lạc (Phật thuyết Thanh Tịnh Tâm giảng ký do Pháp sư Tịnh Không giảng, trang 26, www.thuvienhoasen.org).
2- Thù thắng, vi diệu vô thượng.
Hành giả Tịnh Nghiệp sơ cơ niệm Phật bằng ý (ý trì) là chỉ quán song tu của Thiền, nhập Phật thất hai ngày được “nhập tâm”, bảy ngày đạt Bất niệm tự niệm (nhập môn) bảo đảm vãng sanh Cực Lạc, một đời thành Phật độ chúng sanh, thì không có pháp nào bằng được, nên nói rằng thù thắng, thâm diệu vô thượng.
Kinh Đại Tập nói: “Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh là pháp môn Vô thượng thâm diệu thiền”.
30- Hỏi: Từ ý trì ở sách này nói và tâm niệm ở sách khác nói, có khác nhau không? Nếu không, tại sao phải dùng hai từ khác nhau vậy?
Đáp: Từ “ý trì” ở đây và từ “tâm niệm” ở các sách không khác nhau mà là một. Lý do chúng tôi không dùng từ tâm niệm mà dùng ý trì như sau:
1/ Từ “Tâm niệm” dễ lẫn lộn, lầm hiểu là quan niệm.
2/ Chữ “tâm” quá trừu tượng, nghĩa quá rộng lớn. Theo Duy thức học, có tám tâm vương, năm mươi mốt tâm sở, không biết phải dùng tâm nào?
3/ Trong sách “Tuyết Hư Lão Nhân Tịnh-độ Tuyển Tập” Ngài Lý Bỉnh Nam nói: “Ý trì vẫn có tiếng”. Ngài minh xác hai điều:
- Ý trì là một pháp trong những pháp trì danh.
- Niệm bằng ý vẫn có tiếng (đập tan mọi hiểu lầm của nhiều người cho rằng không có tiếng).
4/ Để phân biệt tiến trình hành trì qua hai giai đoạn:
a. Ban đầu dùng ý (ý thức là tâm vương thứ sáu) để niệm, huân tập thuần thục sẽ được “Nhập tâm”.
b. Huân trưởng mức nhập tâm sâu, đạt “Bất niệm tự niệm”. Lúc bấy giờ A-lại-da-thức (Tâm vương thứ 8) tự động nó niệm (cũng gọi là Tự tánh niệm, Tâm niệm). Như vậy thì tâm niệm là giai đoạn sau cùng.
Chú ý: Từ Tâm niệm có hai cách hiểu khác nhau:
1/ Tâm niệm là dùng tâm để niệm Phật (xưng danh hiệu Phật). Đây là cách tôi nghĩ, cùng ý trì là một.
2/ Tâm niệm là dùng tâm để nhớ (quán) sắc thân Phật, hay trí thân Phật (pháp quán tưởng). Như vậy, “tâm niệm” khác với ý trì.
31- Hỏi: Nhất tâm, Nhất niệm, Thành Khối giống hay khác nhau?
Đáp: Xin trình bày rõ như sau:
1- Định nghĩa:
-Nhất tâm là một lòng. Nhất tâm niệm Phật là một lòng niệm Phật, không có lòng làm gì khác.
Như đang niệm Phật mà còn nghĩ đến việc gì khác thì không phải nhất tâm mà là nhị tâm.
-Nhất niệm là chỉ có một niệm duy nhất thôi.
Như đang niệm Phật A Di Đà mà niệm Phật Dược sư, thì không phải nhất niệm mà nhị niệm.
Như A-di-đà Phật là bốn chữ rời rạt (có kẽ hở giữa các chữ). A-di-đà Phật, A-di-đà Phật là hai câu rời rạc có kẽ hở giữa hai câu. Thành khối là dồn bốn chữ lại thành như một chữ (không kẽ hở). Các câu cũng thế, dồn các câu khắn khít lại với nhau không còn kẽ hở ở giữa các câu.
Ba nhóm từ trên khác nhau về về danh tự, nhưng đồng một hiện tượng (ý nghĩa).
2-Ý nghĩa:
a. Cạn (hẹp): Nhất tâm, Nhất niệm, Thành khối có số lượng, có thời gian hạn định, như:
Niệm một câu A-di-đà Phật mà không có gì khác xen vào, không có kẻ hở, (không xen tạp, không gián đoạn) gọi là Nhất tâm hay Nhất niệm hay thành khối một câu.
Niệm mười câu Phật hiệu mà không xen tạp, không gián đoạn gọi là Nhất tâm, hay Nhất niệm hay Thành khối mười câu.
Niệm Phật năm phút, mười phút, một giờ, mười giờ không xen tạp, không gián đoạn gọi là Nhất tâm, Nhất niệm, hay Thành khối năm phút, mười phút, một giờ, mười giờ. v.v… và v.v…
b. Sâu (rộng): Nhất tâm, Nhất niệm hay Thành khối không hạn định số lượng câu (vô lượng), không hạn định thời gian (toàn thời gian).
Nhất tâm bất Loạn và Thành Một Khối ý nghĩa cạn, sâu cũng tương tự.
32- Hỏi: Niệm Phật là huân tập chủng tử vào tạng thức cho đến khi nào nó đầy tràn sẽ khởi hiện hành. Khi tiếp tục huân tập thêm mãi mãi cho nó tràn mãi để nó khởi hiện hành liên tục, phải không thưa Thầy?
Đáp: Tạng thức không hình tướng làm gì có việc “đầy tràn”. Mà hễ “đầy tràn” rồi, huân tập thêm nữa, làm sao vào được (vì không chỗ chứa), có cố thêm nữa cũng tràn ra thôi. Như vậy huân tập chỉ vô ích mà thôi.
Việc “đầy tràn” này, để cho dễ hiểu, tôi xin thí dụ: Nhỏ nước vào lu cho đến khi nào lu đầy nước (chủng tử nhiều trong tạng thức). Khi ấy tự nhiên (bắt buộc) nước phải tràn (tự nhiên chủng tử khởi hiện hành). Đó là một hiện tượng tự nhiên không có gì gọi là mầu nhiệm cả.
Niệm Phật là huân tập chủng tử Phật vào Tạng thức, cho đến khi nào nhiều, chủng tử sẽ khởi hiện hành, và tiếp tục huân tập thêm (huân trưởng) cho chủng tử càng lớn mạnh, để chủng tử khởi hiện hành liên tục.
33- Hỏi: có người nói: “Người tu niệm Phật phần đông tu trên các căn, phải tu trên linh hồn mới thật tốt”. Vậy cách tu đó như thế nào?
Đáp: Đại thừa Phật giáo không chấp nhận từ linh hồn. Vì người đời thường nói linh hồn là thường hằng bất biến, nghĩa là linh hồn con người sẽ vĩnh viễn đầu thai làm người, linh hồn con chó sẽ vĩnh viễn đầu thai làm chó (thường hằng, bất biến). Kinh Phật dạy: “Tất cả các pháp vô thường, biến chuyển không ngừng (hằng chuyển), là không…”.
Về từ “linh hồn”, nhà Phật thay thế bằng từ khác cho hai trường hợp khác nhau như sau:
a. Đối với người chết: vong linh (dành cho người chưa thọ Tam qui), hương linh (dành cho Phật tử đã thọ Tam qui), giác linh (dành cho các vị Tỳ kheo đã thọ cụ túc giới).
b. Đối với người còn sống: Tâm, Phật tánh, tự tánh, tạng thức, bản lai diện mục…
Theo Tịnh Độ tông, trì danh có hai cách: sự trì và lý trì.
Còn việc tu trên các căn hoặc trên linh hồn mà liên hữu hỏi, có phải là sự trì và lý trì hay không, Minh Tuệ không rõ, nên xin miễn góp ý.
34- Hỏi: Vậy, sự trì và lý trì là thế nào?
Đáp:
1/ Người Sự trì là người tin có Phật A-di-đà ở Tây phương thật sự, nhưng mà chưa hiểu được suốt thế nào là “Tâm mình tạo tác ra Phật, tâm mình chính là Phật”; chỉ có cái tâm quyết chí phát nguyện cầu sinh sống ở Tịnh Độ thôi, cho nên lúc nào cũng như con thơ nhớ mẹ, không lúc nào tạm quên.
2/ Người Lý trì là người tin rằng Phật A-di-đà ở Tây phương là Phật đã sẵn có ở trong tâm mình, là Phật do tâm mình tạo ra, thì mình lấy ngay cái danh hiệu Phật lớn lao sẵn có ở trong tâm mình và do tâm mình tạo ra ấy, để làm cảnh giới buộc tâm mình vào đấy, khiến cho nó khó quên (tuy Lý trì mà vẫn chẳng bỏ Sự trì).
35- Hỏi: Nhất tâm bất loạn là thế nào?
Đáp: Nhất tâm bất loạn có hai lối: Sự nhất tâm bất loạn và Lý nhất tâm bất loạn.
1- Bất luận là người Sự trì hay Lý trì, hễ mà trì đến ngày đã phục trừ được mọi phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, cho đến ngày diệt tận cả kiến hoặc và tư hoặc, thì cả hai người đều là Sự nhất tâm bất loạn.
Sự nhất tâm bất loạn đối với Thiền tông là đắc Định, đối với Nhị thừa là A-la-hán.
Sự nhất tâm bất loạn thì không bị kiến tư hoặc nó làm loạn.
Tâm mình chẳng bị kiến tư hoặc làm rối loạn, cho nên mình cảm thấy thân biến hóa của Phật và các vị Thánh chúng hiện ra trước mắt, khi ấy tâm mình chẳng còn biến khởi ra ba cảnh vật điên đảo, của Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới ở trong thế giới Ta-bà nữa, mà mình được đi sinh sống ở cõi Ðồng cư hoặc cõi Phương tiện của thế giới Cực Lạc.
2- Bất luận là người Sự trì hay Lý trì, hễ mà trì đến ngày tâm mình mở ra, mình thấy được Phật của tâm tánh mình, thì cả hai người đều được Lý nhất tâm bất loạn.
Lý nhất tâm bất loạn đối với Thiền tông là Minh tâm kiến tánh, Đại triệt đại ngộ, là Đại Bồ-tát.
Đạt đến Lý nhất tâm bất loạn thì chẳng bị những tà thuyết nhị biên làm loạn.
Tâm hành giả chẳng bị tà thuyết nhị biên làm rối loạn, cho nên hành giả cảm thấy Phật A-di-đà, chư Phật trong mười phương, cùng Thánh chúng thế giới Cực Lạc hiện ra trước mắt.
Lúc bấy giờ hành giả:
-Được gột rửa hoàn toàn các chấp trước nhiễm ô.
-Đạt biện tài vô ngại, độ sinh một cách tự tại.
- Đắc thần thông.
-Chứng thật tướng, thấu suốt tất cả pháp.
-Tự tại vãng sanh bất cứ lúc nào (theo ý muốn).
-Khi mãn báo thân này, hành giả hóa sanh Thượng phẩm, Thật báo trang nghiêm, hoặc Thường tịch quang Tịnh Độ.
Lưu ý:
Trong suốt tiến trình từ khi bắt đầu thực tập đến khi đạt được bước thứ nhất (Bất niệm tự niệm), dần dần đến Sự rồi Lý nhất tâm bất loạn cũng chỉ cần niệm một câu Phật hiệu duy nhất mà thôi. Đúng như Kinh Lăng Nghiêm đã dạy: “Không cần phương tiện gì khác, tự được khai tâm”. Như chư Tổ dạy: “Một câu A-di-đà Phật thành Phật còn có dư”.
Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: “Tất cả chư Phật trong mười phương ba đời (quá khứ, hiện tại và vị lai) đều học pháp niệm Phật, mau chóng chứng đắc đạo giác ngộ giải thoát”. Thế nên biết, chư Phật trong ba đời đều do niệm Phật được thành Phật.
36- Hỏi: Cổ đức dạy: “Muốn được vãng sanh, niệm Phật phải chuyển được chỗ chín thành chỗ sống, chỗ sống thành chỗ chín” là như thế nào?
Đáp: Muốn được vãng sanh, hành giả phải thực hành theo lời dạy của Nhị Tổ Thiện Đạo đại sư và Tổ sư Pháp Nhiên, là bỏ tạp hạnh, kiên trì chuyên tu chánh hạnh (thâm nhập nhất môn, trường kỳ huân tu). Điều này có nghĩa là toàn thời gian lâu dài niệm Phật không xen tạp, không gián đoạn (không tụng Kinh, bái sám … gì khác cả, chỉ độc nhất niệm Phật mà thôi), mới có thể chuyển được chỗ chín (ái nhiễm, tham đắm ngũ dục, lục trần) thành chỗ sống (bồ-đề chánh niệm, chân thành niệm Phật cầu vãng sanh), chỗ sống (bồ-đề chánh niệm) thành chỗ chín rục (bồ-đề chánh niệm thuần thục).
Vì sao phải chuyển như vậy? Vì ngoài những vị có cực trọng nghiệp, còn lại chúng ta tái sanh đều do cận tử nghiệp quyết định.
Ngay giờ phút lâm chung, nếu:
-Khởi niệm ái nhiễm ngũ dục lục trần, thì sẽ sa vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
-Khởi chánh niệm niệm Phật, thì sẽ được đức Phật A-di-đà tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
37- Hỏi: Người được vãng sanh Cực lạc được bất thoái là sao?
Đáp: Người được vãng sanh Cực Lạc dù ở mức Hạ phẩm hạ sanh vẫn đạt Tam bất thoái. Đó là Vị bất thoái, Hành bất thoái và Niệm bất thoái.
1- Vị bất thoái: Vị thứ đã tu được không bị thoái thất (trở lui và mất mát). Hễ hành giả được quả vị nào thì trụ chắc quả vị đó, để rồi tiếp tục tinh tấn tiến tu.
2- Hành bất thoái: Chẳng bị thoái thất đối với các pháp đã tu hành, tức hạnh tu càng ngày càng tăng trưởng.
3- Niệm bất thoái: Chẳng bị thoái chuyển về chánh niệm.
Ba Bất thoái này, đem sánh với hạnh vị của Bồ-tát thì tùy theo các tông có khác nhau.
Quán Kinh Diệu Tông Sao, quyển hạ viết:
- “Nếu phá kiến tư hoặc, thì được gọi là Vị bất thoái, vĩnh viễn chẳng mất địa vị siêu phàm giả.
- Lại đoạn được trần sa hoặc, thì được gọi là Hành bất thoái, vĩnh viễn chẳng mất hạnh Bồ-tát.
- Nếu đã phá vô minh, được gọi là niệm bất thoái, chẳng mất chánh niệm Trung đạo”.
Nhị Tổ Thiện Đạo đại sư giải thích rộng hơn: “Nếu được nghe danh hiệu, chỉ cần Tín, Nguyện, Trì danh, thì ắt có thể ngay trong hiện đời chứng được bất thoái”.
38- Hỏi: Người vãng sanh Cực Lạc đắc Vô sanh pháp nhẫn là gì?
Đáp:
1- Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phép quán thứ mười bốn (Thượng Phẩm Thượng Sanh Quán) nói: Khi sanh về Thượng phẩm thượng sanh liền ngộ vô sanh pháp nhẫn (thượng phẩm trung sanh chưa ngộ).
2- Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm mười lăm, Bồ-đề đạo tràng nói: “Người vãng sanh Cực Lạc thấy cây Bồ-đề đạo tràng sẽ đắc ba thứ nhẫn: một là Âm hưởng nhẫn, hai là Nhu thuận nhẫn, ba là Vô sanh pháp nhẫn.
Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau:
- Âm hưởng nhẫn là do nghe pháp ngộ đạo, biết hết thảy pháp giống như tiếng vọng, như mộng, huyễn, bọt nước, hình bóng. Bậc Bồ-tát Biệt giáo từ Tam địa trở xuống đắc nhẫn này.
- Nhu thuận nhẫn là không dùng ngôn ngữ văn tự để diễn đạt nghĩa lý, mà hướng đến Thật tướng. Bồ-tát từ tứ, ngũ, lục địa, đắc nhẫn này.
-Vô Sanh Pháp Nhẫn là chứng nhập Thật tướng, lìa hết thảy tướng. Bồ-tát từ thất địa trở lên, đắc nhẫn này.
Nói cách khác, giản dị, an trụ trong lý Chơn như Thật tướng, bất sanh bất diệt, thì gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Nam Mô A Di Đà Phật
39- Hỏi: Người vãng sanh Cực Lạc đều trụ trong Chánh định tụ là sao?
Đáp: Chánh định tụ là một trong ba tụ. Cả Đại thừa và Tiểu thừa đều nói đến ba tụ, nhưng có nhiều thuyết như sau:
a. Thuyết thứ nhất: ba tụ là:
-Chánh định tụ: những người nhất định chứng ngộ.
-Tà định tụ: hoàn toàn chẳng chứng ngộ.
- Bất định tụ: những người ở giữa hai hạng trên, nếu hữu duyên thì chứng ngộ, vô duyên ắt chẳng chứng ngộ.
b. Thuyết thứ hai là từ Khởi Tín Luận:
- Từ phàm phu đến hạng chưa đạt bậc Thập Tín, chẳng tin nhân quả là Tà định.
- Hạng Thập Tín là Bất định tánh.
- Từ Thập Trụ trở lên là Chánh định.
Thuyết này là thuyết của Đại thừa Thật giáo.
c- Thuyết thứ ba như sách Hội sớ nói: “Định tụ nói đầy đủ là Chánh định tụ, cũng gọi là Bất thoái chuyển, tức là Bồ-tát A Bệ Bạt Trí.. Vì sao gọi là Chánh định? Phàm hết thảy chúng sanh tuy căn tánh muôn phần sai khác, nhưng nếu phân loại thì chẳng ngoài ba thứ:
- Ắt đoạ trong sáu đường là Tà định.
- Nếu thăng trầm tùy duyên thì là Bất định.
- Quyết định đạt đến Bồ-đề thì gọi là Chánh định.
Mặt khác, hiển thị sâu sắc sự sâu rộng đại nguyện của Phật A-di-đà, thì chẳng những người đã vãng sanh Cực Lạc trụ trong chánh định, quyết chứng Vô thượng đạo mà hết thảy những người cầu sanh Cực Lạc trong hiện tại hoặc tương lai, chỉ cần phát Bồ-đề tâm nhất hướng chuyên niệm, thì sẽ tương ứng với bổn nguyện của Phật A-di-đà, dẫu trong uế độ vẫn còn là phàm phu đầy dẫy, nhưng hễ vãng sanh thì ắt trụ trong chánh định, quyết chứng Bồ-đề. Đây thật là điều vi diệu chẳng thể nghĩ bàn, dứt bặt mọi đối đãi một cách viên dung, phương tiện rốt ráo.
Sách Bình giải đã cực lực tán dương thuyết của Thiện Đạo đại sư: “Người sẽ được vãng sanh tuy thân còn đang ở Ta-bà mà đã được hưởng lợi ích bí mật là nhập vào Chánh định tụ”.
40- Hỏi: “Chư tổ dạy: “Pháp môn Tịnh độ là pháp môn tha lực”. Vậy việc Vãng sanh hoàn toàn do Đức Phật quyết định phải không thầy?
Đáp: Pháp môn Tịnh Độ đúng là pháp môn tha lực, có nghĩa là nhờ (dựa vào) sự tiếp dẫn của Phật. Tuy nhiên, nói việc vãng sanh hoàn toàn do đức Phật quyết định là không đúng. Có cảm (tự lực) mới có ứng (tha lực) chứ? Đúng nghĩa “hữu cầu tất ứng”, có cầu (tự lực) mới có ứng (tha lực). Vậy thì có tự lực mới có tha lực, phải không?
Đành rằng Pháp Nhiên thượng nhân dạy: “Vãng sanh là việc của Phật làm (tha lực)”, vì đây là bổn nguyện của Phật. Đồng thời Ngài cũng dạy tiếp: “Niệm Phật là chuyện của mình phải làm (tự lực)”. Mình có niệm Phật (tự lực) Phật mới tiếp dẫn (tha lực) chứ! Trong ba Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã nói rõ, đức Phật tiếp dẫn vãng sanh (tha lực) với điều kiện là người lâm chung phải niệm Phật (tự lực). (Xin hãy đọc kỹ Phần III điều kiện vãng sanh và lý do không vãng sanh, sách nói trên).
Đành rằng tự lực là cần thiết, nhưng vẫn chưa đủ, phải nhờ thêm tha lực mới có tác dụng.
Niệm Phật là nhân, vãng sanh thành Phật là quả, không có nhân làm sao có được quả?
Để tránh hiểu lầm (thiên kiến), chư Tổ cũng dạy; “Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn Nhị lực (Tự lực và tha lực)”.
41- Hỏi: Phật tử có bị bắt buộc phải tham dự tất cả các buổi giảng pháp của pháp sư không?
Đáp: Không bắt buộc. Trước tiên, hành giả phải biết pháp sư giảng đề tài gì, thuộc tông phái nào: Thiền, Tịnh, Mật…
1- Nếu đề tài về Tịnh Độ thì hành giả nên hết sức cố gắng đến tham dự để học hỏi thêm kiến thức và kinh nghiệm hành trì.
2- Nếu đề tài không phải Tịnh Độ mà là Thiền, Mật thì:
a. Nếu hành giả đã công phu đắc lực, có định lực, vững đủ niềm tin (tối thiểu cũng đã đạt Bất niệm tự niệm sâu. Nghĩa là không gì lay chuyển nổi) thì nên tham dự để trang nghiêm đạo tràng (giúp đạo tràng càng đông người, tạo thêm niềm tin cho thính giả). Bồ-tát hạnh đấy!
b. Nếu là hành giả sơ cơ, chưa đạt được trình độ trên (Bất niệm tự niệm sâu) thì không nên tham dự. Tại sao?
Chư Tổ Tịnh Độ dạy: “Người tu Tịnh Độ không nên nghe lời khai thị của các Thiền sư”. Vì sao? Vì, tuy rằng mục đích chung cuộc là một: đều là giác ngộ, giải thoát, nhưng lý luận, phương cách hành trì ban đầu trái khác nhau. Thiền tông là pháp tánh tông (lý), còn Tịnh Độ tông là pháp tướng tông (sự). Thiền tông từ cửa KHÔNG (vô môn) mà vào. Tịnh Độ tông từ cửa CÓ (hữu môn) mà vào đạo. Vì trái ngược nhau như vậy, hành giả tham dự vô ích, lại mất đi thời khóa công phu của mình, không khéo sẽ bị lung lạc, nghi ngờ, thối thất Bồ-đề tâm, mất đi cơ hội vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh. Nên phải hết sức thận trọng!
Như vậy, ngồi nhà niệm Phật hữu ích hơn.
42- Hỏi: Thầy nói vậy, thì hạnh “Hằng thuận chúng sanh” thế nào?
Đáp: “Hằng thuận chúng sanh” là hạnh thứ chín trong mười nguyện Phổ Hiền, đây là cách nói với Pháp thân đại sĩ. Phàm phu chúng ta cũng nên học theo. Buông bỏ vọng tưởng phân biệt và chấp trước, tất cả đều tùy thuận người khác. Trước khi tùy thuận, nhất định phải quan sát kỹ lưỡng. Nếu là thiện pháp như lý, như pháp thì mình tùy thuận; Nếu là ác pháp, không như lý, không như pháp thì tuyệt đối không nên tùy thuận. Tùy thuận phải dùng lý trí xét đoán, không thể riêng dùng tình cảm.
Đáp án ghi trên là tùy thuận rồi đó.
43- Hỏi: Luận vãng sanh nói “Người nữ, kẻ khuyết tật và hàng nhị thừa không được vãng sanh” là sao?
Đáp:
1- Kinh A-di-đà dạy: “Niệm Phật nhất tâm bất loạn được vãng sanh”. Kinh Vô Lượng Thọ, nguyện thứ mười tám (18) nói: “Trước giờ phút lâm chung, niệm mười niệm được vãng sanh”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: “Trước giờ phút lâm chung, niệm một niệm thì được vãng sanh”. Kinh Pháp-cổ nói: “Trước giờ phút lâm chung, ý muốn vãng sanh là được vãng sanh”.
Tất cả bốn Kinh trên đều không phân biệt người nữ, kẻ khuyết tật hay hàng nhị thừa là không được vãng sanh, mà tất cả những ai đáp ứng điều kiện ấn định đều được vãng sanh. (Xin đọc Phần III-Điều kiện vãng sanh, sách nói trên).
2- Trong bốn mươi tám đại nguyện của Phật A-di-đà, nguyện thứ tư là: “Chúng sanh trong mười phương thế giới sanh về cõi tôi (Cực Lạc) đều đầy đủ thân sắc vàng ròng, ba mươi hai tướng đại trượng phu đoan chánh, tịnh khiết, giống hệt nhau…”. Nhờ oai thần của nguyện này nên người nữ khi vãng sanh, đều biến thành nam tướng, kẻ khuyết tật đều đầy đủ sáu căn.
3- Nhị thừa nói trên là Nhị thừa bảo thủ, không tin có chư Phật và Tịnh Độ mười phương, nên không hồi hướng phát nguyện vãng sanh, do vậy không được vãng sanh.
Ngược lại, Nhị thừa không bảo thủ tin có chư Phật và Tịnh Độ mười phương, hồi hướng phát nguyện vãng sanh thì được vãng sanh.
4- Thực tế thì:
a. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Đức Thế Tôn đã thọ ký cho quốc mẫu Vi Đề Hy Hoàng thái hậu cùng năm trăm thị nữ vãng sanh Cực Lạc. Sách Thánh Hiền Lục ghi chép rất nhiều Ni chúng, Ưu-bà-di (cư sĩ nữ), đồng vãng sanh Cực Lạc.
b- Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ nói: Cõi Cực Lạc có vô số Thanh văn (Thanh văn không bảo thủ). Dẫu cho mười phương thế giới chúng sanh đều đắc thần thông như Ngài Mục-kiền-liên, dùng trọn cả cuộc đời mình, dốc cạn trí lực, hợp nhau tính toán số lượng Thánh chúng trong cõi Cực Lạc, thì những điều họ biết được chẳng bằng nổi một phần ngàn vạn số lượng, thánh chúng trong cõi ấy (Cực Lạc).
Tóm lại, qua những chứng minh trên, bất luận những ai hễ đạt đủ điều kiện vãng sanh thì được vãng sanh, chứ không phân biệt là người nữ, kẻ khuyết tật hay hàng nhị thừa gì cả. Đức Phật A-di-đà bình đẳng tiếp dẫn bất cứ những ai niệm danh hiệu Ngài. (Xin xem và nghe DVD Tiếp dẫn vãng sanh bằng cách nào?).
44- Hỏi: Tội ngũ nghịch là gì, chịu hình phạt thế nào?
Đáp: Tội ngũ nghịch là năm tội cực ác, trái với đạo lý:
-Theo Kinh Tăng Nhất A-Hàm, đó là giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, và phá hòa hợp Tăng.
-Theo Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ 5, đó là giết cha mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp Tăng và phỉ báng Đại thừa.
Người phạm vào năm tội này sẽ bị đọa vào địa ngục Vô gián. Đây là địa ngục ở tầng thứ tám của điạ ngục nóng. Vô gián có năm nghĩa:
1- Sau khi chết, bị đọa ngay vào ngục đó, mà không có gián cách (không qua giai đoạn trung ấm thân).
2- Chịu khổ không gián đoạn.
3- Trong vòng một kiếp, tương tục, không gián đoạn (thời gian chịu khổ).
4- Trong vòng một kiếp, thọ mạng không gián đoạn (chết đi sống lại liên tục).
5- Thân hình đầy khắp địa ngục không xen hở (để thọ khổ).
Tội nhân bị gươm đao đâm chém, gậy gộc đánh đập, cối xay nghiền giã v.v… và v.v… Đau khổ vô cùng, mỗi ngày chết đi sống lại không biết bao lần mà kể.
Thông thường nói kiếp là đại kiếp, mà:
1 đại kiếp = 1 tỷ 344 triệu năm.
Nếu nói tiểu kiếp thì:
1 tiểu kiếp = 16 triệu 798 ngàn năm.
1 ngày ở địa ngục bằng mấy ngàn năm nhân gian.
Mãn kiếp địa ngục, sanh Ngạ quỷ. Mãn kiếp Ngạ quỷ, sanh súc sanh, mãn kiếp súc sanh, sanh làm người hạ liệt. Một khi mất thân người, phải chịu khổ đau, trôi lăn trong ba đường ác, thời gian dài ôi là dài, tính không nổi.
Ba tội giết cha mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, có thể chúng ta khó phạm. Nhưng còn hai tội phá hòa hợp Tăng và phỉ báng Đại thừa (chánh pháp) Phật tử chúng ta vì không hiểu, vô tình đã phạm quá nhiều, như chúng ta tu Tịnh Độ chê bai Thiền, người tu Thiền chê bai Tịnh Độ, cả hai đều phạm tội phỉ báng chánh pháp, sa địa ngục Vô gián. Còn phá hòa hợp Tăng thì sao?
-Vì muốn được lòng quí Thầy, nên Phật tử đến Thầy A nói theo Thầy A, đến Thầy B, nói theo Thầy B, lại nói thêm những lời không đúng sự thật (vì hoặc tự mình hiểu lầm, hoặc nghe kẻ xấu ác cố ý xuyên tạc).
-Vì thiếu thiện cảm, hoặc oán hận, vì bị Thầy C la rầy, quở trách, khởi tâm thù hận, nên lỗi nhỏ của Thầy C liền phóng đại, tô màu, việc bé xé cho to, rêu rao, bêu xấu Thầy C với Phật tử và quý Thầy khác, lại còn phịa chuyện để quý Thầy khác không hài lòng về Thầy C.
Phần lớn quý Thầy trẻ bất hòa với nhau, nguyên nhân chánh đều do những lời thiếu cảnh giác của Phật tử.
Hai tội lớn nói trên là nhân sa địa ngục Vô gián. Hãy thận trọng!
Ngưỡng mong rằng hàng Phật tử chúng ta nghĩ đến sự khổ lâu dài, khủng khiếp của địa ngục Vô gián mà luôn gìn giữ, tránh tạo ác khẩu nghiệp.
Nam-mô A-di-đà Phật.
45- Hỏi: Người niệm Phật đạt Bất niệm tự niệm có được chứng đắc gì chưa? Lợi ích thế nào?
Đáp:
1- Chưa chứng, chưa đắc gì cả, chỉ tạm gọi là nhập môn (vào cửa).
2- Lợi ích:
a. Liên tông Nhị Tổ Thiện Đạo đại sư, Bát Tổ Liên Trì đại sư và Hòa thượng Trí Tịnh đồng dạy: “Người niệm Phật phải đạt Niệm lực tương tục (Bất niệm tự niệm) mới đúng nghĩa chấp trì danh hiệu mà Đức Thế Tôn dạy trong Kinh A-di-đà. Nếu giữ trọn đời thì bảo đảm vãng sanh”. (Đường về Cực Lạc và Kệ niệm Phật của Hòa thượng Thích Trí Tịnh).
b. Bước đầu này rất quan yếu. Có vào cửa mới vô được nhà, nếu không thì đời đời kiếp kiếp lang thang ngoài sân. Chư Tổ thường quở là niệm Phật ngoài da (chưa vô thịt, xương, tủy), mãi mãi trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. Phải qua cửa ải Bất niệm tự niệm mới vào được thành “Niệm Phật Thành một khối, Nhất tâm bất loạn”. Ví như ngoài đời phải trúng tuyển nhập học trường Y khoa, mới có ngày thành tài bác sỹ được.
c. Niệm Phật được nhiều hơn mà không hao hơi tổn khí, mỗi ngày tự niệm từ sáu vạn đến mười hai vạn câu, hiện đời tội diệt nhiều, phước sanh lớn, nên thân tâm thường an lạc, thanh thoát (không ưu bi sầu khổ, không bịnh tật), và trường thọ. Tương lai vãng sanh Thượng phẩm thượng sanh (Quán niệm môn-Tổ Thiện Đạo), sớm trở về Ta-bà cứu độ chúng sanh.
d. Thân tâm dần dần thanh tịnh (Kinh Niệm Phật Ba La Mật), tâm tịnh thì trí sáng. (Dần dần phá vô minh, dứt vọng tưởng, dừng vọng niệm, trừ phiền não, dẹp tham, sân, si…, phá nhị chấp...).
e. Có cơ hội, có đủ điều kiện, hành Bồ-tát hạnh là chia sẻ kinh nghiệm, giúp đở bạn sen đồng tu, đồng vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh.
46- Hỏi: Bất niệm tự niệm và Vô niệm mà niệm là một hay khác? Nếu khác thì khác chỗ nào?
Đáp: Khác, khác xa lắm.
- Bất niệm tự niệm là bước đầu (vào cửa) Tịnh nghiệp, chưa chứng đắc gì cả, còn nghe tiếng niệm Phật (hữu tướng).
- Vô niệm mà niệm là thành tựu Tịnh nghiệp, đắc Lý Nhất tâm bất loạn (Lý Niệm Phật Tam Muội), hoàn toàn không nghe tiếng niệm Phật (tức vẫn biết tự tánh đang niệm Phật mà không nghe tiếng, nên gọi là vô tướng). Trình độ này ngang với đại triệt đại ngộ, Minh tâm kiến tánh của Thiền tông, là đại Bồ-tát, sanh tử tự tại, vãng sanh sớm hay muộn, thời gian nào tùy theo ý muốn, đắc thần thông.
47- Hỏi: Nguyện thứ 19 nói: “Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ-đề Tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước tôi, đến khi lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện trước người đó, thời tôi không thủ ngôi Chánh Giác”. Như vậy thì con phát Bồ-đề Tâm, thỉnh thoảng chủ nhật con đến chùa làm công quả, cúng dường Tam bảo, tụng Kinh, niệm Phật, bái sám gọi là tu công đức. Nếu công đức nhiều thì sanh vào phẩm vị cao, công đức ít thì vãng sanh ở phẩm vị thấp, phải không thưa Thầy?
Đáp: Kinh A-di-đà nói: “Không thể lấy chút ít căn lành, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi Cực Lạc”. Do vậy Cổ đức dạy: “Công đức nói ở nguyện thứ 19 là công đức rốt ráo, như bố thí phải là Bố thí Ba-la-mật” (bố thí rốt ráo). Nên Nhị Tổ Thiện Đạo đại sư nói trong Quán Kinh Sớ, đây là Tạp tu (cách nói trên), ngàn người tu chỉ có năm, ba người vãng sanh mà thôi.
Vả lại, trong Kinh Đại Thừa Vô Lượng ThọTrang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (do Ngài Hạ Liên Cư hội tập) Nơi nguyện mười chín có thêm đoạn văn như sau: “Phụng hành sáu Ba-la-mật kiên cố bất thoái, nhất tâm niệm tôi, ngày đêm chẳng ngớt”. Điều này chứng tỏ rằng công đức nói trên phải là công đức rốt ráo (Ba-la-mật), đồng thời phải nhất tâm niệm Phật ngày đêm không gián đoạn mới chắc được vãng sanh.
Tóm lại, sự hiểu biết về nguyện thứ mười chín (19) của người hỏi còn thiếu sót, nên quá sai lầm. Hãy thận trọng! Không khéo tự đánh mất phần vãng sanh, thật quá oan uổng cho một đời tu hành của mình!
Nam-mô A-di-đà Phật.
48- Hỏi: Thường Tịch Quang là thế nào?
Đáp: Đây là cảnh giới của Pháp Thân Phật an trụ. Thường là không thay đổi, không sanh, không diệt, tức Pháp Thân Phật. “Tịch” là xa lìa các phiền não, vọng nhiễm, tức là đức giải thoát của Phật. “Quang” là chiếu khắp cả mười phương tức là đức bát-nhã của Phật. Như thế, cõi Tịnh Độ này đủ cả ba đức quí báu của Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”.
Cảnh này không có hình sắc mà chỉ có chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác “thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh” nên gọi là “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi, thì thân và độ (cõi nước, cảnh giới) không hai, song vì căn cứ theo ba loại mà tạm gọi là có thân có độ. Chứng đến chỗ này, nếu nói về thân, thì gọi là “Pháp Thân” còn nói về độ, thì gọi là “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”.
49- Hỏi: Thật Báo Trang Nghiêm là thế nào?
Đáp: Hành giả trải qua ba vô số kiếp tích công lũy đức, do phước báo tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chân thật, nên gọi là “Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ”. Cảnh giới này, là chỗ ở của Báo thân Phật. Lời sớ Kinh Quán Vô Lượng Thọ có chép: “Tu tập chân thật, cảm đặng quả tốt đẹp, cho nên gọi là “Thật Báo Trang Nghiêm”. Bên Đại thừa Viên giáo thì nói cõi này là của các bậc Tam hiền (Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng). Đại thừa Biệt giáo thì nói đây là cõi của các bậc từ Thập địa cho đến Đẳng giác Bồ-tát.
50- Hỏi: Phương Tiện Hữu Dư là thế nào?
Đáp: Cảnh này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Đây là cõi Tịnh Độ của hàng Nhị Thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới), nhưng còn dư lại hai hoặc, là vô minh hoặc và trần sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là “Hữu Dư”. Còn hữu dư tức là chưa phải hoàn toàn cứu cánh, nên gọi cõi này là “Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ”.
51- Hỏi: Phàm Thánh Đồng Cư là thế nào?
Đáp: Đây là cõi Tịnh Độ của Đức Phật A-di-đà ở Tây Phương. Đã gọi là Tịnh Độ, hay Cực Lạc, tất nhiên có đủ các đức thanh tịnh, trang nghiêm, không có bốn ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ-tát và các Thượng thiện nhơn (Thánh) cùng sống chung với các chúng sanh mới vãng sanh, chưa chứng được quả Thánh (còn phàm) nên gọi là “Phàm Thánh Đồng Cư Độ”.
52- Hỏi: Nói hào quang của Phật A-di-đà luôn chiếu khắp mười phương để nhiếp thọ người niệm Phật, tại sao ta không thấy?
Đáp: Vì vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, vô minh phiền não ngăn che, nên ta không thấy.
Thí dụ: Ánh sáng trăng ngày rằm (15) chiếu sáng cả bầu trời, nhưng chúng ta ở trong nhà không cảm nhận được sự sáng soi đó, do mái nhà (ví cho vô minh) đã ngăn che.
53- Hỏi: Vậy, con hết thắc mắc. Nay kính xin Thầy nói rõ mười hai danh hiệu Quang minh của Phật A-di-đà cùng sự lợi ích của những quang minh ấy.
Đáp: Đức Phật A-di-đà, tức Phật Vô Lượng Thọ, còn có mười hai danh hiệu Quang như sau:
1. Vô Lượng Quang Phật.
Chữ Lượng nghĩa là hạn lượng, lượng có giới hạn. Ánh sáng của A-di-đà Phật chẳng có hạn lượng. Không giống chư Phật khác. Phật quang chỉ chiếu một hai Phật sát, chiếu trăm ngàn Phật sát thì có hạn lượng. Còn ánh sáng của A-di-đà Phật thì chẳng có hạn lượng, chiếu tận hư không biến pháp giới, không nơi nào, chỗ nào là không chiếu. Đây là vô lượng. Đương nhiên thâm ý đều là tượng trưng cho trí tuệ. Vô Lượng Quang cũng tức là nói rõ trí tuệ của Đức Phật A-di-đà là vô lượng.
2. Vô Biên Quang Phật.
Biên nghĩa là biên tế, giới hạn. Phật tâm bình đẳng, từ bi bình đẳng, lấy pháp bình đẳng mà giáo hóa tất cả chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật. Ý nghĩa của Vô Biên Quang là chẳng có bờ mé, chẳng có giới tuyến. Chư Phật Như Lai khác như Thích-ca Mâu-ni Phật giáo hóa chúng sanh. Thật ra chúng ta chứng quả là có đẳng cấp. Duy chỉ có độc nhất A-di-đà Phật là được bình đẳng thành tựu (không có đẳng cấp).
Tứ quả tứ tướng của Tiểu thừa. Năm mươi mốt (51) giai cấp của Đại thừa hoàn toàn đều chẳng còn nữa. Phương pháp này của Ngài, quả báo này của Ngài là: “Một là tất cả, tất cả là một”. Cái này gọi là Vô biên tế quang.
3. Vô Ngại Quang Phật.
Ngại là chướng ngại; Vô Ngại nghĩa là quyết định chẳng có chướng ngại. Chướng ngại từ đâu đến? Có phân biệt, có chấp trước thì có chướng ngại. Lìa tất cả phân biệt, chấp trước, tâm được tự tại, thì chẳng có chướng ngại, trong tâm không có giới tuyến. Đây là Vô Ngại Quang. Nếu theo Thiền tông mà nói, thì đây là đạt đến chỗ cùng cực.
Dù ở trong nhà, hoặc rừng sâu, dưới đáy biển, dưới lòng đất, tận hang sâu, nơi thành sắt địa ngục, thì quang minh của Phật A-di-đà vẫn chiếu đến, không gì ngăn ngại được.
4. Vô Đẳng Quang Phật.
Vô Đẳng đồng nghĩa với vô đối, tức không gì bằng được, không gì đương cự nổi, không gì sánh bằng nổi, chính là dứt bặt đối đãi. Ý nghĩa danh hiệu Vô Đẳng Quang Phật rất sâu xa như vậy.
5. Trí Huệ Quang Phật.
Khéo chiếu các pháp, phá trừ được vô minh nên gọi là Trí Huệ Quang. Phá trừ sạch tâm vô minh, nhơ bẩn của chúng sanh, ban cho chúng sanh cái lợi chân thật, nên quang minh của Phật A-di-đà được xưng tụng là tôn quý nhất trong các quang minh (quang trung cực tôn), là vua trong chư Phật (Phật trung chi vương).
6. Thường Chiếu Quang Phật.
Trong hết thảy thời, quang minh Phật chiếu khắp, chiếu chẳng dứt, luôn soi sáng, làm lợi ích cho chúng sanh (tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật), nên được gọi là Thường Chiếu Quang.
7. Thanh Tịnh Quang Phật.
Quang minh này rạng ngời, giúp lìa nhơ (ly cấu), lại còn tiêu trừ tham trược và tội cấu (cấu diệt) của chúng sanh, nên gọi là Thanh Tịnh Quang.
Phật A-di-đà còn gọi là Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, và có mật hiệu là Thanh Tịnh Kim Cang.
Do vậy, hai chữ “Thanh Tịnh” mang ý nghĩa rất sâu sắc.
8. Hoan Hỷ Quang Phật.
Quang minh này từ thiện căn vô sân của Phật sanh ra, trừ được tâm nóng giận, ganh ghét, khiến chúng sanh an vui, mừng rỡ, hoan hỷ, chẳng những sanh tâm hoan hỷ, mà họ còn sanh tín tâm, sanh nguyện tâm. Vì thế ánh sáng này được gọi là Hoan Hỷ Quang.
9. Giải Thoát Quang Phật.
Quang minh này giúp tiêu nghiệp, tiêu tội, khiến tất cả chúng sanh được đại tự tại.
Giải Thoát Quang cũng được gọi là Việm Vương Quang và Vô Xưng Quang.
10. An Ổn Quang Phật.
Tịch tịnh thường diệu, quang minh mầu nhiệm của Phật A-di-đà chiếu trọn khắp, khiến tất cả chúng sanh an ổn, khoái lạc, thoát khỏi các sanh diệt, nên gọi là An Ổn Quang.
11. Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.
Quang minh Phật A-di-đà vượt hơn ánh sáng của nhật nguyệt ngàn vạn ức lần.
Ánh sáng mặt trời có thể chiếu rọi hết thảy những thứ hữu tình, sanh trưởng thiên, địa, vạn vật, nhưng chẳng chiếu nổi thứ vô hình, chẳng thể chiếu qua núi Thiết Vy, chẳng thể khai minh cõi lòng con người.
Siêu nhật minh tam-muội chiếu cả mười phương không bến, không bờ, kể cả nơi tam giới, ngũ đạo, không đâu là chẳng chiếu thấu suốt. Tam-muội đã như thế, huống hồ là quang minh của Phật A-di-đà.
Vì vậy Ngài hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.
12. Bất Tư Nghì Quang Phật.
Quang minh chẳng nghĩ lường nổi, không diễn tả được, vượt ngoài mức tâm tưởng, ngôn ngữ của thế gian, nên được gọi là Bất Tư Nghì Quang.
Đây là tổng kết thần quang của Phật A-di-đà.
54- Hỏi: Trong Kinh sám hối, lạy Pháp giới tạng thân A-di-đà Phật. Vậy Pháp giới tạng thân A-di-đà Phật là gì?
Đáp: Pháp giới tạng thân A-di-đà Phật nghĩa là thân của Phật A-di-đà bao trùm khắp pháp giới. Nói rõ hơn, công đức của Phật A-di-đà bao gồm tất cả công đức của mười phương ba đời tất cả chư Phật.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Phật A-di-đà là vua trong tất cả chư Phật (Phật trung chi vương)”.
Bởi vậy, niệm Phật A-di-đà là niệm mười phương ba đời tất cả chư Phật. Chỉ niệm Phật A-di-đà là đủ rồi, không cần phải niệm Phật nào khác nữa.
Ở đây, không phải chúng ta phân biệt hay kỳ thị, mà ý muốn nhấn mạnh rằng chỉ niệm chuyên nhất Phật A-di-đà để cho dễ nhất tâm, đó là mục đích của người tu Tịnh nghiệp. Còn như niệm nhiều vị Phật quá, hành giả sẽ bị phân tâm, tán loạn không nhất tâm được, đơn giản thế thôi!
55- Hỏi: Trong Kinh A-di-đà yếu giải, Tổ thứ chín Ngẫu Ích đại sư nói: “Mỗi tiếng niệm Phật của mình, tiếng nào mình cũng đã là Phật rồi”. Câu này thật khó hiểu?
Đáp:
-Kinh dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ, đức tướng Như Lai, nhưng vì bị vọng tưởng, phân biệt, chấp trước che lấp, nên Phật tánh không thể hiện bày”.
-Lục Tổ Huệ Năng hỏi Thượng tọa Huệ Minh: “Hãy lắng lòng nghe ta hỏi, trong lúc không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Huệ Minh?”. Thượng tọa Huệ Minh liền ngộ.
Vậy thì lắng lòng (không nghĩ thiện, không nghĩ ác) là dừng vọng niệm, dứt vọng tưởng, lúc đó Phật tánh hiện bày (thành Phật).
Khi chú tâm niệm Phật, vọng niệm dừng, vọng tưởng dứt, Phật tánh hiện bày, nên nói: “Ngay mỗi tiếng niệm Phật, tiếng nào mình cũng đã là Phật rồi” có nghĩa là vậy.
Niệm Phật Thành Phật
Niệm Ma Thành Ma
-o0o-
Tổ Sư Pháp Nhiên Thượng Nhân dạy:
Không cần để ý đến vọng niệm, tán loạn… mà chỉ chuyên cần xưng danh hiệu.
Nếu thường xưng danh hiệu thì do công đức của Phật danh, vọng niệm tự dừng, tán loạn tự yên, tam nghiệp (thân, khẩu, ý) tự điều hòa, nguyện tâm tự phát.
Bởi thế:
-Khi nguyện tâm còn yếu cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
-Khi tâm tán loạn nhiều cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
-Khi vọng niệm sinh khởi cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
-Khi thiện tâm phát sanh cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
-Khi bất tịnh cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
-Khi thanh tịnh cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
-Khi tam tâm còn yếu cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
-Khi tam tâm đầy đủ cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
-Khi tam tâm hiện khởi cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
-Khi tam tâm thành tựu cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
Đây là yếu quyết đưa đến nhập tâm, đạt Bất niệm tự niệm bảo đãm vãng sanh, xin ghi khắc vào tâm can chớ quên!