Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Mẹ, người Cha, người Thầy, người Bạn: Lòng Nhân Từ Vô Song của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel Cao Quý

08 Tháng Hai 201300:00(Xem: 13000)
Người Mẹ, người Cha, người Thầy, người Bạn: Lòng Nhân Từ Vô Song của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel Cao Quý

Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã giữ chức vụ này một cách không chính thức từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.

Trong số báo này, tạp chí Mandala mong được nêu lên công lao to tát của Ngài trong việc bảo tồn, quảng bá Phật pháphoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche. Hoạt động không hề mỏi mệt và lòng nhân từ vô hạn của Lama Lhundrup dành cho hàng ngàn đệ tửTu Viện Kopan, cũng như tại Singapore, Mã Lai và Hồng Kông, nổi bật như một nguồn cảm hứng đối với tất cả chúng ta.

Khi chúng tôi xuất bản tạp chí này vào cuối tháng Tám, Lama Lhundrup tiếp tục biểu lộ tình trạng sức khỏe ngày càng suy yếu và bệnh tình của Ngài khá nặng. Chúng tôi sẽ đăng bài cập nhật cho câu chuyện này trên mandalamagazine.org, khi chúng tôi có thêm thông tin. Quý vị cũng có thể tìm các thông tin cập nhật chính thức của FPMT, kể cả tin tức cập nhật về tình trạng sức khỏe của Lama Lhundrup ở fpmt.org.

lamalhundrup-01

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, Tu Viện Kopan, Nepal, tháng Ba 2011. Ảnh của Jo Hathaway.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel mà thế giới biết qua như Lama Lhundrup, sinh ra ở Tây Tạng năm 1941, trong một gia đình nông dân nghèo khó. Ngài vào Tu Viện Sera vào thuở bé, và rời Tây Tạng để đến Ấn Độ năm 1959, vì Trung Quốc đã xâm chiếm Tây Tạng vào lúc đó. Ở Buxa Duar, tại trại tỵ nạn phía Đông Nam Ấn Độ, nơi có nhiều tăng sĩ được chính phủ Ấn Độ thuyên chuyển đến, Ngài đã gặp Lama Yeshe cùng Lama Zopa Rinpoche, và tu học với các vị thầy cao cả như Geshe Rabten và v.v…

Năm 1972, từ Tu Viện Kopan ở Nepal, Lama Yeshe gởi một bức thư cho Lama Lhundrup, trong khi thầy Lhundrup đang ở Mysore, Ấn Độ, giúp việc trùng tu lại Tu Viện Sera. Bức thư nói rằng, “Tôi có một số tăng sinh, ông có thể dạy cho họ không? Nếu được thì xin ông hãy đến.”

Lama Lhundrup hồi âm cho Lama Yeshe rằng thầy không biết thầy có đủ kiến thức để giảng dạy hay không, nhưng thầy rất muốn gặp Lama Yeshe và có thể sẽ viếng thăm Tu Viện Kopan ba tháng. Hòa thượng trụ trì của Tu Viện Sera Je dặn dò Lama Lhundrup trước chuyến đi rằng, “Ông chỉ được phép đi ba tháng thôi, nên khi tới nơi, ông nói với thầy ấy [Lama Yeshe] rằng ông thể ở lâu hơn, rồi ông hãy trở về lập tức sau ba tháng nhé.” 

lamalhundrup-02

Lama Lhundrup tại Kopan, năm 1973. Hình ảnh của Lama Yeshe Wisdom Archive.

Khi Lama Lhundrup đến Kopan, Lama Yeshe đã nói với Ngài rằng, “Ông hãy làm thầy của các tăng sinh của tôi.” Vào lúc ấy, Tu Viện Kopan, được thành lập năm 1971, đang chăm nom cho khoảng 30 vị tăng trẻ đến từ Trung Tâm Mount Everest của Lama Zopa Rinpoche, và rất cần một người trông nom việc tu học của các vị tăng trẻ này. Lama Lhundrup chấp nhận lời yêu cầu của Lama Yeshe, và hết lòng đảm trách công việc này cho đến tháng Bảy 2011, khi trách nhiệm trụ trì Tu Viện Kopan đã được Geshe Thubten Chonyi đảm nhiệm.

Lama Lhundrup nhận văn bằng Geshe từ Tu Viện Sera năm 1987. Ngài đã đến Tu Viện Sera Je để tham dự cuộc thi tranh luận cuối cùng, và buổi tranh luận của Ngài đã được xem là một trong những cuộc tranh luận hào hứng và lỗi lạc nhất trong lịch sử cận đại của Sera.

Từ 1972, gần 800 tăng sinh đã tu họcTu Viện Kopan, kể cả 370 vị hiện đang sống ở đó. Kopan House ở Tu Viện Sera, thuộc về Tsawa Kamsen, hiện đang có 80 tăng sinh từ Kopan đang tu học để trở thành Geshe. Các tăng sĩ Kopan cũng tu học ở Trường Cao Đẳng Mật điển Gyume (Gyume Tantric College) và Đại Học Trung Ương Nghiên Cứu Tây Tạng ở Sarnath (Central University of Tibetan Studies). Có sáu vị Geshe ở các trung tâm FPMT xuất thân từ Tu Viện Kopan. Năm 1986, Ni Viện Kopan, tức Khachoe Ghakyil, đã được thành lập và từ đó, khoảng 450 ni cô đã tu học ở đó, kể cả 350 vị hiện đang sống tại đó.

lamalhundrup-03

Karuna Cayton, Pam Cayton, Nick Ribush, Thubten Tsering và Lama Lhundrup tại văn phòng Kopan vào khoảng năm 1981. Ảnh của Karuna Cayton.

Karuna Cayton, một thành viên đương nhiệm của ban điều hành FPMT, đã làm việc sát cánh với Lama Lhundrup ở Kopan từ năm 1975 đến năm 1988, nói rằng, “Nhờ các vị tăng sĩ và các lớp giáo pháp ở Kopan mà Tu Viện này đã mang lại một ảnh hưởng kỳ diệu cho hàng ngàn cuộc đời trên thế giới. Tôi thật sự tin rằng nếu không có Kopan thì các trung tâm Phật giáo FPMT khác sẽ không thể hiện hữu. Và nếu không có các trung tâm FPMT, thì vô số đệ tử sẽ chẳng bao giờ gặp được Lama Zopa Rinpoche, Lama Yeshe hay đường tu Phật pháp. Nếu không có Lama Lhundrup, có lẽ sẽ không có Tu Viện Kopan.”

Bên cạnh hàng trăm tăng ni mà Lama Lhundrup chăm sóc hơn 40 năm qua, Ngài còn có nhiều đệ tử ở Singapore, Mã Lai và Hồng Kông mà Ngài thường vân du sang các nước ấy để giảng dạy họ. Trong nhiều năm qua, mấy ngàn Phật tử đã tham gia các khóa thiền thường niên ở Kopan và sự ảnh hưởng cũng như lợi lạc mà Lama Lhundrup đã đem lại cho các Phật tử này thật không thể nào ước tính được, qua việc ban giới quy y, giảng dạy và tham vấn của Ngài, rồi nhờ đó mà các Phật tử này lại tạo ra ảnh hưởng cho những người khác nữa.

lamalhundrup-04

Tu Viện Kopan năm 1972. Ảnh của Lama Yeshe Wisdom Archive.

“Dĩ nhiên cũng có những nhân vật quan trọng khác trong thời kỳ sơ khai của Kopan, như Lama Pasang, Gelek Gyatso, Tenpa Choden và một nhóm thiện nguyện viên đông đảo,” cô Karuna nói, khi cô phản ảnh về sự phát triển của Kopan. “Nhưng Lama Lhudrup là người luôn có mặt ở đó. Ngài là chất liệu nối kết viễn ảnh của Lama Yeshe, ngay cả trước và sau khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Lama Lhundrup cảm thấytrách nhiệm đối với mỗi một ước nguyện mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche cưu mang đối với Kopan. Khi Lama Lhundrup cảm thấy mình đã làm cho Lama Yeshe thất vọng, gương mặt Ngài sẽ lộ vẻ như một người mẹ đã không thể bảo bọc cho con mình bằng sự an toàn và nuôi nấng. Tuy nhiên, sau khi bị Lama Yeshe khiển trách, trong khi tôi đang buồn bực, thường là sửng sốt và nói chẳng nên lời, thì Lama Lhundrup sẽ quay qua nhìn tôi và khẽ cười khúc khích. Thầy quá thấu hiểu tình thương của Lama Yeshe. Thầy biết Lama Yeshe đã cố gắng hết sức mình. Thầy biết chúng tôi sẽ làm khá hơn và sẽ hoàn thành mọi ước vọng của Lama Yeshe. Lama Lhundrup hiểu các phẩm chất phi thường của Lama Yeshe và không bao giờ bị lầm lạc trước những sự biểu lộ mà Lama Yeshe tỏ ra để hướng dẫn chúng sanh.”

lamalhundrup-05

Lama Lhundrup tại lễ cầu nguyện trường thọ cho Lama Zopa Rinpoche ở Kopan, 2009. Ảnh của Wolf Price: Wanderwolf Media (wanderwolf.com).

Một trong những thành tựu trọng đại nhất của Lama Lhundrup ở Kopan là việc thành lập chương trình tu học triết lý Phật giáo liên hệ đến khóa tốt nghiệp học vị Geshe. Chương trình này đã được chính thức công nhận năm 2010 và đã sản sinh ra khoảng 15 vị rabjampa, cũng như nhiều vị nữa trong tương lai. Với công sức miệt mài bao nhiêu năm qua của Lama Lhundrup, Tu Viện Kopan, cùng với ba Tu Viện Gelug lớn (Sera, Gendun, Drepung) và Tashi Lhunpo, là những học viện cấp phát văn bằng Geshe cho các tăng sĩ.

Lama Lhundrup cũng sáng lập chương trình tu học triết lý Phật giáo cho chư ni của Ni Viện Khachoe Ghakyil. Nhờ vào công sức của Ngài, trong một vài năm nữa, Ni Viện sẽ có những chư ni đầu tiên nhận văn bằng Geshema. Lama Lhundrup còn đảm nhận trách nhiệm trông nom Ni Viện Rachen và Tu Viện Mu ở Tsum, và Tu Viện Shedup Ling tại Solu Khumbu.

lamalhundrup-05

Lama Lhundrup ở Kopan, 2003. Ảnh của Tu Viện Kopan.

Lama Lhundrup đã hỗ trợ cho việc thành lập Đại Lễ Cầu Nguyện (Great Monlam) của phái Gelug ở Nepal, mà Tu Viện Kopan vẫn tổ chức hàng năm. Ngài còn giúp sáng lập ra Diễn Đàn Giáo Dục Gelug của Nepal, để tất cả các tu viện phái Gelug ở Nepal có thể tham dự cuộc tranh luận Phật pháp trong dịp Jayang Guncho, buổi tranh luận thường niên giữa các tu viện. Năm 2010, các cuộc Khảo Thí đầu tiện của phái Gelug đã được tổ chức cho các tu viện này. Các cuộc thi là một bước quan trọng trong việc tiếp nối chương trình nghiên cứu triết lý Phật giáo tại Tu Viện Sera Je.

“Lama Lhundrup luôn luôn nhẫn nại và quan tâm đến mỗi một đệ tử hay vị khách thập phương viếng thăm Kopan.” Geshe Thubten Sherab, vị sư trưởng tại chức bốn năm ở trường Phật giáo thuộc về Tu Viện Kopan, đã nói với tạp chí Mandala như thế. “Ngài đã làm việc ngày đêm, trông nom và lắng nghe những lời than phiền về các vấn đềchư tăng ni, các đệ tử khắp nơi trên thế giới và tất cả khách thập phương đến xin Ngài lời khuyên và hướng dẫn. Ngài đáp lời bằng sự quan tâm, lo lắnglòng bi mẫn lớn lao, nhưng chẳng hề than vãn hay có chút nào kiêu hãnh. Ngài luôn cố gắng hòa giải vấn đề một cách êm thắm, không làm ai buồn phiền hay tổn thương.”

Lobsang Drolkar, một đệ tửTrung Tâm Phật giáo Phật A Di Đà (Amitabha Buddhist Centre) ở Singapore đã phát biểu trong năm 2010 rằng, “Lama Lhundrup đã biến Kopan thành một nơi mà nhiều đệ tử có được cảm giác đã thật sự trở về nhà. Bao nhiêu năm qua, tôi đã nhiều lần chứng kiến Lama Lhundrup biểu lộ cung cách kỳ diệu của Ngài đối với khách thập phương và các đệ tử của Ngài như nhau, trong cách Ngài cười sảng khoái, trong tư cách của người cha khi Ngài nắm tay ai đó khi Ngài lắng nghe họ nói (ngay cả khi họ nói những lời vô nghĩa!).”

Geshe Chokley, một vị thầy ở Kopan đã từng làm trưởng giáo thọ ở Tsum, kể rằng từ cả 20 năm trước, “Lama Lhundrup thật sự chăm sóc tất cả các chú tiểu như một người mẹ, Ngài chùi mũi và mặc đồ cho các chú. Ngài đã dành cả đời mình cho chư tăng ni, và khi mọi việc được tốt đẹp đối với họ thì Ngài cảm thấy mãn nguyện, vui lòng.”

Vào tháng Bảy năm nay, Sư Cô Tenzin Jangsem, giám đốc của Ni Viện Khachoe Gakyil nói rằng, “Lòng nhân từ của Lama Lhundrup thật không thể nào đo lường hay so sánh được. Dù Ngài rất bận rộn, Ngài vẫn đến Ni Viện để giảng dạy cho chúng tôi và khuyên nhủ các tiểu ni cô, dạy họ về mười nghiệp bất thiện, rằng họ nên đối xử tốt với người khác ra sao, làm cách nào để có một tấm lòng tốt v.v… Những lần khác, Ngài dạy các ni cô lớn hơn cách tụng kinh. Chư ni đến từ các vùng xa xôi hẻo lánh như Tây Tạng và các vùng khác của Hy Mã Lạp Sơn. Bất cứ những gì chư ni có được, ví dụ như Ni Viện được cả thế giới biết đến, đều nhờ vào lòng tốt và sự gia hộ của Lama Zopa Rinpoche, cùng công lao khó nhọc và sự hướng dẫn của Lama Lhundrup.”

Lama Zopa Rinpoche và tăng đoàn Kopan bắt đầu lo ngại về sức khỏe của Lama Lhundrup vào cuối năm 2010. Sau vài lần thỉnh cầu, Lama Lhundrup đã chấp nhận lời khuyên của Tây y tại Singapore và đến đó vào đầu tháng Giêng để nhập viện. Ở đó, Ngài được định bệnh ung thư bao tử di căn vào giữa tháng Giêng 2011.

lamalhundrup-07

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup cùng với hai thị giả của ngài, Ven. Thubten Kunkhen, Ven. Lobsang Thardoe và Jo Hathaway, y tá chuyên khoa giảm đau của ngài tại Kopan, 24 tháng Tám, 2011. Ảnh của Ven. Thubten Kunsang.

Jo Hathaway là một y tá chuyên khoa giảm đau từ Tân Tây Lan, một đệ tử của Lama Lhundrup, người đã sống ở Kopan từ tháng Giêng 2011, đã chăm sóc Ngài. Vào tháng Bảy, Jo chia sẻ với tạp chí Mandala rằng:

- Ngay từ ngày đầu, khi Lama Lhundrup trở về Kopan từ bệnh viện ở Singapore, thái độ của Ngài đối với bệnh tình của mình rất khác biệt với những “bệnh nhân” khác mà tôi đã chăm sóc. Khi chúng tôi bắt đầu bàn về cách thức mới để chuyền chất dinh dưỡng vào cơ thể Ngài, Lama Lhundrup ngồi đó, cầm đầu ống dẫn chất dinh dưỡng gắn vào bụng Ngài, lắc qua lắc lại, rồi cười và kêu lên, “Coi nè, đây là cái miệng mới của tôi!”

- Dù hoàn cảnh ra sao, Pháp luôn luôn là điều đầu tiên Lama Lhundrup nghĩ đến,” Jo nói. “Nhu cầu vật chất của thân thể không quan trọng đối với Ngài như với đa số người thường, và Ngài không có vẻ quan tâm đến bất cứ sự thay đổi nào trong cơ thể của Ngài. Điều này khiến cho việc theo dõi tình trạng sức khỏe của Ngài trở nên rắc rối, vì không giống những người khác mang bệnh trầm kha, Ngài không hề than vãn về điều gì cả. Không bao giờ.”

- Đối với Lama Lhundrup, ước muốn làm người khác vui lúc nào cũng đi trước phúc lợi của Ngài. Khi chúng tôi lo ngại rằng những thay đổi về phương diện sinh lý trong cơ thể Ngài có thể cho thấy là Ngài đang đau đớn, tôi thử hỏi thăm Ngài. Cuộc đối thoại bắt đầu khá tốt đẹp, ‘Thầy có thấy đau không?’, ‘Có.’ ‘Thầy có thể cho con biết Thầy đau chỗ nào không?’ ‘Ở chỗ này.’ Thế là tôi lọt vào tình trạng của một ‘y tá lo âu’, khi tôi hỏi Ngài một câu tiếp theo. Thay vì trả lời câu hỏi của tôi, Lama Lhundrup nói với nụ cười thoải mái, ‘Con không thích sự đau đớn phải không?’. ‘Dạ không, dĩ nhiên là không, thưa Khen Rinpoche.’, Đó là câu trả lời đầy bối rối của tôi (Đâu có ai thích đau, đúng không?) Thế là Lama Lhundrup nói một cách giản dị, ‘Vậy thì ta không thấy đau.’ Rồi Ngài quay trở lại quyển kinh và tiếp tục buổi cầu nguyện buổi tối. Thế là cuộc đối thoại chấm dứtlý do lo lắng của tôi cũng chấm dứt ở đây.

“Một lần khác, khi chúng tôi lại đề cập đến cái đau, tôi hỏi Ngài muốn giảm đau bằng cách nào, Jo kể tiếp. “Ngài trả lời là, ‘Tốt hơn hết ta nên chịu nỗi đau này vì lợi ích của tất cả chúng sanh.’ Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu và bệnh tật của họ, để họ không phải đau khổ nữa. Đến nay, tôi ngờ rằng vì lòng từ bi của Ngài và để chúng ta bớt lo lắng, Ngài mới đồng ý uống một lượng thuốc giảm đau nhỏ, vừa đủ để giúp Ngài tập trung tinh thần lúc công phutụng niệm, nhưng không cần thiết hay cố ý chấm dứt cái đau hoàn toàn. Quan điểm của Ngài về bệnh tật chắc chắnvô cùng khác thường!”

Theo lời Karuna Cayton, Lama Zopa Rinpoche đã khuyên những ai buồn rầu vì bệnh tình của Lama Lhundrup là, “Con không cần lo cho Lama Lhundrup, vì thầy ấy đã hoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe trong suốt cả đời thầy.” Khi phản ảnh về điều này trong đầu tháng Tám, Karuna nói, “Tôi nghĩ phẩm chất này của Lama Lhundrup chỉ là một trong những phẩm hạnh khiến cho Ngài là một người vô cùng xuất sắc. Lama Thubten Yeshe là một vị thầy có tầm nhìn xa, một người có khuynh hướng nổi loạn, một vị thầy của thời kỳ phục hưng. Trong xã hội Tây Tạng truyền thống, đặc biệtxã hội của tăng già, người ta rất nghi ngờ sự đổi mới. Tuy nhiên, Lama Yeshe đã nhìn thấy một viễn ảnh mới cho người Tây Tạng lưu vongPhật tử ở vùng Hy Mã Lạp Sơn. Mặc dù các ý tưởng của Ngài có vẻ cấp tiến, theo tôi thấy thì Lama Lhundrup chưa bao giờ do dự trong việc nỗ lực hoàn tất ước nguyện của Lama Yeshe. Lama Lhundrup biết rõ cá tính phi thường của Lama Yeshe và vì thế, Ngài thường thực hiện các ý kiến của Lama Yeshe dựa vào niềm tin ở vị thầy này mà thôi.”

Năm 1995, Lama Lhundrup đã phát biểu với tạp chí Mandala rằng, “Nhiệm vụ chính của tôi là bảo đảm cho chư tăng có một nền giáo dục tốt và thái độ đúng đắn, thế là chúng ta đã hoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe, để cuối cùng, trong 15 năm nữa, sau khi tất cả những cậu bé này hoàn tất các lớp học, ít nhất họ sẽ biết đọc, biết viết Tạng ngữ, cũng như biết được triết lý căn bản, để họ có thể trở thành thông dịch viên, giảng sư hay bất cứ công việc nào khác. Tôi muốn họ có từ tâm và phẩm hạnh tốt; đúng vậy, đây là mục tiêu của tôi… Đây là tu viện chính của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche, nhưng hai Ngài không có thời gian để trông nom nó, nên tôi cần phải làm việc này cho hai Ngài, và tôi rất hoan hỷ.”

lamalhundrup-08

Lama Lhundup và Osel trong Kopan, tháng 7 năm 2011. Ảnh của Jo Hathaway.

Khi tình trạng sức khỏe của Lama Lhundrup ngày càng trở nên suy yếu, Karuna Cayton và Osel Hita đã quyết định đến thăm Ngài một thời gian ngắn, để tỏ lòng kính trọng một vị thầy và người bạn già của họ. Họ đến Kopan vào ngày 4 tháng Bảy mà không báo trước. Chỉ có Lama Zopa Rinpoche và thầy Roger Kunsang biết trước về việc này mà thôi. Trong sáu ngày ở Kopan, Karuna và Osel đã thăm viếng Lama Lhundrup hầu như mỗi ngày. Đây cũng là lần đầu tiên Osel trở lại Kopan sau 13 năm, nên đây cũng là chuyến về thăm nhà của Osel. Với sự yêu cầu của Lama Zopa Rinpoche, Osel đã có những buổi nói chuyện thân tình ở Ni Viện Khachoe Ghakyil và tại chánh điện của Tu Viện Kopan.

Karuna giải thích với tạp chí Mandala rằng, “Tôi nói về Lama Lhundrup như một người bạn. Tôi không có ý ngã mạn hay phạm thượng. Thầy là một kalyanamitra của tôi, người bạn tâm linh của tôi. Nếu bạn biết Lama Lhundrup, tôi tin rằng bạn sẽ hiểu ý tôi và chắc chắn bạn cũng sẽ xem thầy như một người bạn.”

Một Phật tử Tây phương sống ở Kopan 20 năm qua đã nhận xét về Lama Lhundrup như sau, “Nói tóm lại là Ngài đã biến Kopan thành một tu viện mà ta thấy ngày hôm nay. Ngài đã xây dựng các thứ từng bước một bằng sự kiên nhẫnquan tâm, thương mến, lắng nghe ý kiến của nhiều người và tuân theo chỉ giáo của các bổn sư (guru) của Ngài. Những nỗ lực này đã mang lại một Tịnh Độ Kopan.”

Cuộc đời, thành tựu và sự dấn thân của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel rất đáng được tán dương. Ngay lúc còn là một nhà sư trẻ, Ngài đã dấn thân phụng sự Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche, rồi dành thêm 40 năm sau đó để hoàn thành ước nguyện của hai Thầy. Ngài đã đóng vai trò người mẹ, người cha, người thầy và người bạn đối với vô số chúng sanh. Như Lama Zopa Rinpoche đã khen tặng nhiều năm trước, Lama Lhundrup “là một vị lama mà bạn có thể tin cậy hoàn toàn.” Xin bạn hãy cùng toàn thể cộng đồng FPMT tùy hỷ với sự dấn thân to tát của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup trong việc bảo tồn, quảng bá Phật pháptrông nom Tu Viện Kopan, trái tim của FPMT (Hội Bảo Tồn Truyền Thống Đại thừa).

Tháng Bảy năm nay, văn phòng của Kopan đã gởi đến Mandala lời yêu cầu sau đây: Hôm nay Lama Zopa Rinpoche, vị Guru Có Lòng Từ Tâm Nhất của chúng tôi, đã khuyên tất cả những ai có duyên lành với Khensur Rinpoche (đã nhận sự tham vấn, truyền khẩu, giáo huấn hay quy y với Ngài) có thể hành trì pháp tu Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát càng nhiều càng tốt, để tạo lợi lạc cho Khensur Rinpoche.

Các đệ tử khắp nơi trên thế giớiTu Viện Kopan đã làm rất nhiều puja (lễ cúng dường) và cầu nguyện cho Lama Lhundrup. Quý vị có thể tìm thấy bài công phu Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, các tin tức cập nhật về tình trạng sức khỏe của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup, cũng như các bài viết về Ngài của Geshe Thubten Sherab, Karuna Cayton, Ani Tenzin Jangsum, Jo Hathaway và các tác giả khác ở www.mandalamagazine.org.

Lozang Ngodrub chuyển dịch Việt ngữ

Bản Anh ngữ đã được đăng tải trong Tạp Chí Mandala, tháng 10-12, 2011.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31670)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10531)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11231)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12759)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10813)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16668)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10821)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22969)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12029)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11496)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10688)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12341)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11199)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10025)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10333)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11914)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10702)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12377)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9816)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11275)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13846)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9581)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12635)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9705)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10461)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10557)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10325)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9906)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11061)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12021)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10147)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10787)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8771)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9500)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14521)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8781)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12556)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10426)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9089)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10561)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8804)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10520)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9196)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8369)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12033)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10217)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19136)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9416)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9020)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14761)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10099)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8353)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8952)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8976)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8744)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9371)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14600)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9041)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8776)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9050)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10536)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8643)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9994)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24288)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10178)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11029)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9003)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9470)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8005)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9270)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10340)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9583)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21403)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12168)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19242)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26048)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7982)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14809)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10635)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11354)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9535)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12366)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10757)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13346)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10002)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9272)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9384)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15903)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant