Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 10: Ba điều quan trọng cần phải làm

13 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 10167)
Chương 10: Ba điều quan trọng cần phải làm

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương 10
Ba điều quan trọng cần phải làm


Làm đệ tử Phật có ba điều quan trọng trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cần phải làm, mỗi ngày đều không thể thiếu.

1. Đọc tụng

Đọc kinh là cầm bản kinh gọi là đọc. Khi bạn học thuộc lòng không cần cầm bổn gọi là tụng.

Mục đích đọc tụng để làm gì? Là không quên lời Đức Phật dạy, luôn luôn nhớ đến lời Phật dạy dành cho mình, cũng chính là nói điều nào nên làm, điều nào không nên làm.

2. Tu hành

Tu hànhchúng ta khi khởi tâm động niệm, nếu ý nghĩ này Đức Phật không cho phép thì vừa khởi lên, chúng ta hãy mau ngăn chặn nó. Tu là sửa đổi. Hành là hành vi. Tư tưởng, kiến giải, lời nói, hành vi của chúng talỗi lầm. Từ lỗi lầm này, chúng ta lấy lời Phật dạy làm tiêu chuẩn để sửa đổi lỗi lầm thì gọi là tu hành. Cho nên tu hànhthường xuyên tỉnh giác khi khởi tâm động niệm, lời nói, hành động phải biết những lỗi lầm của mình.

Đạo Phật thường nói “khai ngộ”. Có rất nhiều người cho khai ngộ là điều rất sâu xa, kỳ diệu, không thể nghĩ bàn; kỳ thật đều là lừa dối người. Thế nào gọi là khai ngộ? Chúng ta tự biết lỗi lầm của mình, biết khuyết điểm của mình, là chúng ta giác ngộ; đó là khai ngộ. Nếu chúng ta không biết khuyết điểm của mình là bị mê hoặc, điên đảo. Khi tự mình biết sửa đổi khuyết điểm, lầm lỗi, gọi là “chân tu”. Đây mới là tu hành.

Cung kính người thiện, ưa thích việc tốt thì trở thành người tốt; đây gọi là người có đức. Tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, đại từ đại bi, gọi là “đắc đạo”, đều ở trong cuộc sống thường ngày, có gì mà huyền diệu? Có gì mà kỳ lạ? Cho nên chúng ta phải cẩn thận phản tỉnh, kiểm điểm, sửa đổi hành vi, mỗi ngày phải làm, luôn luôn nên làm.

3/ Diễn thuyết cho người

Diễn là biểu diễn, cũng là lúc chúng ta thường giảng dạy và học tập. Phật, Bồ-tát là tấm gương sáng, mẫu mực tốt nhất cho chúng sinh trong chín pháp pháp giới[4]. Các ngài làm tấm gương, làm mẫu mực cho chúng ta. Các ngài biểu diễn cho chúng ta thấy. Biểu diễn điều gì? Không phải bảo bạn biểu diễn trên sâu khấu mà ngay trong cuộc sống chính là biểu diễn, làm việc là biểu diễn, đối nhân xử thế, giao tiếp cũng là biểu diễn; lời nói, hành động cũng đều là biểu diễn để làm tấm gương tốt cho người khác họ nhìn thấy sinh tâm kính ngưỡng, học tập; đây là diễn.

Thuyết là giảng kinh, thuyết pháp. Phạm vi giảng kinh, thuyết pháp rất rộng. Trong kinh thường dạy không nhất định bảo bạn phải đọc hết tất cả kinh, một câu hay nửa bài kệ trong kinh cũng được. Nửa bài kệ là hai câu, bất cứ lúc nào hễ gặp mọi người thì chúng ta khuyên họ. Người thiện căn thành thục thì khuyên họ niệm Phật; người thiện căn chưa thành thục thì khuyên họ đoạn ác tu thiện, tự cầu nhiều phước.

Ví dụ khi bạn bè gặp mặt nhau, chúng ta hỏi họ có muốn phát tài không? Tôi biết cách phát tài, bạn muốn nghe không? Điều này họ rất thích, trúng ý của họ làm cho tinh thần họ phấn khởi, lập tức hỏi ngay: “Làm thế nào được phát tài?”. Là tu bố thí tài thì được giàu sang. Phạm vi bố thí tài rất rộng, không phải bảo chúng ta đem tiền của đến các chùa dâng cúng, như thế là sai rồi mà chúng ta đem tài vật của mình đóng góp vào việc thiện, có thể làm lợi ích xã hội, lợi ích mọi người. Đó chính là bố thí thật sự.

Ba điều này, Đức Phật thường giảng trong tất cả các kinh “thọ trì, đọc tụng và giảng nói cho người”. Chúng ta phải hiểu được ý của Đức Phật, phải hiểu thế nào để thực hành, mới có thể thật sự thụ hưởng được sự lợi ích của Phật pháp. Còn có một việc quan trọng nữa là “chúng vụ” mà trong kinh Đức Phật thường dạy, chúng ta hiểu sai điều này rất trầm trọng.

Chúng vụ là gì? Người ưa thích làm việc, thích sự nghiệp kinh doanh gầy dựng, tạo nhiều sự nghiệp. Phật dạy đây là việc sai lầm mà trong kinh thường nói đến. Đức Phật nêu ra một ví dụ: Nếu có Bồ-tát (Bồ-tát này ngu si không có trí tuệ) kinh doanh sự nghiệp rất nhiều. Tôi nêu ra ví dụ, giống như xây tháp báu, ý nghĩa này cùng xây đạo tràng gần giống nhau. Người xưa thường nói xây tháp cúng Phật, phước báo vô cùng. Đức Phật bảo: “Người này tu phước, cho dù xây tháp bảy báu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, Ta gặp Bồ-tát này vẫn không sinh tâm hoan hỉ, họ cũng chưa thật sự cúng dường Ta, cũng không cung kính Ta”.

Chúng ta đọc đoạn kinh văn này, chợt nhớ đến thời đại vua Lương Võ Đế. Khi tổ Bồ-đề-đạt-ma đến Trung Quốc- ngài chính là Sơ tổ của Thiền tông Trung Quốc. Lương Võ Đế là Bồ-tát tại gia đã thọ giới Bồ-tát. Vua thích làm việc xây chùa tiếp độ chúng tăng, ông đi đến đâu cũng xây chùa, tổng cộng có bốn trăm tám mươi ngôi chùa, đều là những ngôi chùa rất nổi tiếng. Nam Triều có bốn trăm tám mươi ngôi chùa. Vua cũng thích khuyên mọi người xuất gia. Nhà vua độ người xuất gia tổng cộng vài chục vạn người. Ông ta nhờ làm vua và giàu có nên đủ điều kiện xây chùa và cúng dường người xuất gia.

Khi tổ Đạt-ma gặp mặt vua. Vua Lương Võ Đế cảm thấy mình đáng kiêu ngạo, đáng được khoe khoang, liền khoe với Tổ sư làm rất nhiều việc như thế và hỏi:

- Công đức của trẫm có nhiều không?

Tổ Đạt-ma là người trung thực, đúng như trong kinh dạy: “Tâm thanh tịnh thuyết pháp cho chúng sinh”. Tổ trả lời một câu rất đúng sự thực:

- Không có công đức gì cả!

Vua Lương Võ Đế nghe Tổ nói rất buồn như gáo nước lạnh tạt vào mặt. Thế là hết, vua không hộ pháp cho Tổ nữa. Tổ đành đến chùa Thiếu Lâm ngồi thiền xây mặt vào vách suốt chín năm đợi ngài Huệ Khả đến truyền pháp.

Nếu như lúc đó, tổ Đạt-ma thuận theo nhân tình mà nói: “Công đức của bệ hạ rất lớn” thì Lương Võ Đế sẽ không trở thành vị hộ pháp đắc lực cho Tổ sư hay sao? Nhưng một người tu đạo chân chánh, hoàn toàn không vì danh lợi mà nói pháp thành phi pháp. Tổ nói đúng chánh pháp, nên Lương Võ Đế xây bốn trăm tám mươi ngôi chùa đều không có công đức. Trong kinh Đức Phật dạy: “Dù xây tháp bảy báu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, cũng không có công đức”.

Đạo lý ở đâu? Là tôi vừa giảng “không có lợi ích chân thật”. Việc làm này không có lợi ích thật sự, không đúng pháp, không thể thoát khỏi sinh tử cũng không thể chứng Niết-bàn. Những việc này nói cho dễ nghe là nói có chút phước báo, nhưng phước báo hữu lậu trong sáu đường chúng sinh chẳng có liên quan đến công đức. Vì thế, Đức Phật dạy những pháp cho Bồ-tát thì nhất định phải tương ứng với Ba-la-mật. Như trước đã nói công đức xây tháp bảy báu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới không bằng “thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người”, cho đến thọ trì bốn câu kệ mà trong kinh Kim cang thường nói. Kinh Kim cang dùng thí dụ để so sánh như thế rất nhiều.

Kinh Vô Lượng Thọ nói rất hay: “Nếu như người cúng dường cho thánh nhân nhiều như số cát sông Hằng cũng không bằng phát tâm dũng mãnh cầu Chánh Giác”. Thánh nhân Tiểu thừa là A-la-hán, thánh nhân Đại thừa là bồ-tát Địa thượng, bồ-tát Đẳng giác, chư Phật Như Lai. Chúng ta cúng dường những vị này nhiều như số cát sông Hằng, nhưng Đức Phật bảo không bằng niệm Phật cầu sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Vì sao? Vì niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạclợi ích chân thật, lợi ích mãi mãi. Khi sinh về thế giới Cực Lạc chứng tam bất thoái[5] viên mãn thì trong một đời sẽ thành Phật.

Cho dù bạn chưa thành Phật, nhưng khi sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc làm Bồ-tát thì bạn là bồ-tát A-duy-việt-trí[6]. Bạn có trí tuệ, có thần thông, có năng lực độ chúng sinh có duyên với bạn ở khắp hư không pháp giới, bạn có khả năng giúp đỡ họ. Nếu bạn hầu hạ thánh chúng nhiều như số cát sông Hằng thì chỉ tu một chút phước thôi. Trí tuệ, đức năng của bạn không thể hiện ra; chẳng những bạn không thể độ chúng sinh mà độ mình cũng không xong. Câu này đại sư Lục Tổ nói rất hay: “Việc lớn sinh tử, phước không thể cứu”. Cho dù phước báo lớn cũng không thể giúp bạn thoát khỏi sinh tử, vẫn ở trong luân hồi.

Chúng ta muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi phải tu nhiều công đức mới được. Công đức thù thắng đứng đầu vẫn không gì bằng niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ. Vì sao chúng ta không phát được tâm nguyện thù thắng? Vì tập khí phiền não còn rất nặng vẫn chưa đoạn được, tâm không thanh tịnh. Đây chính là tập khí nghiệp chướng của chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay quá nặng, nó gây chướng ngại cho chúng ta.

Chúng ta muốn tâm thanh tịnh, muốn tương ứng với Phật, nhưng làm thì không được. Làm không được, vì sao lại gặp được pháp môn này? Tại sao lại gặp bộ kinh này? Nói cách khác, chúng ta gặp được pháp môn này, gặp được bộ kinh này là nhờ thiện căn, phước đứcnhân duyên của chúng ta đã thành thục. Sau khi gặp rồi muốn làm mà không làm được là do nghiệp chướng của mình rất nặng. Tuy đầy đủ nhân duyên, nhưng vẫn có chút chướng ngại, chỉ cần trừ bỏ chướng ngại này thì chúng ta sẽ thành công.

Chúng ta dùng phương pháp nào để trừ bỏ chướng ngại? Đọc tụng. Nếu có vài bạn đồng tu cùng chí hướng, thường nghiên cứu thảo luận, đừng ngại xấu hổ khi tự mình nói ra lỗi lầm, phát lộ sám hối. Vài ba người bạn tốt, hai bên thật sự kiểm điểm những khuyết điểm lẫn nhau. Mọi người cùng thảo luận bàn bạc để khắc phục tập khí phiền não.

Thiện căn, phước đức, nhân duyên của chúng ta trong đời này thành thục, gặp một chút chướng ngại thì trừ nó đi là thành công, then chốt ở chỗ này. Vì thế, chúng ta phải nhớ kỹ ba câu Phật dạy: “Thọ trì, đọc tụng và giảng nói cho người”, công đức này không biết lớn hơn bao nhiêu lần việc vua Lương Võ Đế suốt đời xây bốn trăm tám mươi ngôi chùa. Trong kinh Đức Phật dạy: “Nếu có người nào xây tháp bảy báu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới thì họ cũng không bằng người thọ trì, đọc tụng và giảng nói cho người”.

Lời Đức Phật dạy, câu nào cũng là sự thật, trong các vị và bản thân tôi cũng như thế, vì ai cũng còn tập khí rất nặng, muốn sửa đổi lại rất khó sửa được. Cái lợi của tôi là hằng ngày giảng kinh cho mọi người nên tôi có cơ hội để phản tỉnh mình. Nếu như không giảng nói cho người, bạn ít có cơ hội xét lại mình và khuyên người khác, đương nhiên cũng là khuyên mình; đây là đạo lý nhất định. Vì thế, tôi mong muốn mọi người tuân theo phương hướng này, mục tiêu này, chăm chỉ nỗ lực tu hành. Chúng ta cùng nhau tập hợp trong ba ngày rất có ý nghĩa, cùng giúp đỡ nhau tiêu trừ chướng duyên hiện tại rất nhiều, và biết tu học thế nào mới là công đức thật sự, mới là lời chân thật của Đức Phật dạy cho chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21693)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
(Xem: 20390)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22278)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18736)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 26972)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18680)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19906)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38038)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20105)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28276)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46279)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15402)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65606)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13709)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18596)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15522)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14554)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18697)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12606)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17632)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25437)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38676)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17674)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11217)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18575)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17387)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13187)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13297)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17512)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24277)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12352)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13788)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12971)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12875)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14145)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14606)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21075)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22583)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29957)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13851)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18218)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17035)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12607)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30708)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22777)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14609)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 12980)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12727)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12494)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13045)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16298)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15175)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23819)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16159)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28960)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20267)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15544)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37205)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45003)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36856)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant