Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Người Mẹ, người Cha, người Thầy, người Bạn: Lòng Nhân Từ Vô Song của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel Cao Quý

08 Tháng Hai 201300:00(Xem: 12884)
Người Mẹ, người Cha, người Thầy, người Bạn: Lòng Nhân Từ Vô Song của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel Cao Quý

Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã giữ chức vụ này một cách không chính thức từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.

Trong số báo này, tạp chí Mandala mong được nêu lên công lao to tát của Ngài trong việc bảo tồn, quảng bá Phật pháphoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche. Hoạt động không hề mỏi mệt và lòng nhân từ vô hạn của Lama Lhundrup dành cho hàng ngàn đệ tửTu Viện Kopan, cũng như tại Singapore, Mã Lai và Hồng Kông, nổi bật như một nguồn cảm hứng đối với tất cả chúng ta.

Khi chúng tôi xuất bản tạp chí này vào cuối tháng Tám, Lama Lhundrup tiếp tục biểu lộ tình trạng sức khỏe ngày càng suy yếu và bệnh tình của Ngài khá nặng. Chúng tôi sẽ đăng bài cập nhật cho câu chuyện này trên mandalamagazine.org, khi chúng tôi có thêm thông tin. Quý vị cũng có thể tìm các thông tin cập nhật chính thức của FPMT, kể cả tin tức cập nhật về tình trạng sức khỏe của Lama Lhundrup ở fpmt.org.

lamalhundrup-01

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, Tu Viện Kopan, Nepal, tháng Ba 2011. Ảnh của Jo Hathaway.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel mà thế giới biết qua như Lama Lhundrup, sinh ra ở Tây Tạng năm 1941, trong một gia đình nông dân nghèo khó. Ngài vào Tu Viện Sera vào thuở bé, và rời Tây Tạng để đến Ấn Độ năm 1959, vì Trung Quốc đã xâm chiếm Tây Tạng vào lúc đó. Ở Buxa Duar, tại trại tỵ nạn phía Đông Nam Ấn Độ, nơi có nhiều tăng sĩ được chính phủ Ấn Độ thuyên chuyển đến, Ngài đã gặp Lama Yeshe cùng Lama Zopa Rinpoche, và tu học với các vị thầy cao cả như Geshe Rabten và v.v…

Năm 1972, từ Tu Viện Kopan ở Nepal, Lama Yeshe gởi một bức thư cho Lama Lhundrup, trong khi thầy Lhundrup đang ở Mysore, Ấn Độ, giúp việc trùng tu lại Tu Viện Sera. Bức thư nói rằng, “Tôi có một số tăng sinh, ông có thể dạy cho họ không? Nếu được thì xin ông hãy đến.”

Lama Lhundrup hồi âm cho Lama Yeshe rằng thầy không biết thầy có đủ kiến thức để giảng dạy hay không, nhưng thầy rất muốn gặp Lama Yeshe và có thể sẽ viếng thăm Tu Viện Kopan ba tháng. Hòa thượng trụ trì của Tu Viện Sera Je dặn dò Lama Lhundrup trước chuyến đi rằng, “Ông chỉ được phép đi ba tháng thôi, nên khi tới nơi, ông nói với thầy ấy [Lama Yeshe] rằng ông thể ở lâu hơn, rồi ông hãy trở về lập tức sau ba tháng nhé.” 

lamalhundrup-02

Lama Lhundrup tại Kopan, năm 1973. Hình ảnh của Lama Yeshe Wisdom Archive.

Khi Lama Lhundrup đến Kopan, Lama Yeshe đã nói với Ngài rằng, “Ông hãy làm thầy của các tăng sinh của tôi.” Vào lúc ấy, Tu Viện Kopan, được thành lập năm 1971, đang chăm nom cho khoảng 30 vị tăng trẻ đến từ Trung Tâm Mount Everest của Lama Zopa Rinpoche, và rất cần một người trông nom việc tu học của các vị tăng trẻ này. Lama Lhundrup chấp nhận lời yêu cầu của Lama Yeshe, và hết lòng đảm trách công việc này cho đến tháng Bảy 2011, khi trách nhiệm trụ trì Tu Viện Kopan đã được Geshe Thubten Chonyi đảm nhiệm.

Lama Lhundrup nhận văn bằng Geshe từ Tu Viện Sera năm 1987. Ngài đã đến Tu Viện Sera Je để tham dự cuộc thi tranh luận cuối cùng, và buổi tranh luận của Ngài đã được xem là một trong những cuộc tranh luận hào hứng và lỗi lạc nhất trong lịch sử cận đại của Sera.

Từ 1972, gần 800 tăng sinh đã tu họcTu Viện Kopan, kể cả 370 vị hiện đang sống ở đó. Kopan House ở Tu Viện Sera, thuộc về Tsawa Kamsen, hiện đang có 80 tăng sinh từ Kopan đang tu học để trở thành Geshe. Các tăng sĩ Kopan cũng tu học ở Trường Cao Đẳng Mật điển Gyume (Gyume Tantric College) và Đại Học Trung Ương Nghiên Cứu Tây Tạng ở Sarnath (Central University of Tibetan Studies). Có sáu vị Geshe ở các trung tâm FPMT xuất thân từ Tu Viện Kopan. Năm 1986, Ni Viện Kopan, tức Khachoe Ghakyil, đã được thành lập và từ đó, khoảng 450 ni cô đã tu học ở đó, kể cả 350 vị hiện đang sống tại đó.

lamalhundrup-03

Karuna Cayton, Pam Cayton, Nick Ribush, Thubten Tsering và Lama Lhundrup tại văn phòng Kopan vào khoảng năm 1981. Ảnh của Karuna Cayton.

Karuna Cayton, một thành viên đương nhiệm của ban điều hành FPMT, đã làm việc sát cánh với Lama Lhundrup ở Kopan từ năm 1975 đến năm 1988, nói rằng, “Nhờ các vị tăng sĩ và các lớp giáo pháp ở Kopan mà Tu Viện này đã mang lại một ảnh hưởng kỳ diệu cho hàng ngàn cuộc đời trên thế giới. Tôi thật sự tin rằng nếu không có Kopan thì các trung tâm Phật giáo FPMT khác sẽ không thể hiện hữu. Và nếu không có các trung tâm FPMT, thì vô số đệ tử sẽ chẳng bao giờ gặp được Lama Zopa Rinpoche, Lama Yeshe hay đường tu Phật pháp. Nếu không có Lama Lhundrup, có lẽ sẽ không có Tu Viện Kopan.”

Bên cạnh hàng trăm tăng ni mà Lama Lhundrup chăm sóc hơn 40 năm qua, Ngài còn có nhiều đệ tử ở Singapore, Mã Lai và Hồng Kông mà Ngài thường vân du sang các nước ấy để giảng dạy họ. Trong nhiều năm qua, mấy ngàn Phật tử đã tham gia các khóa thiền thường niên ở Kopan và sự ảnh hưởng cũng như lợi lạc mà Lama Lhundrup đã đem lại cho các Phật tử này thật không thể nào ước tính được, qua việc ban giới quy y, giảng dạy và tham vấn của Ngài, rồi nhờ đó mà các Phật tử này lại tạo ra ảnh hưởng cho những người khác nữa.

lamalhundrup-04

Tu Viện Kopan năm 1972. Ảnh của Lama Yeshe Wisdom Archive.

“Dĩ nhiên cũng có những nhân vật quan trọng khác trong thời kỳ sơ khai của Kopan, như Lama Pasang, Gelek Gyatso, Tenpa Choden và một nhóm thiện nguyện viên đông đảo,” cô Karuna nói, khi cô phản ảnh về sự phát triển của Kopan. “Nhưng Lama Lhudrup là người luôn có mặt ở đó. Ngài là chất liệu nối kết viễn ảnh của Lama Yeshe, ngay cả trước và sau khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Lama Lhundrup cảm thấytrách nhiệm đối với mỗi một ước nguyện mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche cưu mang đối với Kopan. Khi Lama Lhundrup cảm thấy mình đã làm cho Lama Yeshe thất vọng, gương mặt Ngài sẽ lộ vẻ như một người mẹ đã không thể bảo bọc cho con mình bằng sự an toàn và nuôi nấng. Tuy nhiên, sau khi bị Lama Yeshe khiển trách, trong khi tôi đang buồn bực, thường là sửng sốt và nói chẳng nên lời, thì Lama Lhundrup sẽ quay qua nhìn tôi và khẽ cười khúc khích. Thầy quá thấu hiểu tình thương của Lama Yeshe. Thầy biết Lama Yeshe đã cố gắng hết sức mình. Thầy biết chúng tôi sẽ làm khá hơn và sẽ hoàn thành mọi ước vọng của Lama Yeshe. Lama Lhundrup hiểu các phẩm chất phi thường của Lama Yeshe và không bao giờ bị lầm lạc trước những sự biểu lộ mà Lama Yeshe tỏ ra để hướng dẫn chúng sanh.”

lamalhundrup-05

Lama Lhundrup tại lễ cầu nguyện trường thọ cho Lama Zopa Rinpoche ở Kopan, 2009. Ảnh của Wolf Price: Wanderwolf Media (wanderwolf.com).

Một trong những thành tựu trọng đại nhất của Lama Lhundrup ở Kopan là việc thành lập chương trình tu học triết lý Phật giáo liên hệ đến khóa tốt nghiệp học vị Geshe. Chương trình này đã được chính thức công nhận năm 2010 và đã sản sinh ra khoảng 15 vị rabjampa, cũng như nhiều vị nữa trong tương lai. Với công sức miệt mài bao nhiêu năm qua của Lama Lhundrup, Tu Viện Kopan, cùng với ba Tu Viện Gelug lớn (Sera, Gendun, Drepung) và Tashi Lhunpo, là những học viện cấp phát văn bằng Geshe cho các tăng sĩ.

Lama Lhundrup cũng sáng lập chương trình tu học triết lý Phật giáo cho chư ni của Ni Viện Khachoe Ghakyil. Nhờ vào công sức của Ngài, trong một vài năm nữa, Ni Viện sẽ có những chư ni đầu tiên nhận văn bằng Geshema. Lama Lhundrup còn đảm nhận trách nhiệm trông nom Ni Viện Rachen và Tu Viện Mu ở Tsum, và Tu Viện Shedup Ling tại Solu Khumbu.

lamalhundrup-05

Lama Lhundrup ở Kopan, 2003. Ảnh của Tu Viện Kopan.

Lama Lhundrup đã hỗ trợ cho việc thành lập Đại Lễ Cầu Nguyện (Great Monlam) của phái Gelug ở Nepal, mà Tu Viện Kopan vẫn tổ chức hàng năm. Ngài còn giúp sáng lập ra Diễn Đàn Giáo Dục Gelug của Nepal, để tất cả các tu viện phái Gelug ở Nepal có thể tham dự cuộc tranh luận Phật pháp trong dịp Jayang Guncho, buổi tranh luận thường niên giữa các tu viện. Năm 2010, các cuộc Khảo Thí đầu tiện của phái Gelug đã được tổ chức cho các tu viện này. Các cuộc thi là một bước quan trọng trong việc tiếp nối chương trình nghiên cứu triết lý Phật giáo tại Tu Viện Sera Je.

“Lama Lhundrup luôn luôn nhẫn nại và quan tâm đến mỗi một đệ tử hay vị khách thập phương viếng thăm Kopan.” Geshe Thubten Sherab, vị sư trưởng tại chức bốn năm ở trường Phật giáo thuộc về Tu Viện Kopan, đã nói với tạp chí Mandala như thế. “Ngài đã làm việc ngày đêm, trông nom và lắng nghe những lời than phiền về các vấn đềchư tăng ni, các đệ tử khắp nơi trên thế giới và tất cả khách thập phương đến xin Ngài lời khuyên và hướng dẫn. Ngài đáp lời bằng sự quan tâm, lo lắnglòng bi mẫn lớn lao, nhưng chẳng hề than vãn hay có chút nào kiêu hãnh. Ngài luôn cố gắng hòa giải vấn đề một cách êm thắm, không làm ai buồn phiền hay tổn thương.”

Lobsang Drolkar, một đệ tửTrung Tâm Phật giáo Phật A Di Đà (Amitabha Buddhist Centre) ở Singapore đã phát biểu trong năm 2010 rằng, “Lama Lhundrup đã biến Kopan thành một nơi mà nhiều đệ tử có được cảm giác đã thật sự trở về nhà. Bao nhiêu năm qua, tôi đã nhiều lần chứng kiến Lama Lhundrup biểu lộ cung cách kỳ diệu của Ngài đối với khách thập phương và các đệ tử của Ngài như nhau, trong cách Ngài cười sảng khoái, trong tư cách của người cha khi Ngài nắm tay ai đó khi Ngài lắng nghe họ nói (ngay cả khi họ nói những lời vô nghĩa!).”

Geshe Chokley, một vị thầy ở Kopan đã từng làm trưởng giáo thọ ở Tsum, kể rằng từ cả 20 năm trước, “Lama Lhundrup thật sự chăm sóc tất cả các chú tiểu như một người mẹ, Ngài chùi mũi và mặc đồ cho các chú. Ngài đã dành cả đời mình cho chư tăng ni, và khi mọi việc được tốt đẹp đối với họ thì Ngài cảm thấy mãn nguyện, vui lòng.”

Vào tháng Bảy năm nay, Sư Cô Tenzin Jangsem, giám đốc của Ni Viện Khachoe Gakyil nói rằng, “Lòng nhân từ của Lama Lhundrup thật không thể nào đo lường hay so sánh được. Dù Ngài rất bận rộn, Ngài vẫn đến Ni Viện để giảng dạy cho chúng tôi và khuyên nhủ các tiểu ni cô, dạy họ về mười nghiệp bất thiện, rằng họ nên đối xử tốt với người khác ra sao, làm cách nào để có một tấm lòng tốt v.v… Những lần khác, Ngài dạy các ni cô lớn hơn cách tụng kinh. Chư ni đến từ các vùng xa xôi hẻo lánh như Tây Tạng và các vùng khác của Hy Mã Lạp Sơn. Bất cứ những gì chư ni có được, ví dụ như Ni Viện được cả thế giới biết đến, đều nhờ vào lòng tốt và sự gia hộ của Lama Zopa Rinpoche, cùng công lao khó nhọc và sự hướng dẫn của Lama Lhundrup.”

Lama Zopa Rinpoche và tăng đoàn Kopan bắt đầu lo ngại về sức khỏe của Lama Lhundrup vào cuối năm 2010. Sau vài lần thỉnh cầu, Lama Lhundrup đã chấp nhận lời khuyên của Tây y tại Singapore và đến đó vào đầu tháng Giêng để nhập viện. Ở đó, Ngài được định bệnh ung thư bao tử di căn vào giữa tháng Giêng 2011.

lamalhundrup-07

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup cùng với hai thị giả của ngài, Ven. Thubten Kunkhen, Ven. Lobsang Thardoe và Jo Hathaway, y tá chuyên khoa giảm đau của ngài tại Kopan, 24 tháng Tám, 2011. Ảnh của Ven. Thubten Kunsang.

Jo Hathaway là một y tá chuyên khoa giảm đau từ Tân Tây Lan, một đệ tử của Lama Lhundrup, người đã sống ở Kopan từ tháng Giêng 2011, đã chăm sóc Ngài. Vào tháng Bảy, Jo chia sẻ với tạp chí Mandala rằng:

- Ngay từ ngày đầu, khi Lama Lhundrup trở về Kopan từ bệnh viện ở Singapore, thái độ của Ngài đối với bệnh tình của mình rất khác biệt với những “bệnh nhân” khác mà tôi đã chăm sóc. Khi chúng tôi bắt đầu bàn về cách thức mới để chuyền chất dinh dưỡng vào cơ thể Ngài, Lama Lhundrup ngồi đó, cầm đầu ống dẫn chất dinh dưỡng gắn vào bụng Ngài, lắc qua lắc lại, rồi cười và kêu lên, “Coi nè, đây là cái miệng mới của tôi!”

- Dù hoàn cảnh ra sao, Pháp luôn luôn là điều đầu tiên Lama Lhundrup nghĩ đến,” Jo nói. “Nhu cầu vật chất của thân thể không quan trọng đối với Ngài như với đa số người thường, và Ngài không có vẻ quan tâm đến bất cứ sự thay đổi nào trong cơ thể của Ngài. Điều này khiến cho việc theo dõi tình trạng sức khỏe của Ngài trở nên rắc rối, vì không giống những người khác mang bệnh trầm kha, Ngài không hề than vãn về điều gì cả. Không bao giờ.”

- Đối với Lama Lhundrup, ước muốn làm người khác vui lúc nào cũng đi trước phúc lợi của Ngài. Khi chúng tôi lo ngại rằng những thay đổi về phương diện sinh lý trong cơ thể Ngài có thể cho thấy là Ngài đang đau đớn, tôi thử hỏi thăm Ngài. Cuộc đối thoại bắt đầu khá tốt đẹp, ‘Thầy có thấy đau không?’, ‘Có.’ ‘Thầy có thể cho con biết Thầy đau chỗ nào không?’ ‘Ở chỗ này.’ Thế là tôi lọt vào tình trạng của một ‘y tá lo âu’, khi tôi hỏi Ngài một câu tiếp theo. Thay vì trả lời câu hỏi của tôi, Lama Lhundrup nói với nụ cười thoải mái, ‘Con không thích sự đau đớn phải không?’. ‘Dạ không, dĩ nhiên là không, thưa Khen Rinpoche.’, Đó là câu trả lời đầy bối rối của tôi (Đâu có ai thích đau, đúng không?) Thế là Lama Lhundrup nói một cách giản dị, ‘Vậy thì ta không thấy đau.’ Rồi Ngài quay trở lại quyển kinh và tiếp tục buổi cầu nguyện buổi tối. Thế là cuộc đối thoại chấm dứtlý do lo lắng của tôi cũng chấm dứt ở đây.

“Một lần khác, khi chúng tôi lại đề cập đến cái đau, tôi hỏi Ngài muốn giảm đau bằng cách nào, Jo kể tiếp. “Ngài trả lời là, ‘Tốt hơn hết ta nên chịu nỗi đau này vì lợi ích của tất cả chúng sanh.’ Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu và bệnh tật của họ, để họ không phải đau khổ nữa. Đến nay, tôi ngờ rằng vì lòng từ bi của Ngài và để chúng ta bớt lo lắng, Ngài mới đồng ý uống một lượng thuốc giảm đau nhỏ, vừa đủ để giúp Ngài tập trung tinh thần lúc công phutụng niệm, nhưng không cần thiết hay cố ý chấm dứt cái đau hoàn toàn. Quan điểm của Ngài về bệnh tật chắc chắnvô cùng khác thường!”

Theo lời Karuna Cayton, Lama Zopa Rinpoche đã khuyên những ai buồn rầu vì bệnh tình của Lama Lhundrup là, “Con không cần lo cho Lama Lhundrup, vì thầy ấy đã hoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe trong suốt cả đời thầy.” Khi phản ảnh về điều này trong đầu tháng Tám, Karuna nói, “Tôi nghĩ phẩm chất này của Lama Lhundrup chỉ là một trong những phẩm hạnh khiến cho Ngài là một người vô cùng xuất sắc. Lama Thubten Yeshe là một vị thầy có tầm nhìn xa, một người có khuynh hướng nổi loạn, một vị thầy của thời kỳ phục hưng. Trong xã hội Tây Tạng truyền thống, đặc biệtxã hội của tăng già, người ta rất nghi ngờ sự đổi mới. Tuy nhiên, Lama Yeshe đã nhìn thấy một viễn ảnh mới cho người Tây Tạng lưu vongPhật tử ở vùng Hy Mã Lạp Sơn. Mặc dù các ý tưởng của Ngài có vẻ cấp tiến, theo tôi thấy thì Lama Lhundrup chưa bao giờ do dự trong việc nỗ lực hoàn tất ước nguyện của Lama Yeshe. Lama Lhundrup biết rõ cá tính phi thường của Lama Yeshe và vì thế, Ngài thường thực hiện các ý kiến của Lama Yeshe dựa vào niềm tin ở vị thầy này mà thôi.”

Năm 1995, Lama Lhundrup đã phát biểu với tạp chí Mandala rằng, “Nhiệm vụ chính của tôi là bảo đảm cho chư tăng có một nền giáo dục tốt và thái độ đúng đắn, thế là chúng ta đã hoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe, để cuối cùng, trong 15 năm nữa, sau khi tất cả những cậu bé này hoàn tất các lớp học, ít nhất họ sẽ biết đọc, biết viết Tạng ngữ, cũng như biết được triết lý căn bản, để họ có thể trở thành thông dịch viên, giảng sư hay bất cứ công việc nào khác. Tôi muốn họ có từ tâm và phẩm hạnh tốt; đúng vậy, đây là mục tiêu của tôi… Đây là tu viện chính của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche, nhưng hai Ngài không có thời gian để trông nom nó, nên tôi cần phải làm việc này cho hai Ngài, và tôi rất hoan hỷ.”

lamalhundrup-08

Lama Lhundup và Osel trong Kopan, tháng 7 năm 2011. Ảnh của Jo Hathaway.

Khi tình trạng sức khỏe của Lama Lhundrup ngày càng trở nên suy yếu, Karuna Cayton và Osel Hita đã quyết định đến thăm Ngài một thời gian ngắn, để tỏ lòng kính trọng một vị thầy và người bạn già của họ. Họ đến Kopan vào ngày 4 tháng Bảy mà không báo trước. Chỉ có Lama Zopa Rinpoche và thầy Roger Kunsang biết trước về việc này mà thôi. Trong sáu ngày ở Kopan, Karuna và Osel đã thăm viếng Lama Lhundrup hầu như mỗi ngày. Đây cũng là lần đầu tiên Osel trở lại Kopan sau 13 năm, nên đây cũng là chuyến về thăm nhà của Osel. Với sự yêu cầu của Lama Zopa Rinpoche, Osel đã có những buổi nói chuyện thân tình ở Ni Viện Khachoe Ghakyil và tại chánh điện của Tu Viện Kopan.

Karuna giải thích với tạp chí Mandala rằng, “Tôi nói về Lama Lhundrup như một người bạn. Tôi không có ý ngã mạn hay phạm thượng. Thầy là một kalyanamitra của tôi, người bạn tâm linh của tôi. Nếu bạn biết Lama Lhundrup, tôi tin rằng bạn sẽ hiểu ý tôi và chắc chắn bạn cũng sẽ xem thầy như một người bạn.”

Một Phật tử Tây phương sống ở Kopan 20 năm qua đã nhận xét về Lama Lhundrup như sau, “Nói tóm lại là Ngài đã biến Kopan thành một tu viện mà ta thấy ngày hôm nay. Ngài đã xây dựng các thứ từng bước một bằng sự kiên nhẫnquan tâm, thương mến, lắng nghe ý kiến của nhiều người và tuân theo chỉ giáo của các bổn sư (guru) của Ngài. Những nỗ lực này đã mang lại một Tịnh Độ Kopan.”

Cuộc đời, thành tựu và sự dấn thân của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel rất đáng được tán dương. Ngay lúc còn là một nhà sư trẻ, Ngài đã dấn thân phụng sự Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche, rồi dành thêm 40 năm sau đó để hoàn thành ước nguyện của hai Thầy. Ngài đã đóng vai trò người mẹ, người cha, người thầy và người bạn đối với vô số chúng sanh. Như Lama Zopa Rinpoche đã khen tặng nhiều năm trước, Lama Lhundrup “là một vị lama mà bạn có thể tin cậy hoàn toàn.” Xin bạn hãy cùng toàn thể cộng đồng FPMT tùy hỷ với sự dấn thân to tát của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup trong việc bảo tồn, quảng bá Phật pháptrông nom Tu Viện Kopan, trái tim của FPMT (Hội Bảo Tồn Truyền Thống Đại thừa).

Tháng Bảy năm nay, văn phòng của Kopan đã gởi đến Mandala lời yêu cầu sau đây: Hôm nay Lama Zopa Rinpoche, vị Guru Có Lòng Từ Tâm Nhất của chúng tôi, đã khuyên tất cả những ai có duyên lành với Khensur Rinpoche (đã nhận sự tham vấn, truyền khẩu, giáo huấn hay quy y với Ngài) có thể hành trì pháp tu Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát càng nhiều càng tốt, để tạo lợi lạc cho Khensur Rinpoche.

Các đệ tử khắp nơi trên thế giớiTu Viện Kopan đã làm rất nhiều puja (lễ cúng dường) và cầu nguyện cho Lama Lhundrup. Quý vị có thể tìm thấy bài công phu Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, các tin tức cập nhật về tình trạng sức khỏe của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup, cũng như các bài viết về Ngài của Geshe Thubten Sherab, Karuna Cayton, Ani Tenzin Jangsum, Jo Hathaway và các tác giả khác ở www.mandalamagazine.org.

Lozang Ngodrub chuyển dịch Việt ngữ

Bản Anh ngữ đã được đăng tải trong Tạp Chí Mandala, tháng 10-12, 2011.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14027)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39509)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15203)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13745)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13811)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37136)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39873)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14519)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14199)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12548)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14720)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19118)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13698)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42436)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13714)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37043)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12568)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11657)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22405)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12402)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12461)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 12901)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 12994)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17165)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33035)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14679)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 10959)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12330)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11865)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11829)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13045)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51035)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12287)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6516)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30232)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13038)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13213)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30486)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19204)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12388)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11693)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14627)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13103)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13085)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30483)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 11928)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11745)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12598)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31711)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29239)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11708)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11659)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10331)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11459)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9542)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9553)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9848)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35206)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10063)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10008)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 9957)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9555)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27614)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15355)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9751)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13569)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9753)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9591)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18161)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 11962)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9483)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9600)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8609)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8831)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8311)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11345)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31525)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12223)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13209)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8720)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9334)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11812)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9118)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 8989)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9541)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29179)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 8982)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9008)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33055)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8348)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30439)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31046)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 36828)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32048)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9832)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 26844)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8317)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19111)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12915)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9672)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant