Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 05: Pháp thanh tịnh giải thoát

13 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 9623)
Chương 05: Pháp thanh tịnh giải thoát

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương 5

Pháp thanh tịnh giải thoát


1. Xa lánh nơi ồn náo

Đức Phật dạy chúng ta tránh bớt những chốn ồn náo, nếu bạn thích sống ồn náo thì hãy nghĩ xem tâm bạn làm sao định được? Những điều Phật ngăn cấm, không cho chúng ta làm đều là vì làm chướng ngại định tuệ. Cho nên, Đức Phật dạy người tu hành cần phải ở nơi vắng vẻ, hoàn cảnh càng yên tĩnh thì càng tốt; đó mới thật là “thêm một việc không bằng giảm một việc, giảm một việc không bằng vô sự”. Vô sự là tương ứng với đạo. Đạo chính là định, tuệ.

2. Ít muốn biết đủ

Trong cuộc sống thường ngày, Đức Phật dạy chúng ta phải biết đủ. Người biết đủ thì thường an vui, phải bỏ đi ý nghĩ ham muốn, mong cầu. Bởi vì ham muốn, mong cầu là căn bản luân hồi trong sáu đường. Ý nghĩ này không đoạn được thì nó càng tăng trưởng rất khó thoát khỏi luân hồi trong sáu đường. Vì thế, thân tâm chúng ta phải thanh tịnh, hoàn cảnh cũng phải thanh tịnh; đây mới là trợ duyên rất tốt.

Chúng ta dùng phương pháp nào để đoạn trừ vọng tưởng? Điều này rất quan trọng, vọng tưởng là gốc rễ của luân hồi trong sáu đường, là gốc rễ của ba đường ác. Tông Tịnh Độ dạy phương pháp niệm Phật, chúng ta không có cách nào mà không suy nghĩ, ý nghĩ tự nhiên nó đến, không suy nghĩ cũng không được, dừng lại không được, rốt cuộc vẫn nghĩ. Đức Phật biết được điều này là tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay. Vậy chúng ta phải nghĩ điều gì? Phải nghĩ đến Phật, nghĩ đến kinh, học kinh thuộc lòng, thường suy nghĩ đạo lý trong kinh đã dạy, phải nghĩ như thế mới tốt; hoặc nghĩ trong kinh Đức Phật dạy thế giới Tây phương Cực Lạc y, chánh trang nghiêm, như thế cũng tốt.

Trong kinh Đại thừa thường nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Chúng ta thường nghĩ tưởng về thế giới Cực Lạc thì cảnh giới này sẽ biến thành thế giới Tây phương Cực Lạc; thường nghĩ về Phật A-di-đà, thân hình chánh báo này sẽ biến thành Phật A-di-đà. Điều này rất có lý, không nên nghĩ sai, nghĩ sai thì hỏng rồi! Thấy sai, nghĩ sai thì quả báo thật không lường được.

3. Lánh xa danh lợi

Đức Phật dạy thời kỳ mạt pháp, hay nói cách khác là thời đại ngày nay của chúng ta, có một số Bồ-tát không có trí tuệ, những Bồ-tát này bao gồm Bồ-tát xuất giatại gia. Hiện nay, thông thường chúng ta thọ giới Bồ-tát rồi đều làm Bồ-tát hữu danh vô thực, lại đi lập đạo tràng. Trong đạo tràng náo nhiệt, ngày ngày làm Phật sự, gọi là “hoằng pháp lợi sinh”.

Chúng taĐài Loan cũng thường nghe nói “mở tiệm Phật”, nghĩa là lập đạo tràng, đem nó làm doanh nghiệp để kinh doanh, đây gọi “mở tiệm Phật”. Đức Phật nói người này là “Bồ-tát ngu si”. Họ làm sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh với mục đích là gì? Mục đích là có lợi, kiếm được nhiều tiền; hoặc là tín đồ cúng dường. Họ dùng nhiều cách, miễn tiền ngày càng nhiều thì càng vui mừng hớn hở; nếu không có tiền thì họ buồn rầu. Người có tâm như thế mà làm Phật sự trong Phật giáo, thậm chí thuyết pháp cho người đều là lỗi lầm, đều là tạo tội nghiệp.

Huống gì lại còn dùng nhiều thủ đoạn lôi kéo bạn bè, tín đồ để thuộc về mình. Điều này chưa kể, lại còn bảo chúng xuất giachúng tại gia phải cung kính ta, cúng dường ta, đối với ta phải tin tưởng tuyệt đối. Đức Phật bảo những Bồ-tát ngu si này vì tài lợithuyết pháp cho mọi người, nếu khôngtài lợi thì sinh tâm mỏi mệt; ở những nơi không có lợi dưỡng hay cúng dường ít thì họ không vừa lòng xứng ý, vì cảm thấy nơi đây chẳng có mùi đạo, lần sau ta không đến nơi này nữa.

Người luôn mong cầu cúng dường, muốn người khác hầu hạ, muốn mọi người tôn trọng, họ thích làm những việc kỳ lạ. Xưa nay mọi người thường nói: “Hòa thượng không làm việc lạ, cư sĩ không đến lễ bái”. Thực sự, họ chẳng làm lợi ích cho chúng sinh cũng không giúp chúng sinh thoát sinh tử ra khỏi ba cõi, và cũng không thể giúp cho chúng sinh thay đổi hoàn cảnh cuộc sống hiện tại; đây là Bồ-tát ngu si không có trí tuệ, chỉ tạo tội nghiệp, quả báo sẽ đọa trong ba đường ác như Đức Phật đã nói.

4. Thuyết pháp tâm không mong cầu

Đức Phật dạy rõ ràng trong kinh, hễ người nào có tâm mong cầu, cho dù thuyết pháp cho chúng sinh nhưng pháp đó cũng không thanh tịnh, pháp này thật sự được giảng không đúng pháp, đã nói “không đúng pháp” tức là sai với kinh điển, là họ giảng sai, không đúng ý của Phật, “nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai”, còn họ thì “hiểu sai nghĩa chân thật của Như Lai”. Tội nghiệp này rất nặng.

5. Thuyết pháp không có tâm tham ô

Tuyệt đối Đức Phật không nói người có tâm tham ô mà giáo hóa chúng sinh được thành tựu, tự mình không độ mình được, làm sao độ người khác? Đức Phật nói tham là chỉ cho tham, sân, si. Ô là chỉ cho ô nhiễm. Hôm nay, tâm lý của chúng ta bị ô nhiễm, tinh thần bị ô nhiễm, tư tưởngkiến giải bị ô nhiễm. Bản thân bị ô nhiễm nghiêm trọng như thế, làm sao giúp đỡ người khác?

6. Không lấy sự tôn trọng, cúng dường, cầu thân an lạc làm sự lợi ích

Đức Phật không nói sự tôn trọng, cúng dường, ham muốn hưởng thụ năm dục, sáu trần; chẳng những trong kinh Tiểu thừa không có mà trong kinh Đại thừa cũng không. Huống gì, chúng ta dùng nhiều thủ đoạndối trá để đạt được lợi dưỡng; điều này dứt khoát Đức Phật không cho phép. Tuyệt đối chúng ta không nên làm những việc này. Chẳng những không làm mà trong ý nghĩ cũng không khởi tham lam bất chánh. Vì sao? Vì chúng taý nghĩ tham thì chắc chắn không được vãng sanh; cho dù, một ngày chúng ta đọc một trăm bộ kinh, niệm một trăm vạn lần danh hiệu Phật, cũng là vô ích. Người xưa dạy: “Niệm khan cổ họng cũng uổng công”. Chúng ta cho rằng mình được vãng sanh chăng?

7. Lấy việc tụng kinh niệm Phật để hàng phục vọng niệm

Tụng kinh, niệm Phậtphương pháp, mục đích làm cho tâm thanh tịnh. Chúng ta thực hành phương pháp này để trừ bỏ tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, làm cho tâm niệm trong sạch, tâm tịnh thì cõi tịnh; như thế mới được vãng sanh. Chúng ta không nên sinh khởi ý nghĩ sai lầm, cho rằng niệm danh hiệu Phật nhiều mới được vãng sanh, nếu vừa niệm Phật, vừa khởi tâm tham, sân, si, vừa tính toán như thế nào với người khác. Như thế có vãng sanh được không?

Thế nên chúng ta phải biết dùng phương pháp này để trừ bỏ niệm phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; giữ tâm thanh tịnh, tâm từ bi thì mới được vãng sanh. Vì thế, khi chúng ta khởi tâm động niệm, nói năng, hành động phải đối chiếu có đúng như trong kinh dạy không? Vì sao Phật, Bồ-tát dạy chúng ta thực hành khóa tụng sớm, tối? Ý nghĩa này tôi đã nói với các vị rất nhiều lần, khóa tụng sớm tối là trị bệnh. Thời xưa khóa tụng sáng tối là cá nhân mỗi người tự tu. Khi Phật còn tại thế cho đến khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc, đại chúng cùng ở chung một chỗ cùng tu học, nghe kinh, nghiên cứu thảo luận; giống như lên lớp học. Tu hành là tu cá nhân của mỗi người, không cùng nhau cộng tu, chỉ có đến nghe kinh, nghiên cứu thảo luận mới ở chung một chỗ.

Người khởi xướng cộng tu là vị Tổ đầu tiên của tông Tịnh Độ tức là đại sư Huệ Viễn. Đại sư ở núi Lô Sơn kiến lập Niệm Phật Đường, tìm các vị đồng đạo cùng chung chí hướng gồm một trăm hai mươi ba vị cộng tu. Nhưng các tông phái khác thì tôi chưa nghe nói qua. Mỗi giáo phái đều có đề xướng phổ biến cộng tu là từ giữa đời Đường trở về sau. Hai vị đại sư Bách Trượng và Mã Tổ đề xướng xây dựng tòng lâm. Xây dựng tòng lâm, chẳng những là để cộng học mà còn phải cộng tu; cho nên, chế độ tòng lâm là điểm đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc. Mọi người sống chung một chỗ cùng nhau tu hành thì có lợi ích gì? Đó là dựa vào đại chúng, tự mình có lúc lười biếng, nhờ ở chung với mọi người, sách tấn bạn tinh tiến tu hành. Mọi người cùng nhắc nhở nhau, cùng khuyến khích lẫn nhau thì không có ai dám lười biếng là ý nghĩa này.

Thế nên, chế độ tòng lâm đối với chúng sinh thời mạt pháp có cái lợi, ở một người rất lười biếng, dễ thoái lui; nhưng mọi người cùng sống chung là tu hành thật sự. Do đó, mới có khóa tụng sáng tối, nội dung khóa tụng là thấy bệnh gì có hại cho chúng tacần dùng thuốc gì để chữa trị. Thời khóa tụng lúc xưa, hiện nay không thích hợp, cũng chính là nói nó có thể trị bệnh người thời đó, nhưng bệnh người ngày nay trị không được. Vậy phải làm thế nào? Phải kiểm tra mình mắc bệnh gì, cần dùng thuốc gì để đối trị.

Ngày nay, chúng ta tu Tịnh độ y theo kinh A-di-đà rất tốt, rất ngắn và rất thâm diệu. Có lẽ bạn sẽ nói kinh A-di-đà rất dễ hiểu, không có gì sâu sắc thì bạn hãy đọc chú giải của đại sư Ngẫu Ích, hay xem chú giải của đại sư Liên Trì, bạn sẽ giật mình kinh ngạc, bạn mới hiểu sâu được kinh này ngang với sự sâu sắc của kinh Vô Lượng Thọ; cho nên hôm nay tôi chọn khóa tụng kinh Vô Lượng Thọ, học thuộc lòng kinh để chúng ta thường nhớ đến trong kinh Đức Phật dạy chúng ta làm thế nào, chúng ta có làm được không?

Khoá tụng buổi tối là để phản tỉnh, hôm nay chúng ta làm được việc tốt thì tự khuyến khích mình, ngày mai phải làm tốt hơn; nếu chưa làm được việc tốt thì phải nghĩ cách làm cho được, tu hành đúng theo lời Phật dạy; đó là khóa tụng sáng tối. Khóa tụng sáng tối mới có công đức thật sự, không phải sáng sớm chúng ta tụng một biến cho Phật, Bồ-tát nghe; tối đến lại tụng một biến cho các ngài nghe mà hành vi trong sinh hoạt hàng ngày chẳng mảy may liên quan đến kinh dạy, tội nghiệp ấy rất nặng, đều đọa vào địa ngục A-tỳ. Khi chúng ta gặp vua Diêm La còn hỏi:

- Mỗi ngày thảo dân đều tụng đủ thời khóa sáng tối, vì sao bệ hạ còn bắt thảo dân xuống địa ngục A-tỳ?

Vua Diêm La nói:

- Buổi sáng nhà ngươi dối Phật, Bồ-tát một lần; tối đến lại dối gạt lần nữa, lừa dối cả một đời; ngươi không đọa địa ngục thì ai đọa?

Chúng ta phải biết, nếu không hiểu ý nghĩa khóa tụng sáng tối thì đó là nghiệp nhân của địa ngục A-tỳ. Chúng ta lừa dối Phật, Bồ-tát, các ngài không còn ở đời, chỉ là hình tượng xi măng, gỗ chạm mà chúng ta nhẫn tâm dối các ngài, tâm của chúng ta thật quá tàn nhẫn.

Thời gian trôi qua rất nhanh, tôi giảng hôm nay là ngày cuối cùng; lần sau sẽ tổ chức pháp hội Phật thất ở đây. Tôi hoan nghinh các vị đồng tu đến tham gia. Ba ngày này chúng ta sẽ cùng nhau thảo luận những vấn đề có quan hệ rất mật thiết đến việc tu họcsinh hoạt của chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25593)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37846)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19544)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18634)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14219)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20072)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9485)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14340)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35529)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10635)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19662)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23170)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13342)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10734)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20180)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10586)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9937)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14848)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17634)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17575)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13159)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31118)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25706)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13960)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17485)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10947)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12265)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10451)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12244)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11738)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9600)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12323)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9167)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8468)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9936)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9745)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12005)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14391)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9887)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11194)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8285)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10951)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14062)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9886)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15184)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13020)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23053)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23942)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12542)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15411)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17750)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15036)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16527)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16031)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17589)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11571)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11597)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17790)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10750)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10506)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11293)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12061)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11021)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36369)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8941)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9651)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34670)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17235)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10220)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10450)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12181)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13601)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14634)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9134)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24773)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11618)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10300)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15914)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15547)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14489)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14552)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18322)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9555)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18498)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18558)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18992)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18801)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11804)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13308)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47956)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11041)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13531)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13015)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11048)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12534)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11038)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31737)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11647)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant