Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Mười bài chứng đạo ca vĩ đại nhất của Milarepa và Bài ca sáu điểm tinh yếu

26 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 17890)
Mười bài chứng đạo ca vĩ đại nhất của Milarepa và Bài ca sáu điểm tinh yếu

MƯỜI BÀI CHỨNG ĐẠO CA VĨ ĐẠI NHẤT
CỦA MILAREPA

BÀI CA SÁU ĐIỂM TINH YẾU
(Lời Di Huấn Cuối Cùng Của Milarepa Hát Cho Rechungpa)
Tâm Bảo Đàn chuyển Việt ngữ


milarepa-chungdaoca-01

Theo tôn ý của Garchen Rinpoche, mười bài chứng đạo ca của Milarepa và lời di huấn cuối cùng của Milarepa hát cho Rechungpa đã được Tâm Bảo Đàn chuyển qua Việt ngữ tại tu viện Rinchen Ling, Nepal và tại núi thiêng Lapchi vào hai tháng 7 và 8, 2012, dựa trên văn bản Tạng-Anh do Garchen Rinpoche trao cho có tên là “Ten of Milarepa’s Greatest Hits” do Jim Scott dịch qua Anh ngữ (Marpa Translation Committee, Kathmandu, Nepal, 1993) và trên tập sách tiểu sử “The Life of Milarepa” do Lobsang Lhalungpa dịch qua Anh ngữ. Cám ơn M. Trang rất nhiều đã vào máy vi tính các bài dịch tiếng Việt trong thời gian ở tại Rinchen Ling và Lapchi. TBĐ hiệu đính tháng 10, 2012 tại Hoa Kỳ. Bản Việt ngữ chỉ là một sự gắng sức phỏng dịch -- nguyện xin đức Milarepa và chư Thầy, Tổ từ bi tha thứ cho mọi sai sót. Nguyện qua những lời đạo ca này, tâm thức của người đọc sẽ được khai mở để kết nối được với suối nguồn tâm giác ngộ của đại thánhdu già Milarepa.(www.vietnalanda.org)


Bài 1: SÁU CÂU HỎI


Tâm đầy rẫy sự phóng chiếu,

nhiều hơn cả bụi vi trần dưới ánh mặt trời.

Có ai là một yogi hay yogini (*) chứng đắc,

nhìn thấy được hiện tướng của vạn vật, trần trụi như chúng là,

ở ngay nơi chúng đang hiện diện?

 

Chân tánh nguyên sơ của vạn pháp

không dựa vào sự kết tạo của nhân và duyên.

Có ai là một yogi hay yogini chứng đắc,

thấu triệt được cốt tủy của điều này,

bứng sâu vào đến tận gốc rễ hay không?

 

Hàng trăm người với gươm và giáo

cũng chẳng thể nào chặn đứng

sự thôi thúc bất chợt của vọng niệm trong tâm.

Có ai là một yogi hay yogini chứng đắc,

thấy ra được rằng,

tham luyến có thể tan biến và tự giải thoát

cho chính nó hay không?

 

Sự vận hành của tâm tạo tác,

chẳng thể nào khóa lại trong một chiếc hộp sắt.

Có ai là một yogi hay yogini chứng đắc,

thấy ra được rằng,

tự chính vọng tâm ấy

cũng mang tánh Không?

 

Ngay cả các vị hộ phật trí tuệ

cũng không lánh xa các lạc thọ.

Có ai là một yogi hay yogini chứng đắc,

có thể nhìn xuyên qua được

cái trong suốt của sự vận hành của thức hay không?

 

Còn các hiện tướng của sáu loại đối tượng

khi đối diện với sáu thức thì sao?

Ngay cả đôi tay của các Đấng Chiến Thắng

cũng chẳng thể nào ngăn chặn được.

Có ai là một yogi hay yogini chứng đắc,

có thể ngộ ra được rằng,

 chẳng có đối tượng nào

 đằng sau các hiện tướng ấy hay không?

 

(*) Yogi: hành giả du già; yogini: nữ hành giả du già.

 

milarepa-chungdaoca-02

Đỉnh Se Phug ti núi Lapchi nơi Milarepa đã bay cao và để li du chân trên đá - Photo: TBĐ (2012)

______________________________

 

Bài 2:

BÀI CA BA CÂY ĐINH HÁT TẠI ĐỘNG MÃNH HỔ - THÀNH QUÁCH SƯ TỬYOLMO

 

Lạt ma yêu kính, xin hãy gia hộ để con có thể tự nhiên an trú trong tri kiến, thiền định đạo hạnh như Ngài đã từng...

 

Những cây đinh cần đóng xuống, liên hệ đến tri kiến, gồm có ba.

Những cây đinh cần đóng xuống, liên hệ đến thiền định, gồm có ba.

Những cây đinh cần đóng xuống, liên hệ đến đạo hạnh, gồm có ba.

Những cây đinh cần đóng xuống, liên hệ đến đạo quả, gồm có ba.

 

Ba cây đinh liên quan đến tri kiến được mô tả như sau:

Các hiện tướng trong đời đều là sản phẩm của tâm.

Trong hư không rỗng rang của sự tỏa sáng, bản tâm là đấy.

Nơi ấy không có bất kỳ một phân chia đối đãi nào.

 

Ba cây đinh liên quan đến thiền định được mô tả như sau:

Tất cả các suy tưởng đều là pháp thân,

thảy đều tự do không trói buộc.

Tánh giác [vốn] chiếu sáng,

trong sâu thẳm là đại lạc.

Và khi an trú không tạo tác, 

đấy là đại định.

 

Ba cây đinh liên quan đến đạo hạnh, gồm có ba, được mô tả như sau:

Thập thiện chính là sự biểu lộ tự nhiên của giới hạnh.

Thập ác, tự bản thể vốn thuần tịnh.

tánh Không chói sáng,

chẳng thể nào được tạo lập bởi các toan tính.

Để mô tả về những cây đinh liên quan đến đạo quả, gồm có ba:

Niết bàn không phải là điều gì

có thể du nhập vào từ đâu cả.

Luân hồi không phải là điều gì

có thể đẩy xô ra từ đâu cả.

Ta đã khám phá ra một cách chắc thực,

rằng tâm chính là Phật,

tâm này của ta.

 

Bây giờ, trong tất cả những cây đinh ấy,

có một cây đinh có thể đưa ta quay về bản thể.

Đây là cây đinh của tánh Không hiện hữu hoàn toàn thanh tịnh.

Một vị chân sư sẽ biết làm thế nào

sử dụng cây đinh ấy để quay về.

Nếu cứ phân tích, quán xét quá nhiều

thì con sẽ chẳng thể nào

hiểu được đâu!

 

Một sự chứng ngộ đồng-khởi-hiện (*)

sẽ đưa ta quay trở về với bản thể

Những dụng cụ giúp giảng dạy chút giáo lý này,

hiện ra trong tâm của hành giả yogi,

là người đã biến chúng thành bài đạo ca,

để mang ra chia sẻ.

Mong rằng những điều này sẽ làm trái tim của các con hoan hỉ,

các đệ tử nam và nữ của ta.

 

(*) co-emergent realization: chứng ngộ được sự khởi hiện cùng một lúc của tánh chiếu soi và tánh không (luminousity-emptiness)


_________________________

 

Bài 3:

BÀI CA ĐẠI ẤN ĐỂ TRẢ LỜI CHO SỰ THÁCH THỨC CỦA BA HỌC GIẢ

 

Khi thiền định về Đại Ấn Mahamudra,

Ta an trú, không cần phấn đấu dụng công,

trong sự hiện hữu đích thực như ta là.

Ta an trú, nhàn nhã trong pháp giới hư không,

thoát mọi loanh quanh lẩn quẩn.

Ta an trú, trong sự sáng tỏ của pháp giới hư không,

ôm ấp bởi tánh Không không lằn mé.

Ta an trú, trong pháp giới hư không của giác tánhhỷ lạc.

Ta an trú, trong pháp giới hư không,

không hề dao động bởi các khái niệm tạo tác.

Trong vô vàn pháp giới hư không, ta an trú trong đại định.

an trú như thế, chính đấy là bản tâm.

Kho báu của sự thâm tín kiên định hóa hiện bất tận, không ngưng nghỉ.

Ngay cả không cần dụng công, tâm vận hành tự chiếu sáng.

 

Không vướng kẹt vào các kết quả mong đợi, ta đang [thực hành] tốt.

Không đối đãi nhị nguyên, không hy vọng và không sợ hãi, hô hê!

Mê lầmtrí tuệ, đấy mới thực là vui sướng và chiếu soi.

Mê lầm chuyển hóa thành trí tuệ, đấy là tốt lành!


milarepa-chungdaoca-03

Thin tht ca Garchen Rinpoche nối vào Động Hàng Ma.

Photo: TBĐ (2012)


____________________________

 

Bài 4:

RANH GIỚI GIỮA HẠNH PHÚCĐAU KHỔ

 

Kẻ nào an trú trong sự tự nhận diện (*)

Và qua đó, chạm mặt được với thực tại nguyên sơ.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

Một hành giả giáo pháp đuổi bắt theo mê vọng,

Vướng mắc trong việc tạo dựng con rối khổ đau.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào. 

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.

 

Kẻ nào an trú trong cảnh giới chân thực, không giả tạo,

âm thanh tịnh, không lay chuyển, cho dù việc gì có xảy ra.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.


Một hành giả giáo pháp luôn vướng kẹt và phản ứng trước các hiện tượng,

Những điều ưa thích và không ưa thích do họ tự chất chồng.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào.

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.


Kẻ nào chứng ngộ được hiện tướng chính là pháp thân,

Đoạn trừ mọi hy vọng, sợ hãi và tâm nghi ngại.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

Một hành giả giáo pháp thiếu chánh niệmgiả trá,

Lại chẳng thể nào vượt qua tám pháp thế gian.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào.

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.

 

Kẻ nào thấu biết tất cả đều do tâm tạo,

Sẽ vận dụng mọi hóa hiện như vận dụng tài nguyên.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

Một hành giả giáo pháp trôi lăn trong các thú vui thế tục,

Sẽ ân hận xiết bao khi chạm mặt với tử thần.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào.

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.

 

Kẻ nào sở đắc được ít nhiều chứng ngộ,

Có thể an trú trong sự hiện hữu như nhiên của chân tâm.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

Một hành giả giáo pháp bị kềm kẹp trong tham dục,

Hưởng thụ trong vị kỷtìm kiếm sự quan tâm.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào.

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.

 

Kẻ nào với suối nguồn chứng nghiệm nội tâm không gián đoạn,

Giải phóng được sự“định danh” ngay khi vừa gán đặt.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

Một hành giả giáo pháp vướng kẹt trong ngôn từ ước lệ,

Chẳng thể nào liễu ngộ rốt ráo khi ứng dụng cho tâm.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào.

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.

 

Kẻ nào đã buông bỏ, không tham dự vào những đam mê thế tục,

Tự giải thoát mình khỏi những mục đích nhỏ hẹp và lợi lạc cho bản thân,

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

Một hành giả giáo pháp luôn phấn đấu cho cơm ăn áo mặc,

Với mục đích duy nhất là chăm lo cho bằng hữu và gia đình.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào.

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.

 

Kẻ nào xa lìa được tham ái ngay tự trong tâm,

Và trực ngộ được rằng tất cả đều là hư ảo.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

Một hành giả giáo pháp đi trên con đường xao lãng,

Luôn bán rẻ thân, khẩu của mình để trở thành nô lệ.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào.

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.

 

Kẻ nào cưỡi trên con tuấn mã của sự tinh tấn,

Dong duỗi trên các nẻo đường giải thoát xuyên qua các mức độ chứng tu.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

Một hành giả giáo pháp bị gông cùm trong sự lười biếng,

Sẽ chìm sâu như cái neo ngay giữa biển mặn luân hồi.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào.

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.

 

Kẻ nào luôn lắng nghe, suy tư và cắt đứt mọi ngăn ngại,

Lại thường xuyên quán chiếu cảnh giới bao la của tâm.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

Một hành giả giáo pháp cho rằng mình đang hành trì giáo pháp,

Nhưng mọi hành vi đều thực sự giống kẻ lầm đường.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào.

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.

 

Kẻ nào cắt đứt được mọi hy vọng, hoài nghisợ hãi,

Luôn an trú không gián đoạn trong tâm thái như nhiên.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

Một hành giả giáo pháp bị bao người lôi kéo và sai sử,

Luôn làm vừa lòng người và nịnh hót để được hoan nghênh.

Đấy là một kẻ không có hạnh phúc dù bất kỳ lúc nào.

Đấy là một kẻ luôn luôn đắm chìm trong đau khổ.

 

Kẻ nào để lại sau lưng mọi lo toan thế tục,

Luôn hòa mình trong công phu hành trì Giáo Pháp tối thắng.

Đấy là một yogi và luôn luôn hạnh phúc.

Một người như thế ấy là một yogi và luôn luôn hài lòng.

 

(*) tự nhận diện khuôn mặt thật của chính mình, trực chứng chân tánh hay tâm bản lai vốn sẵn có.

 

 milarepa-chungdaoca-04

Thiền Động Tiên Tri (Lungten Phug). Photo courtesy: Lapchi Association (2011)

____________________________

 

Bài 5:

TÁM LOẠI SỞ ĐẮC

 

Không tách lìa hiện tướngtánh không.

Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.

 

Không nhìn thấy có khác biệt nào giữa ban ngày và mộng (ban đêm).

Đây chính là thiền định, chẳng còn gì hơn là như thế.

 

Không nhìn thấy có sự khác biệt nào giữa hỷ lạctánh không.

Đây chính là giới hạnh, chẳng còn gì sở đắc được hơn.

 

Không nhìn thấy có khác biệt nào giữa bây giờ và mai sau.

Đây chính là chân tánh, chẳng còn gì sở đắc được hơn.

 

Không nhìn thấy có khác biệt nào giữa tâm thứckhông gian.

Đây chính là pháp thân, chẳng còn gì hơn là như thế.

 

Khi niềm vui và nỗi khổ chẳng phải là hai điều khác biệt.

Đây chính là giáo huấn, chẳng còn gì sở đắc được hơn.

 

Không nhìn thấy có khác biệt nào giữa cảm xúc nhiễm ôtrí tuệ.

Đây chính là chứng ngộ, viên mãn tròn đầy, chẳng thể nào hơn là như thế.

 

Không nhìn thấy có khác biệt nào giữa tâm ta và tâm Phật.

Đây chính là đạo quả, viên mãn tròn đầy, chẳng thể nào hơn là như thế.


____________________________________

 
Bài 6:

MAHAMUDRA (Đại Ấn): PHÂN BIỆT GIỮA TƯƠNG ĐỐICHÂN THỰC

 

Trong thế giới này, cõi Diêm Phù Đề của Đấng Chiến Thắng,

Có một vị tôn sư lừng lẫy, là đức Phật Thứ Nhì.

Trên phướn chiến thắng của giáo pháp chưa hề suy thoái,

Ngài khác nào viên bảo châu trên đỉnh tột cao.

Tất cả đều kính ngưỡng ngài, người xứng đáng được cúng dường,

Âm thanh vi diệu từ vạt cờ phất phới, hừng hừng lửa ấm.

Âm thanh ấy van rền khắp các phương trời,

Đấy chẳng phải là vị đại chân sư đã thành tựu, pháp vương Maitripa hay sao?

 

Có một người đệ tử, luôn phụng dưỡng với lòng quy ngưỡng dưới gót chân sen,

Đã nhiều lần uống cạn tinh túy của thuốc linh đan từ bậc minh sư.

Mahamudra, tinh túy ấy, là vương miện, là đỉnh cao của tri kiến,

Đã giúp cho đệ tử chan hòa cùng thực tại tối hậu, thật giản đơn.

Người đệ tử ấy đã xiển dương tất cả các phẩm hạnh một cách vẹn toàn,

Và không hề bị ô nhiễm bởi bất kỳ lỗi lầm nào.

hiện thân của đức Thiện Thệ trong thân người –

Pháp vương Marpa, đấng siêu phàm vĩ đại nhất trong loài người, đã giảng dạy như sau.

 

Cho dù các hiện tượng bên ngoài có xuất hiện thế nào chăng nữa –

Chính sự thiếu nhận thức [về thế giới hiện tượng này]

là những phóng chiếu mê lầm.

Bám chấp vào các đối tượng, đấy chính là cái gì trói buộc ta.

Đối với ai hiểu biết về điều này, các đối tượng chỉ thuần là hiện tượng hư ảo.

Đối với họ, cái gì hiện ra thành các đối tượng đều là tài nguyên của tâm.

Cuối cùng, thực ra chẳng có cái gì là hiện tướng,

Và do tánh bất sinh, Pháp thân rốt ráo tột cùng thuần khiết.

Ngài đã giảng dạy như thế về sự linh thiêng của Pháp thân bất sinh.

 

Sự vận hành bên trong của thức dựa trên lý trí

Chính sự thiếu nhận thức về điều này, đấy mới là vô minh.

Đây là gốc rễ của tất cả các hành nghiệpcảm xúc ô nhiễm.

Nếu nhận thức được như thế thì đấy chính là giác tánhtrí tuệ,

Là nơi các phẩm hạnh thiện lành sẽ nảy sinh trọn vẹn.

Cuối cùng, thực ra chẳng có cái gì là trí tuệ.

Hãy cứ để các hiện tượng tung hoành, cho đến khi không còn gì nữa.

Đây là tất cả những gì chúng có thể làm, và rồi không còn gì nữa.

Ngài đã khai thị những điều như thế.

 

Sắc uẩn (các nguyên tố kết hợp thành sắc tướng) buộc phải hoạt hiện –

Chính sự thiếu nhận thức về điều này đưa đến sự hình thành của tứ đại (bốn nguyên tố tạo nên xác thân).

Bệnh tật và khổ đau, đây chính là những gì đến từ sự thiếu nhận thức.

Nếu có nhận thức thì sẽ thấy rằng [sắc uẩn] là thân hợp nhất của một vị hộ phật,

Giúp thay thế sự giả định tầm thường do hư vọng của ta.

Cuối cùng, thực ra chẳng có cái gì là thân xác.

Chỉ là cái loãng tan như bầu trời không mây.

Ngài đã giảng dạy là như thế.

Chỉ thuần khiết như bầu trời không mây là điều ngài đã giảng dạy.

 

Sự hiện hình của yêu tinh và ma quỷ

Cho đến ngày nào ta chưa nhìn xuyên suốt ra sự ngụy trang của mình,

Thì chúng là ma vương,

Là những kẻ gây chướng ngại, không đem đến gì khác ngoài sự nguyền rủa cho ta.

Nhưng nếu nhìn xuyên suốt được sự ngụy trang của chính mình,

Thì kẻ gây chướng ngại lại là những hộ pháp,

Nơi quy tụ muôn vàn quả vị thành tựu khác nhau.

Cuối cùng, thực ra, chẳng có chư thiên hay yêu quái.

Hãy cứ để các khái niệm tung hoành, cho đến khi không còn gì nữa.

Đây là tất cả những gì chúng có thể làm, và rồi không còn gì nữa.

Ngài đã khai thị những điều như thế.

 

Dựa trên Thừa Viên Mãn, nói một cách tổng quát

Xuyên qua Tối Thượng Du Già của Mật điển,

Khi một nội kết của các nguyên tố giao hội thẳng với đường kinh mạch,

Thì hình tướng của quỷ ma sẽ thấy [như hiện ra] từ bên ngoài.

Ngài đã giảng dạy những điều như thế.

 

Không biết rằng sự tự biểu lộ này, thực ra,

chẳng phải như [hình thức] hóa hiện của chúng.

Nếu nghĩ rằng chúng là chân thực,

thì điều này chẳng đưa ta được đến đâu.


[Khi xưa,] sự rối rắm về những điều này đã làm đầu óc ta xoay mòng.

Không biết gì hơn là như thế, ta xây đắp chiếc tổ của mê lầm.

Cho rằng chư thiên sẽ giúp ta và yêu ma sẽ hãm hại ta,

Ta cho rằng đấy là sự thật.

 

Nhưng nay, nương vào sự dẫn dắt của vị thành tựu giả tôn vinh, đầy lòng từ ái,

Ta thấy ra được rằng sự đoạn diệt luân hồiđạt đến chiến thắng niết bàn

Sẽ chẳng đi đến đâu cả.

Ta đã nắm bắt ra được rằng bất kỳ cái gì hiện ra cũng là Đại Ấn!

 

Nương vào sự chứng ngộ, thấy rằng mọi hư vọng đều không có nền tảng,

Ánh trăng bóng nước của sự tỉnh giác chiếu sáng vằng vặc,

Mặt trời của tánh chiếu soi không một gợn mây,

Đẩy lui bóng đêm vô minh khỏi hố thẳm,

[tất cả] bừng sáng. 

Đầu óc quay mòng trong rối rắm của ta ngừng quay.

Ánh sáng dịu dàng của bản thể soi tỏa từ bên trong.

Nay thật trân quý biết bao khi nghĩ đến việc nhìn thấy một bóng ma.

Điều ấy khai mở tài nguyên bất sinh, sao lại lạ kỳtuyệt vời đến thế!


____________________________________

Bài 7:

CHÂN NGHĨA THÂM DIỆU HÁT TẠI RẶNG TUYẾT SƠN

 

Từ một tâm thức sở đắc chánh kiến,

tánh Không sẽ ló dạng.

Trong cảnh giới ấy,

ngay cả một hạt vi trần cũng không hiện hữu.

Người thấy và cái thấy tan nhỏ dần

cho đến khi chẳng còn gì nữa.

Cách thức chứng ngộ tri kiến như thế,

sẽ vận hành với hiệu quả tốt lành.

 

Khi thiền định chính là

dòng sông ánh sáng trong suốt tuôn chảy,

Chẳng cần thu gọn vào trong

Những thời khóa công phu và những giây phút nghỉ ngơi.

Thiền giả và đối tượng tan nhỏ dần

cho đến khi chẳng còn gì nữa.

Động mạch của một trái tim thiền định như thế,

sẽ vận hành với hiệu quả tốt lành.

 

Khi biết chắc rằng sự vận hành của giới hạnh

chính là ánh sáng rạng ngời bừng chiếu,

Và biết chắc rằng sự tương hợp

(hiện hữu do duyên hợp)

chính là tánh Không,

Người làm và việc làm tan nhỏ dần

cho đến khi chẳng còn gì nữa.

Cách thức tiếp cận giới hạnh như thế,

sẽ vận hành với hiệu quả tốt lành.

 

Khi ý niệm đối đãi thiên lệch

tan biến vào hư không,

Sẽ chẳng còn chiếc mặt nạ nào,

cũng chẳng còn tám pháp thế gian, hy vọng hay sợ hãi,

Người trì giữ và những gì cần trì giữ tan nhỏ dần

cho đến khi chẳng còn gì nữa.

Cách thức trì giữ mật nguyện như thế,

sẽ vận hành với hiệu quả tốt lành.


Cuối cùng, khi khám phá ra được rằng

tâm ta chính là Pháp thân,

Và thực sự làm lợi lạc cho bản thân cùng các chúng sinh khác,

Kẻ chiến thắng và điều chiến thắng tan nhỏ dần

cho đến khi chẳng còn gì nữa.

Cách thức đạt được những kết quả như thế,

sẽ vận hành với hiệu quả tốt lành.

 

 milarepa-chungdaoca-05

Du chân của Milarepa trên đỉnh Se Phug ti Lapchi. Photo: Peace Kwek (2012)

_________________________________

 Bài 8:

TÁM BẢO TRANG CỦA Ý NGHĨA THÂM DIỆU HÁT TẠI ĐỘNG TRỜI CAO RAMDING (*)

 

Phá vỡ các phóng chiếu tạo tác từ bên trong,

Đấy chẳng phải là chánh kiến, không hoen ố bởi bất kỳ cực đoan nào hay sao?

Trang sức bằng kinh điển, điểm trang bằng luận lý,

Và điều ấy sẽ trở thành như một trợ duyên, một bảo trang vi diệu.

 

Khi các tư tưởng tan biến vào pháp thân,

Đấy chẳng phải là thiền định tự sinh khởi hay sao?

Trang sức bằng cảnh giới của các chứng nghiệm,

Và điều ấy sẽ trở thành như một trợ duyên, một bảo trang vi diệu.

 

Khi sáu giác quan đều tịnh hóa ở ngay nơi chúng vận hành,

Đấy chẳng phải là giới hạnh, song hành cùng hương vị đồng đẳng hay sao?

rang sức bằng cảm nhận, rằng thời điểm chín muồi là đấy,

Và điều ấy sẽ trở thành như một trợ duyên, một bảo trang vi diệu.

 

Khi kinh nghiệm tánh Không - đại lạc bừng dậy,

Đấy chẳng phải là cốt tủy giáo huấn của dòng khẩu truyền hay sao?

Trang sức bằng bốn pháp gia lực,

Và điều ấy sẽ trở thành như một trợ duyên, một bảo trang vi diệu.

 

Khi linh kiến sống động của tánh Không hé mở,

Đấy chẳng phải là tiến trình của con đường và các mức độ tu chứng hay sao?

Trang sức bằng các dấu hiệu khi đi xuyên con đường tu ấy,

Và điều ấy sẽ trở thành như một trợ duyên, một bảo trang vi diệu.

 

Khi tâm ta vào được đến nơi có câu giải đáp cho bài hát đố,

Đấy chẳng phải là Phật quả, đạt được trong một đời hay sao?

Hóa hiện trong vô lượng thân tướng, [tựu chung] trong bốn pháp thân,

Và điều ấy sẽ trở thành như một trợ duyên, một bảo trang vi diệu.

 

Một vị đạothâm nhập kinh điển, luận lý và các giáo lý thù thắng,

Đấy chẳng gọi là một vị lạt ma, nắm giữ dòng truyền thừa hay sao?

Điểm trang bằng trái tim tôn quý của lòng đại từ bi đích thực,

Và điều ấy sẽ trở thành như một trợ duyên, một bảo trang vi diệu.

 

Một kẻ có được tín tâm, phú bẩm với lòng từ bi tràn khắp,

Đấy chẳng phải là một đệ tử, như một chiếc bình chứa vô cùng thích hợp hay sao?

Trọn vẹn lòng quy ngưỡng, cùng với giới nguyện không gì lay chuyển,

Và điều ấy sẽ trở thành như một trợ duyên, một bảo trang vi diệu.

 

Tóm lại, ta thấu triệt tâm thức xuyên qua chánh kiến.

Thiền định sẽ biến [cái hiểu] trở thành kinh nghiệm.

Giới hạnh sẽ như những chi tiết nhỏ nhiệm làm toàn vẹn bức tranh,

Và điều thực sự xảy đến, ấy là bốn pháp thân hóa hiện.

Quả vị của tất cả những điều này được thực chứng xuyên qua tâm.

Chứng ngộ nghĩa là thấy được, cuối cùng, rốt ráo, tất cả đều hệt như nhau.

 

(*) Động Trời Cao Ramding ở núi thiêng Lapchi là nơi Milarepa thường trú ẩn và thuyết những bài pháp cho Rechungpa nghe.

 

______________________________

Bài 9:

CHUYỂN BIẾN CÁC HOẠT ĐỘNG HẰNG NGÀY THÀNH PHÁP MÔN HÀNH TRÌ

 

Rechungpa, con trai ta ơi, hãy dỏng tai lên, và hãy lắng nghe!


Cha già huyền sử của con, Milarepa, ta

Đôi khi có ngủ và trong khi ngủ, ta thiền định.

Và trong giấc ngủ khi ngủ nghỉ là thiền định,

Ta vận dụng các giáo huấn,

Chuyển biến mê mờ thành ánh sáng.

Là ta, là kẻ có được các giáo huấn này, trong khi kẻ khác thì không.

Nếu ai ai cũng có được những điều như thế ấy, ta sẽ vui mừng cho họ xiết bao.

 

Cha già huyền sử của con, Milarepa, ta

Đôi khi có ăn và trong khi ăn, ta thiền định

Và trong lúc ăn, khi ăn là thiền định

Nương vào các giáo huấn,

Ta biết rằng ăn uống có khác gì một đại tiệc lễ nghi

Là ta, là kẻ có được các giáo huấn này, trong khi kẻ khác thì không.

Nếu ai ai cũng có được những điều như thế ấy, ta sẽ vui mừng cho họ xiết bao.

 

Cha già huyền sử của con, Milarepa, ta

Đôi khi có bước đi và trong khi đi, ta thiền định.

Và trong lúc đi, khi bước đi là thiền định,

Nương vào các giáo huấn,

Ta biết rằng đi đứng nằm ngồi có khác nào các thời khóa công phu.

Là ta, là kẻ có được các giáo huấn này, trong khi kẻ khác thì không.

Nếu ai ai cũng có được những điều như thế ấy, ta sẽ vui mừng cho họ xiết bao.

 

Cha già huyền sử của con, Milarepa, ta

Đôi khi có ứng xử và trong khi ứng xử, ta thiền định.

Và trong khi ứng xử, khi ứng xử là thiền định,

Nương vào các giáo huấn,

Ta biết rằng mọi hành động đều buông trôi vào hiện hữu thanh tịnh.

Là ta, là kẻ có được các giáo huấn này, trong khi kẻ khác thì không.

Nếu ai ai cũng có được những điều như thế ấy, ta sẽ vui mừng cho họ xiết bao.

 

Và con cũng thế, Rechung, con trai ta, hãy nên hành trì như thế.

Và con cũng thế, Megom, hãy mau thức dậy và đi nấu súp đi con.

 

______________________________

 Bài 10: 

LỜI HỨA NGUYỆN UY NGHIÊM

 

Kính lạy đệ tử truyền thừa của Pháp Vương Naropa (*) của đường tu giải thoát,

Xin hãy gia trì cho kẻ hành khất này được ẩn tu ở nơi thâm sơn cùng cốc.

 

Quỷ ma của các thú vui thế gian chẳng thể làm tán tâm hay xao lãng.

Nguyện công phu thiền định tăng trưởng.

 

Chẳng hề vướng mắc, tham đắm hồ nước của thiền chỉ.

Nguyện những đóa hoa của thiền minh sát nở rộ.

 

Sự căng thẳng, gắng sức của các phóng chiếu chẳng thể nào khuấy động.

Nguyện tán lá của sự giản đơn lan trải, sum xuê.

 

Hạt mầm của tâm đối đãi không hiện diện trong khi ẩn cư,

Nguyện trái quả - kinh nghiệmchứng ngộ - trưởng thành trong vững chãi.

 

Toàn bộ quỉ ma hoàn toàn bất lực, chẳng thể nào gây trở ngại.

Nguyện chắc chắn đạt được [thành tựu] tối hậu, thấu hiểu bản tâm.

 

Trên con đường nương theo phương tiện thiện xảo, không quanh co bởi các vọng niệm,

Nguyện đứa con yêu của thầy tìm ra được một nẻo đường, gót nối gót theo bước chân sư phụ.

 

Đạo sư từ bi, tinh túy của Bất động Phật,

Xin hãy gia trì cho kẻ hành khất này được ẩn tu ở nơi thâm sơn cùng cốc.

 

(*) Đây ám chỉ ngài Marpa, là đệ tử của Naropa.


_____________________________

 Phụ lục:

BÀI CA SÁU ĐIỂM TINH YẾU

(Lời di huấn cuối cùng của Milarepa hát cho Rechungpa)

 

Hãy lắng nghe, con trai yêu dấu của trái tim thầy, Rechung ơi.

Hãy lắng nghe Những Lời Di Huấn Cuối Cùng thầy hát cho con.

 

Trong biển khổ của tam giới,

Thân giả huyễn này đây chính là tội phạm,

Luôn phấn đấu để đạt được các mục đích lợi lạc vật chất,

Có còn thời gian nào để buông bỏ những nỗ lực thế gian?

Ôi Rechung, hãy vứt qua bên những đeo đuổi thế tục.

 

Trong thành quách của xác thân tứ đại,

Tâm thức hư ảo mê lầm chính là tội phạm,

Bị giam cầm trong huyết nhục của tấm thân giả hợp,

Có còn thời gian nào để chứng ngộ Chân Thực Tại, Rechung?

Ôi Rechung, hãy phân biệt đâu là chân tâm, thực tánh.

 

Giữa ranh giới của tâm và vật chất,

Thức uẩn trong con chính là tội phạm,

Bị cuốn hút vào cảnh giới của những phóng chiếu dựa trên nhân duyên,

Có còn thời gian nào để chứng ngộ cái vô tạo tác?

Ôi Rechung, hãy nắm giữ thành quách của tánh Không bất sinh bất diệt.

 

Giữa ranh giới của thế gian này và cảnh giới kế tiếp,

Thần thức quẩn quanh trong giai đoạn trung ấm chính là tội phạm,

Chạy đuổi theo một xác thân, cho dù đang lang thang không thân xác,

Có còn thời gian nào để chứng ngộ Thực Tại Tối Hậu, Rechung?

Ôi Rechung, hãy nỗ lực đến được với sự trực ngộ ấy.


Trong thành quách hư dối của sáu loại hữu tình,

Đã tích lũy vô vàn ô nhiễmác nghiệp, xuyên qua tác động của tham và sân,

Chẳng còn chút thời gian nào để chứng nghiệm Tánh Không Bao La Trùm Khắp.

Ôi Rechung, hãy buông bỏ tham, sân.

 

Trong cảnh giới vô sắc của các cõi trời,

Có vị Phật đã phải nương vào phương tiện hư dối,

Dẫn dắt chúng sinh nơi ấy hướng về chân lý tương đối,

Còn Chân Lý Viên Mãn, làm sao chứng ngộ được khi không có thời gian?

Ôi Rechung, hãy buông bỏ mọi khái niệm tạo tác.


Lạt Ma, Bổn Tôn và Thiên Nữ (Lama, Yidam và Dakini),

Cả ba kết hợp làm một –

Hãy thỉnh cầu các ngài!

 

Tri kiến toàn hảo, quán chiếu toàn hảo và hành trì toàn hảo,

Cả ba kết hợp làm một –

Hãy sở đắc chúng!

 

Cuộc đời này, đời kế tiếp, và thân trung ấm,

Cả ba kết hợp làm một –

Hãy hợp nhất tất cả!

 

Đây là những lời dặn dò và di huấn cuối cùng của ta.

Ôi Rechung, chẳng còn gì để nói thêm được nữa.

Con trai ta ơi, hãy luôn quy ngưỡng,

Hướng trọn lòng mình đến những giáo lý ấy.

 

 milarepa-chungdaoca-06

Núi thiêng Lapchi - Photo: Tsering Lhamo (2012)


Phiên bản PDF:

MƯỜI BÀI CHỨNG ĐẠO CA VĨ ĐẠI NHẤT CỦA MILAREPA và BÀI CA SÁU ĐIỂM TINH YẾU - Tâm Bảo Đàn chuyển Việt ngữ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25631)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37859)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19561)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18651)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14249)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20088)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9492)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14347)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35549)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10644)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19679)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23183)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13351)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10738)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20194)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10592)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9947)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14855)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17643)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17585)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13168)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31134)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25726)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13970)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17490)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10959)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12270)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10456)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12253)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11747)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9607)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12343)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9172)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8471)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9944)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9748)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12012)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14399)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9893)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11199)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8288)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10958)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14073)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9893)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15195)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13029)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23063)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23962)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12555)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15416)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17766)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15039)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16540)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16081)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17623)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11576)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11608)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17810)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10767)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10509)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11301)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12071)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11027)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36392)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8949)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9664)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34685)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17247)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10226)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10454)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12190)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13621)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14644)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9138)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24793)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11624)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10304)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15922)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15557)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14497)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12980)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12425)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14561)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18333)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9558)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18503)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18566)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19001)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18817)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11813)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13318)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47965)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11054)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13539)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13029)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11055)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12541)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11043)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31756)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11653)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant