Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Solukhumbu du ký

16 Tháng Hai 201300:00(Xem: 14907)
Solukhumbu du ký

Khởi hành

Trong đoàn có cả người Thái Nguyên, Thanh Hóa, Đà Lạt, người Hoa, một kịch tác gia, một NSƯT điện ảnh, một diễn viên hải ngoại là người công giáo nhưng ngưỡng mộ đất Phật nên hành hương cùng đoàn, có nhiều nhóm là cả gia đình, còn lại là dân Sài Gòn và Hà Nội, đủ cỡ tuổi tác, ngành nghề, đẳng cấp khác nhau. Người có kinh nghiệm nhiều nhất về lãnh thổ Nepal là thầy Thích Trí Không nên “ưu tiên” được làm “hoa tiêu”. 

Khoảng 18 giờ ngày 15/8/2012, hơn 2 chục người chúng tôi lần lượt có mặt tại ga hàng không Tân Sơn Nhất làm thủ tục bay. Khi quá cảnh một đêm tại sân bay Thái Lan thì có thêm hơn 20 người nữa ở Hà Nội vào trong đó có một tốp vừa đi Tây Tạng về đã cùng chúng tôi bay tới Nepal, tổng cộng đoàn có 55 người.

Tới Katmandu sau khi nghỉ ngơi, ngay chiều hôm đó chúng tôi đi nhiễu Đại bảo tháp Bouddhanath. Sáng hôm sau, thầy Trí Không đưa chúng tôi đi thăm ngôi nhà của Thánh Trulshik và Tu viện của Ngài Dudjom Rinpoche ở Tusal, đến trưa thì được diện kiến Ngài Tulku Pema Wangyal Rinpoche và Ngài Jigme Khyentse Rinpoche ở khách sạn Hyatt, buổi chiều cùng ngày đến thăm Ngài Sodnam Jorphel Rinpoche tại nhà riêng có tên là Dharmaraja Foundation. Nhờ công đức tu học của thầy Trí Không mà ngày đầu ở Nepal thầy đã kết nối chúng tôi được diện kiến 3 vị Rinpoche tại Katmandu.

Sáng 18/8, khởi hành đến vùng núi Solukhumbu, đoàn 55 người phải chia ra 2 đợt mới bay hết. Đặc biệt tại sân bay này có các hãng Hàng không: Buddha, Tara, Mandala… dù khách là tôn giáo nào đến sân bay này đều bay trên các Hãng mang danh hiệu của Phật. Chúng tôi bay trên chiếc 9N – AEV của hãng Tara Air, cưỡi trên mây nhìn xuống “hạ giới” thấy ruộng xanh, suối uốn ngoằn ngoèo, những ruộng bậc thang như vân tay người, vạn vật đẹp lộng lẫy như gấm. Khi hạ cánh xuống Phaplu là mặt trời đứng bóng, đồi núi xanh ngát gối đầu nhau bao quanh sân bay, núi sát mây, mây liền trời. Giữa trưa ngày đầu mùa thuánh nắng vàng đặc sánh như mật ong tô rõ nét các triền núi xanh đậm hơn. Phaplu nằm trong vùng núi Solukhumbu, phía nam của đỉnh Enverest gần biên giới Tây Tạng, lần đầu tiên đứng giữa không khí loãng trên độ cao gần 4 ngàn mét của dẫy Hy Mã Lạp Sơn này cảm giác người hỗng nhẹ khiến ai nấy yên lặng để cảm nhận không gian kỳ lạ. Tuy nắng dịu nhưng tia cực tím rất mạnh, nếu không che nắng kỹ thì sẽ nám da, mấy ngày sau sẽ tróc da từng mảng. Trong khi chờ trực thăng để bay tiếp lên Tu viện Thubten Choling, chúng tôi ới nhau ra chụp hình, với những ai lần đầu tới đây thì coi là giây phút, là hình ảnh cần phải lưu lại suốt cuộc đời. Nếu tới Katmandu được coi là đất Phật thì đến được Phaplu coi như đã chạm được vào cánh cửa cõi Chư Thiên.

Từ Phaplu nếu lội bộ lên Tu viện khoảng 10 tiếng đồng hồ lại cồng kềnh hành lý nên cả đoàn rủ nhau… bay. Phải 10 chuyến trực thăng mới tải hết 55 người, đám thanh niên phải bay trước để đón các “ama” bay lên sau. Tới sân bay của Tu viện Thubten đã có thầy Thắng đang tu học trên đây, một thầy tu người Châu Âu và vài tu sĩ cùng nhóm Phật tử trai tráng khuôn vác hành lý của những phụ nữ liễu yếu và của các “bô lão” chân mềm vai gầy. Tốp người thứ hai chúng tôi gặp là các Ni vừa đi chợ về, mỗi người gửi đến vài chục ký rau, củ, quả, các Ni chào chúng tôi với nụ cười hiền như thánh nữ.

Mặc dù thầy Trí Không dặn mang chăn hoặc túi ngủ, áo ấm, nhưng trong phòng nghỉ đã có sẵn chăn len xù của Hàn Quốc ấm ơi là ấm. Phòng nam riêng, phòng nữ riêng, nhưng bên nam thỉnh thoảng vẫn nhảy dù sang bên nữ “tán dóc”. Trong đoàn có 3 tuổi teen đều có tên là “Anh”: Nam Anh, Phan Anh, Quang Anh, “nhóc” Nam Anh là “chuyên gia” chụp ảnh trộm những ai ngủ gật ở sân bay kể cả trong phòng ngủ ở trên núi. Người thì nằm co hình chữ S trên ghế, ông thì nằm hình chữ Y trong phòng, người thì ngủ giơ 2 tay kiểu “tôi xin hàng”, có người cổ ngoẹo một bên miệng há như chờ sung rụng, ai xem cũng cười ngặt nghẽo, thầy Trí Không cười thành tiếng. Cái trò “siêu quậy” của cậu bé ai nấy vui quá là vui.

Buổi tối, cả 2 phòng trước khi ngủ từng nhóm nằm cạnh nhau là “15 phút thời sự” chuyện trên trời dưới đất, từng chuỗi cười râm ran tới khuya, khi chìm sâu vào giấc ngủ là dàn giao hưởng được xướng lên bằng mũi đủ bè trầm bổng tràn ngập căn phòng. Sáng dậy người này nói nghe tiếng ngáy của người kia nhưng lại không biết chính mình cũng ngáy không thua ai. 

Ăn trên Tu viện Thubten Choling

Bếp ở dưới tầng hầm của Tu viện, có đến trên 20 tu sĩ phục vụ trong bếp. Nơi ăn ở cái sân rộng trước cổng Tu viện được che bạt, đĩa cơm chay đầu tiên đã nhập vào trong cơ thể mỗi người nhiều thi vị từ thực phẩm đến tình cảm của nhà bếp dành cho Phật tử Việt Nam như đón những người con cưng từ xa trở về. Các Tăng, các Ni làm bếp thông qua thầy Thắng và cô Bảo Hương (đang học tại Tu viện) cũng ra phụ bếp biết được khẩu vị của chúng tôi nên bữa ăn hợp khẩu vị hơn. Những món ăn được nấu từ những thực phẩm giá trị dinh dưỡng của vùng núi Solukhumbu giàu chất vitamin A cung cấp folate, chất xơ, canxi, lutin, kẽm như khoai tây, cà rốt, rau cải xanh có khả năng giúp sáng mắt. Ngoài ra còn có bột đại mạch (bột tsampa) chứa rất nhiều canxi, phot pho và magiê cần thiết cho sự phát triển xương. Bữa nào cũng vậy, khi chúng tôi ăn gần xong lại được các Tăng – Ni mang giỏ táo, lê, bánh, kẹo ra mời, loại táo của vùng núi Solukhumbu nhỏ nhưng ngọt đậm, và những loại trái cây có chứa chất cacbonhydrat, vitamin C, kẽm, folate, chất xơ, có khả năng bảo vệ tế bào cùng với nụ cười luôn tươi trên gương mặt vất vả bếp núc của các Tăng, các Ni. Người viết bài này nói nhỏ với thầy Thắng “văn hóa phục vụ hơn cả nhà hàng 5 sao”. “5 sao” không phải phương tiện phục vụ mà ở tâm từ bi của các vị tu sĩ làm bếp đã tạo thêm tình cảm mật thiếttăng trưởng các giá trị văn hóa về tâm linh trong chúng tôi.

Đàn Quạ

Tháng 8 ở Việt Nam là mùa mưa, ở đây cũng vậy. Mây mưa xà thấp ngay trên đầu, cảm giác như mình sẽ hòa lẫn trong mây. Khi mưa tạnh mây quang, gió mọng nước mát lạnh phả vào mặt, dưới thung lũng hiện lên những làn hơi nước uốn khúc ôm ngang sườn đồi như rồng mây. Mây ở vùng núi này thật kỳ lạ, từng giải mây nhỏ như rồng bay từng đàn, có lúc giống các Chư Thiên cưỡi sư tử hoặc cưỡi rồng trên không, khiến chân tôi nhiều lần dừng chân lưu rất lâu hình ảnh này vào ký ức.

Chưa bao giờ thấy ở đâu nhiều quạ như trên vùng núi này, nơi không ai sát hại, không làm tổn thương hoặc làm chúng hoảng sợ bao giờ. Được sống yên ổn trên vùng đất Thánh nên tháng tháng, năm năm trôi qua, quạ cứ nhân số lên. Ánh nắng đầu tiên trong ngày đã nghe tiếng khàn khàn “quà quà” như giọng ngái ngủ của chúng gọi gia đình, họ hàng của chúng ngóc đầu dạy đón mặt trời. Những tán cây, những cành cao, trên các mái nhà đều có quạ, chúng nghếch cái đầu thách thức với cái lạnh 12oC của ban mai. Không biết tự bao giờ, quanh Tu viện đã trở thành “vương quốc” chủng tộc quạ, suốt ngày bầy đàn từ thế hệ này đến thế hệ khác chỉ một chuỗi giọng đơn điệu “quà quạ” như điệp khúc tẻ nhạt tồn tại trên cao xanh, những âm giọng này lại chính là thông điệp an bình, thông điệp hạnh phúc của sự sống, là được nương tựa lòng từ ái mà những vùng đất của người phàm chỉ biết tiêu diệt mà không đủ lòng từ để bảo vệ chúng. Do vậy, tiếng quạ người ta gọi là “kêu”, nhưng riêng chúng là tiếng hót, hàng ngày hót, kiếm mồi và nghe tụng kinh. Nhớ câu chuyện nói về “sự nghe” của một con sáo trong kinh điển Phật Pháp. Có con sáo hàng ngày nghe được sư thầy tụng kinh, trước khi thọ mãn nó báo mộng cho sư thầy, nói: “Thầy ơi, con tái sanh trong một gia đình ở dưới chân núi thầy hãy tìm con, nhận con theo tu học với thầy”. Sau đó thầy được biết con sáo thường đậu trên cây bên ngoài nghe thầy tụng kinh, nhờ đó mà con sáo có được năng lực và được phước báo. Cho nên với họ hàng nhà quạ cuộc sống ở đây trở thành vô giá với chúng.

Lễ giỗ 

Thánh Kyabje Trulshik Rinpoche đã dạy rất nhiều vị thầy, trong đó có Dalai Latma 14. Ngài là một trong số các đạo sư của Đức Sakya Trizin, Ngài đã truyền bộ pháp Rinchen Terdzo cho đức Pháp vương Gyalwang Drukpa ở tu viện Thubten Chöling và truyền các tập giáo lý quan trọng cho Dilgo Khyentse Yangsi Rinpoche, Dudjom Yangsi Rinpoche và nhiều bậc trì giữ các dòng truyền thừa khác của Tây Tạngtu viện Shechen ở Nepal, bao gồm Damngak Dzö, kinh điển của dòng Nyingma và Nyingtik Yabzhi. Song song với việc xây dựng Tu viện mới Dzarong Mindrol Thubten Dongak Choling ở trên Sitapaila, ngoại ô thủ đô Kathmandu.

Lễ cầu nguyện giỗ 1 năm Thánh Kyabje Trulshik Rinpoche mỗi ngày 3 thời liên tục nhiều ngày tại Tu viện Thubten Chöling. Khi chúng tôi có mặt tại Tu viện thấy lễ cầu nguyện đã diễn ra trước đó không rõ là mấy ngày. Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành, quỳ trước linh ảnh của Thánh lòng con không thổn thức nhưng nước mắt vẫn tuôn trào, con muốn quỳ mãi trước Ngài như người con bị lưu lạc nhiều năm chốn vô minh nay mới biết tìm về đất tổ. Gần một đời người nặng vì đạo niệm cao khiết, nay quỳ trước bậc đức hạnh của Thánh, xin Ngài hãy gia trì cho chúng con được nương thuyền trí tuệ để tu tập, chú tâm vào chánh Pháp và đi mãi trên con đường lành của Đức Phật”.

Hôm sau Tu viện đón thêm 4 vị Thánh Tăng cao cấp, trong đó có Ngài Dudjom Yangsi Rinpoche, Ngài Tulku Pema Wangyal Rinpoche, Ngài Jigme Khyentse Rinpoche… Để báo tin các Ngài đã xuống sân bay của Tu viện, trực thăng lượn 1 vòng, các tu sĩ đứng dọc hai hàng dài trên tay nâng khăn khata chờ các Ngài đi ngang qua ban phước. Trên nóc Tu viện hai vị Larma với 2 cây kèn Tongqin dài 5 mét dóng lên những tiếng âm thanh kỳ vĩ nhân lên cảm xúc của gần một ngàn tu sĩPhật tử trong và ngoài nước có mặt tại đây. Nhiều người không nén được cảm xúc mừng Thánh ân như đón những người cha trở về mái nhà thiêng khóc sướt mướt. Chiều hôm đó, hào quang cầu vồng rực rỡ ngự trên sườn núi sát Tu việnthời lượng khoảng 20 phút, mọi người đều mang máy ảnh, điện thoại ra lưu giữ ánh hào quang báo thân của Thánh.

Trong những buổi lễ, qua từng bài kinh trì niệm trỗi dậy âm thanh hùng mạnh nhạc lễ Phật giáo hoành tráng, tôn nghiêm thỉnh mời hoặc tiễn đưa các Chư Phật, Chư vị Bồ Tát. Không phải tiếng gió thổi từ biển, không phải âm vực tâm linh vọng về, những chủng âm từ kèn Tongqin trung (loại kèn không có lỗ bấm điều tiết giai điệu, âm thanh lớn hơn kèn tây tompet), ốc loa, trống Chod, trống damaru, tiếng xập xõa cổ xưa… tiết tấu lúc nhanh, lúc đều đều như nhịp đập trái tim của thần núi, rền vang như sấm từ trên cao dội xuống khắp 10 phương trời đánh thức núi rừng, như thác từ nguồn dội về, như gió thiêng từ bốn bề vũ trụ, hòa tan rồi nhập lại thấm sâu vào lòng đất. Tiếng cầu nguyện trầm hùng như phát ra từ gió, nước và lửa, vùi đi những trầm luân của trần ai, chuyển tải nhiều tầng ngôn ngữ của thân – khẩu – ý được hợp nhất từ âm nhạc diễn tả năng lực từ bi tạc vào cao sơn từng chuỗi ngôn ngữ âm thanh chánh giác của giáo lý Phật giáo, là thông điệp chiến thắng trầm luân giữa vùng Solukhumbu linh thiêng và hùng vĩ.

Suốt 5 ngày dự lễ có nhiều Phật tử địa phương cúng dường Chư Phật và cho Pháp hội, các vị Thánh Tăng cao cấp, Phật tử các nước và Phật tử Việt Nam đều được hưởng lộc này và kinh Pháp dòng Mindroling bình đẳng như nhau. Ngày lễ cuối, hàng ngàn Phật tử vùng của Solukhumbu, Katmandu và các vùng lân cận lên xếp hàng rồng rắn ngoằn ngoèo đảnh lễ linh ảnh của Thánh Trulshik và đảnh lễ các vị Rinpoche suốt buổi chiều mới hết rồi họ lại lặng lẽ ra xuống núi. Tuy là những người dân chân chất nhưng không ồn ào, không chen lấn, thể hiện lực tu tiến rất văn hóa, dường như tham – sân – si đã được tịnh hoá khỏi thân tâm họ. Đó là điều đáng làm cho Phật tử Việt Nam phải học hỏi từ họ. Tối cùng ngày, Ngài Tulku Pema Wangyal Rinpoche đã có bài giảng Pháptruyền khẩu thần chú 12 vị Phật cho các Tu sĩPhật tử nước ngoài và Việt Nam.

Tối 19/8, Ngài Jigme Khyentse Rinpoche đã giảng Pháp cho các tu sĩPhật tử: “Trong 48 vạn Pháp môn của Đức PhậtPháp môn Tứ Diệu Đế nói đầu tiên cách tu về cái khổ. Chẳng ai làm cho mình khổ cả, mình tham – sân – si tưởng rằng mình sẽ được hạnh phúc thực ra là hàng ngày mình đối diện với nó là đối diện với cái khổ. Vì vậy, làm sao tu cho bớt khổ?…” Đúng vậy, đời người vấp bao nhiêu chướng ngại là bấy nhiêu thất vọng, nhờ con thuyền trở đầy tình thương của Đức Phật để mà biết tu, mà buông xả, mà biết phát tâm từ bi với chúng sanh, đó là cách tốt nhất báo đáp Thánh Ân của các Ngài. Hôm sau Ngài Jigme Khyentse Rinpoche còn cho chúng tôi xem 10 báu vật của Đức Phật và nghe Ngài giảng chi tiết lai lịch từng phần một. Nhưng tôi không được phép tiết lộ trên bài viết này.

Sáng 20/8 chúng tôi được lên thăm Thánh tích của Ngài Trulshick Rinpoche nhập thất trên một ngọn núi cao chót vót sát với Tu viện. Ngài là bậc thầy của Dalai Latma và của nhiều vị bậc thầy khác. Ngài đã dành cả cuộc đời không chỉ tu hành mà còn nghiên cứuthực hành tất cả các giáo huấn và trao truyền các Pháp tu quan trọng cho các đệ tử cao cấp của mình. Ngài đã giành khoảng 60 năm trong cuộc đời để nhập thất. Việc leo núi lên thăm Thánh tích là không thể thiếu trong chuyến hành hương này. Các bô lão có cặp giò “èo uột” đi trước, có người hỏi thầy Trí Không “đi có xa không?” Thầy nói “chỉ chút xíu là tới nơi”, ai dè leo đường núi dốc quanh co, chênh vênh, hun hút cả tiếng đồng hồ, miệng mũi tranh nhau thở, tôi còn bị vắt hỏi thăm “gầm” lên inh ỏi. Bù lại, dọc 2 bên đường rất nhiều hoa núi, đám “teen” thỉnh thoảng dừng chân nheo mắt chĩa ông nhòm không bỏ lỡ nét đẹp hoang dã của vùng núi Solukhumbu. Lên tới nơi mới thấy mình có phước lớn được đến nơi Thánh đã nhập thất ở căn nhà nhỏ này. Cách đó không xa là ngọn núi đá có những vỉa nhô ra như ô văng mái hiên, chắc Ngài thường tọa thiền tại đây, trên mặt vách đá còn in dấu tay của Ngài, các Phật tử đã dâng khăn khata và đặt tay lên dấu Thánh tích. Đây chính là chốn vắng anh linh này Thánh Trulshik đã chọn là nơi tu hànhxây dựng Tu viện Thubten Chöling. Lối mòn sườn núi này đã in dấu chân Thánh biết bao lần qua nơi đây. Khi xuống núi, đi giữa thinh không, tôi nhớ đến lời của Ngài Jigme Khyentse Rinpoche hôm giảng Pháp: “… Các con không phải đang ngồi trong Tu viện mà đang ở cõi Chư Thiên rồi”. Tôi hiểu cõi Chư Thiên chẳng ở đâu xa hay trong quán tưởng. Các Chư Phật, các vị Bồ tát trước kia cũng là con người, do trình độ giác ngộ thực hành Thập thiện mà được phước báo đạt quả vị. Còn chúng tôi chỉ tu tại gia giữ được 5 giới còn khó, hôm nay có phước duyên lên đất Thánh thì đây là cõi Chư Thiên quả là không sai”. Trulshik Rinpoche không những là một vị Thánh, Ngài còn là một nhà thám hiểm tài ba dày công phát hiện ra vùng núi Sulokhumlu này, nhiều năm tu hành nơi đây Ngài phải trải qua không ít trắc trở, khó khăn về ăn, ở, sinh hoạt, để rồi ngày nay cùng các đệ tử tạo nên cõi Chư Thiên này.

Tối 22/8 trước khi về Katmandu, thầy Trí Không đưa chúng tôi lên thăm Ngài thị giả của Thánh Trulshik, được Ngài ban phước, khăn khata, thuốc Thánh và Linh phù Cát tường. Sáng hôm sau, hai Ngài thị giả của Thánh Trulshik xuống tận sân bay trực thăng của Tu viện để chia tay Phật tử Việt Nam. Con ngựa bạch của Thánh Trulshick cũng lẳng lặng xuống tận đây ngó theo lưu luyến, cảm giác như hình bóng Ngài vẫn trên yên ngựa dõi ánh mắt thánh hiền với chúng sinh. Ngài đã linh ứng bảo vệ cho chúng tôi trong các chuyến bay trong mùa mưa to, gió lớn này được an toàn. Nhớ hôm trước giờ bay từ Katmandu lên đây trời mưa ào ào, khi chúng tôi chuẩn bị ra sân bay trời lại quang, gió lại ngừng. Trong suốt mấy ngày lễ mưa ròng rã, trước ngày về mưa suốt đêm, ai nấy nghĩ rằng có thể trực thăng không thể bay trong điều kiện mưa như thác đổ như vậy, nhưng đến 7 giờ thì nắng như dát vàng trải đều trên Tu viện Thubten Chöling cả vùng núi Solukhumbu khô ráo như chưa từng có trận mưa nào, bừng sáng như ánh hào quang của cõi Chư Thiên nguy nga. Có lẽ đây chính là quyền năng vô song ý nghĩa tâm linh huyền bí sâu xa này đã khiến cả thế giới muốn tìm hiểu.

Katmandu

Hầu hết các khách sạn ở đây sự dụng điện từ năng lượng mặt trời. Bước ra khỏi nơi nghỉ của chúng tôi chừng chục mét là đã trực diện với đôi mắt đầy minh triết Uy – Bi – Trí của Đức Văn Thù trên bảo tháp Boudhanath, bốn phía Bảo tháp đều có mắt Phật và mắt thứ 3 tượng trưng thông nhãn siêu việt. Đây chính là công trình văn hoá Phật giáo giá trị nhất của Nepal, ai đã đến bảo tháp việc đầu tiên là nhiễu quanh Tháp. Ngày đầu những người mới nhiễu tháp 3 vòng là mỏi gối, ngày sau quen dần tăng số vòng nhiễu tháp lên 7, 9 rồi 13. Mấy cô gái Hà Nội cùng đoàn chúng tôi còn đã phi thường nhiễu tháp từ 19 giờ đến 23 giờ được 100 vòng. Cái lần nhiễu tháp được 13 vòng, lúc ấy mệt muốn hụt hơi chỉ cần ai dí ngón tay ẩy nhẹ một cái là tôi loạng choạng lăn ra. 

Thầy Thích Trí Không lại đưa chúng tôi lên Tu viện Drikung Rinchen của Ngài Sodnam Jorphel Rinpoche ở Palri. Ngài rất vui, mang trái cây, bánh kẹo, nước hoa quả, pha trà cho chúng tôi. Sau khi ban phước, Ngài lại cho thuốc Pháp. Mấy ngày kế đó thầy Trí Không đã đưa chúng tôi đi thăm tiếp nhiều Thánh tích Phật giáo khác. Mỗi điểm đến, như được tiếp thu thêm năng lực của các Chư Bồ Tát, hiểu thêm về văn hóa tu của người bản địa. Những kiến trúc cổ từ đền đài đến nhà ở tại các địa phương đều mang dấu ấn kiến trúc của Tây tạng, khắc sâu trong tâm thức hơn cả là những nơi có tượng của Phật, như lên đỉnh núi Phamthings và thăm động Asura, động này có từ thế kỷ thứ VIII, trong động Asura có tượng của Đức Liên Hoa Sanh, bên ngoài có dấu tay của Ngài để lại trên vách đá. Theo sử chép lại, Đức Liên Hoa Sanh trên đường từ Ấn Độ qua Tây Tạng đã dừng lại tu tập nơi đây và thành tựu pháp tu Kim Cương Tát Đỏa. Cũng trong khu Phamthings có tượng Đức Quan Âm Tara tự sanh, đền Yanglesho là nơi Đức Liên Hoa Sanh thành tựu pháp Dorje Phurba. Thăm một tuyệt tác điêu khắc trên đá mà dân địa phương vẫn coi là bức tượng Đức Quan Âm tự hiện được 9 thần rắn nâng đỡ nổi trên mặt nước.

Chúng tôi may mắn hành hương cùng một vị Tăng trẻ là thầy Trí Không, thầy đã dành nhiều thời gian trong tuổi trẻ của mình để tu học và là một vị Tăng đầu tiên của Việt Nam tu học Mật giáo ở Nepal và Tây Tạng. Cho nên những người trong đoàn nói nhỏ với nhau được hành hương cùng thầy là một sự may mắn, đó là lý do đoàn đi đông người như vậy. Thầy như con thoi không nề hà việc gì, lăn xả vào tất cả những việc từ nhẹ đến nặng, việc khó, luôn vui vẻ, thông minh cởi mở và chân tình. Trong đoàn ai cũng đánh giá cao lòng từ, giới nguyện, giới đức của thầy, lớp trẻ thì kính quý, lớp bô lão thì quý trọng. Đành rằng là một vị Tăng thì ai cũng có tâm Bồ Tát, nhưng thầy Trí Không có một lực tu học uyên thâm đã tác động mạnh đến Phật tử không phân biệt tuổi tác học hỏi theo. Nhiều năm thầy học ở Tây Tạng và ở Nepal, tiếng Anh, tiếng Phạn thầy đều thông thạo, thầy đã mang những kiến thức thâu nạp được từ kinh điển giáo Pháp sâu rộng của các bậc Sư phụ tôn quý về Việt Nam không tiếc thời gian hướng dẫn Phật tử tu học. Học được ở thầy rất nhiều về bản lĩnh và phương pháp tu học, cách ứng xử với đạo hữu, đó chính là nền tảng từ biđức hạnh căn bản của người tu hành.


solukhumbuduky-01

solukhumbuduky-02

solukhumbuduky-03

solukhumbuduky-04

solukhumbuduky-05

solukhumbuduky-06

Bức tường tại cửa đền Vajrayogini

solukhumbuduky-07

Các chú Tiểu đang học ở Tu viện Drikung Rinchen ở Palri

solukhumbuduky-08

Cụm tháp nhỏ trong di tích Swayambu

solukhumbuduky-09

Ngài Jigme Khyentse Rinpoche

solukhumbuduky-10

Tu viện Dzarong minling Thubten Choling của Ngài Trulshik tại Sitapaila

solukhumbuduky-11

Tu viện Thubten Choling tại Solukhumbu

solukhumbuduky-12

Tượng Quan âm và 9 thần rắn Nalantha trên mặt nước

solukhumbuduky-13

Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Mười Một 201406:39
Khách
Bài viết này link lại, sao không có tên tác giả?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10025)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10428)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10042)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20194)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11508)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13668)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 18903)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46532)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 11995)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11550)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 22879)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17717)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10037)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17567)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13788)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 13923)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 14964)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20155)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18107)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17242)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18019)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12596)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12697)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13287)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 16873)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11377)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18164)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18460)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21211)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 21950)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16734)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12468)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15230)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24333)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14131)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11528)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19511)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13276)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22677)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18874)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18342)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21487)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20434)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19900)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13954)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 13716)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15016)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17103)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15148)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12732)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15775)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12846)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13020)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 14929)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22493)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7065)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19227)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37371)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9042)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8523)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17745)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14793)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 26877)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19771)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15179)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15366)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26679)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14460)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19526)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14486)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18541)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15797)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16229)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19246)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19613)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19814)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18519)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29654)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14486)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17650)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32227)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15195)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17200)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29611)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31344)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64494)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32648)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20076)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18420)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30668)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19788)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45775)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32449)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39177)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40257)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 49919)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19010)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18453)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20579)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19304)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant