Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thubten Choling không xa

23 Tháng Hai 201300:00(Xem: 14060)
Thubten Choling không xa


Cứ mỗi dịp tết Losar của Tây Tạng từng đoàn Phật tử trên thế giới trong đó có nhiều đoàn Việt Nam lại hành hương về đất Phật ở Nepal để viếng các thánh tíchtham dự các lễ hội. Dịp này Phật tử Việt Nam lại đi về phía ánh sáng của Đức Phật trên Tu viện Thubten Choling ở vùng đất thiêng Solukhumbu.

Tình đạo hữu

Nhớ lại lần chúng tôi về Tu viện tháng 8 năm 2012, vậy mà đã 6 tháng trôi qua. NSƯT Minh Đức cảm động nhắc lại: “Nhớ Thubten Choling quá chừng, nhớ như in từng việc một trong những ngày ở trên ấy. Cứ như mình vừa mới ở Nepal về…”

Vâng, đó là tour hành hương do chúng tôi tự tổ chức sang Nepal. Một chuyến đi giàu có những kỷ niệm đẹp, mỗi lần nghĩ đến lại nao nao nhớ về tình bạn hữu lo cho nhau từng tí một trong chuyến đi.

Cái đêm rời Việt Nam ngủ tại sân bay Bangkok để sáng sớm bay đến Katmandu, tôi đang ngồi gặm bánh mì cũ “dai như quai guốc” thì chị Bê đến bên ngoắt tôi: “Chị ra đây uống thuốc”, chị đưa tôi tới chỗ chị Thảo ngồi cách tôi mấy dãy ghế. Chị Thảo đang ngồi tẩn mẩn với một bọc lủng củng các loại thuốc. Tôi chưa kịp hiểu gì thì chị Thảo nói: “Thuốc của bạn đây, ăn sáng đi rồi uống 2 viên Tuần hoàn não và Tanakan nhé”. Có lẽ các chị biết tôi bị huyết áp thấp và đau tiền đình nên đã lo cho tôi, tôi ngoan ngoãn làm theo, nhờ vậy khi ngồi máy bay đến Katmandu tôi tỉnh như sáo.

Rất may là tôi và NSƯT Minh Đức được thầy Trí Không xếp ở chung phòng với chị Thảo, chị Thảo đã từng đi Nepal nên có kinh nghiệm hơn. Vừa nhận xong phòng nghỉ thì 2 chúng tôi thấy chị Thảo biến mất hút. Lát sau thấy chị trở về trên tay cầm một bịch đựng mấy thứ rau. Chị đã gần 70 tuổi, chân ướt chân ráo chẳng quản mệt nhọc đã tranh thủ đi mua rau, còn tôi thì chỉ biết nằm tán dóc với chị Đức. Tôi kính nể đã gọi luôn chị Thảo là “chị cả”. Những ngày sau, ngoài những lúc tụng kinh và nhiễu Bảo tháp, chị lại nấu mì cho tôi và chị Đức ăn.

Vì tôi và chị Đức còn ngô nghê với Katmandu nên đã được chị hướng dẫn cách nhiễu Đại bảo tháp, chỉ chỗ lễ lạy, cách cúng dường hương trong khuôn viên Bảo Tháp, kinh nghiệm ăn uống, mua sắm Phật cụ v v… tôi lại gọi chị là… “sư tỷ”, nhưng thỉnh thỏng chúng tôi cũng chọc ghẹo nhau cười vui như khi còn trẻ. Chưa hết, cái túi tiền của dân nghèo thành thị của tôi quá khiêm tốn nên bị thiếu tiền mua sắm, chẳng chờ tôi hỏi vay, chị Thảo tự nguyện cho tôi vay thêm tiền, nhưng sau đó chính chị thiếu tiền lại đi vay người khác. Mấy nữ Phật tử ở Hà Nội và một số bạn nam tuổi teen đi cùng đoàn mỗi lần leo núi luôn đi gần những người lớn tuổi hay “cài số lùi” khi chùn chân mỏi gối dễ bị lạc. Suốt thời gian trên đất Phật, chúng tôi sống với nhau, lo cho nhau từng đôi tất chân, đôi dép, ngụm nước thuốc uống hàng ngày. Chân thật, hỷ xả, an lạc, gần gũi, gắn bó, nâng cao giá trị sống của tình đạo hữu.

Thubten Choling

Qua 2 lần cưỡi mây bằng máy bay tới Solukhumbu. Khi rời khỏi trực thăng, chúng tôi theo bước chân người thầy xưa ngược lên lối mòn dốc núi, hai bên sườn núi ngợp cây cao bóng tỏa. Ngẩng lên nhìn ánh trưa ken qua vòm cây thơm hương rừng nguyên sinh như thanh lọc thân tâm từng người đang hổn hển lần bước đi lên.

Solukhumbu là một địa danh nằm trong khu vườn quốc gia Sagarmatha một trong 75 huyện thị của Nepal, nằm ở phần phía bắc dãy Everest, dân bản địa là người dân tộc Rai và người Sherpa. Vườn quốc gia Sagarmatha đã được UNESCO công nhậndi sản của thế giới. Tu viện Thubten Choling được dân địa phương và du khách quốc tế coi là một công trình nổi tiếng của Everest.

Từ phòng nghỉ lên Tu viện, chúng tôi lần lượt qua trên 113 bậc thang dài mà không có cảm giác rời rạc khúc đoạn, liền lặc nhau một giải như cung mây nâng bước lên khung trời chánh giác.

Đặt chân lên từng bậc thang được xếp bằng đá, chúng tôi ngạc nhiên có những viên màu nâu, có viên vàng như rỉ sắt, đỏ như bazan, có viên hơi xanh ngọc, như thạch anh, có viên như đá silicat, tất cả đều óng ánh, lấp lánh như bạc. Giống như loại đá magma, chúng tôi lựa viên nhỏ mang về thử đập ra thì thấy có những vụn li ti óng ánh rơi xuống, đó là mica. Có thể xưa kia khi bề mặt trái đất nung chảy đông nguội nhanh đã tạo thành khoáng chất này. Có vài chị đã chọn những cục đá đẹp mang về thuê thợ khắc tượng Phật.

Thubten Cholling hiện lên giữa một trời sương bao phủ, vờn mắt với cảm giác chơi vơi, bay bổng. Những cảm xúc mới mẻ lấp lánh đủ màu sắc trong tâm hồn. Ngày đầu Ngài Kyabje Trulshik Rinpoche đặt chân tới vùng Solukhumbu dựng lên ngôi tịnh thất đơn sơ để có chỗ tu hành, dấu ấn ngày đầu ấy cũng đã qua đi nửa đời người. Có lẽ Ngài cũng không ngờ rằng ngày nay Thubten Choling đã trở thành công trình Phật giáo của thời đại trên Thánh địa.

Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma truyền thống tại Nepal. Vẻ đẹp kiến trúc của Tu viện như một đóa sen mọc lên giữa một vùng môi trường với thảm thực vật bạt ngàn thông xanh và cây rừng nguyên sinh. Một công trình văn hóa Phật giáo mang phong cách nghệ thuật kiến trúc Tây Tạng đã thu hút biết bao lượt tu sĩ Phật giáoPhật tử trên thế giới, các đoàn du khách đủ các quốc tịch, màu da, tôn giáo đến Tu viện tham quan, thiền và làm từ thiện.

Trong giờ phút xả thiền, lữ khách có thể đưa mắt ngắm nhìn thật kỹ từng họa tiết hoa văn trên các xà ngang, xà gồ, vì kèo, vòm trần trong nội thất. Những đường hoa văn không phải là hư cấu mà dựa trên những hình tượng thực tế của thiên nhiên, qua những bàn tay nghệ nhân đã ước lệ hình tượng bông sen, hoa Mandala, giải mây ngũ sắc có tính hình học, nối tiếp nhau như một mối liên kết đan quện bền chặt.

Đối diện Thánh điện là tượng Đức Thích Ca và các Chư Phật. Quanh các bức tường là những bức Thangka. Một loại hình hội họa vẽ về trời, Phật, Bồ tát, Thần, Thánh, là những vị nắm giữ vai trò quan trọng trong Phật giáo. Qua những bức tranh Thangka có thể hiểu phần nào về lịch sử Mật giáo Tây Tạng từ thời cổ xưa lưu truyền đến ngày nay. Thông qua hình thức nghệ thuật tôn giáo mang tính nghi thức đa đạng ấy, mỗi bức Thangka mô tả từng chi tiết: Sắc diện, tay, chân, mắt, mũi, các trì vật, bửu bối toát lên những công năng khác nhau để giúp cho người tu hànhhành giả thiền quán. Một hình thức hướng dẫn qua sự thấy để quán mình hóa thân với vị Phật đối tượng mà nhập vào Phật tánh khi thực hành bất cứ nghi quỹ nào.

Thubten Choling đang là một Tu viện non trẻ nhưng chứa đựng bên trong những tinh thần Phật giáo được tạo lên từ cái nôi Phật giáolịch sử hàng ngàn năm của Phật giáo Tây Tạng, rất có thể sau này Thubten Choling sẽ trở thành công trình di sản của Phật giáo.

Vị Tăng trẻ

 Đó là thầy Trí Không – 36 tuổi, nước da trắng như phụ nữ. Sau khi hoàn thành chuyến hành hương về tới Sài Gòn thì da thầy đã chuyển màu nâu già đi như người ngũ tuần. Một chị là Việt kiều Mỹ đi trong đoàn hỏi: “Thầy Trí Không hơn 50 tuổi rồi ấy nhỉ?”. Người viết bài này nghe câu hỏi vậy mà phì cười, nhưng cảm động lắm. Vì thầy Trí Không thương Phật tử vất vả lần đầu đi xa luôn lo lắng làm sao mọi người phải an toàn sức khỏe. Lên tới Tu viện không nghỉ ngơi chỉ lo làm Phật sự. Trình diện các vị Rinpoche thỉnh cầu các Ngài giảng Pháp, ban truyền Quán đảnh những Pháp tu mới, chuẩn bị các thời khóa cho các Phật tử tu học, lo đủ thứ dẫn đoàn leo lên núi thăm viếng Thánh tích v.v… Tất cả những phần việc ấy chẳng thấm tháp gì với sức trẻ của thầy, nhưng thầy đi lại nhiều ngoài nắng ở độ cao gần 4.000 mét là trực tiếp chịu sự đốt cháy da của tia cực tím, mà những người da trắng hấp thụ rất mạnh tia cực tím nên nước da trắng trẻo của thầy nhanh chóng đổi màu và ngẫu nhiên tăng thâm niên cuộc đời thầy thành ngoài 50 tuổi.

Được hành hương cùng thầy sẽ thực sự yên tâm, chẳng thế mà ông Cảnh ở Quận 12 – TP Hồ Chí Minh chẳng biết thầy là ai, mới chỉ biết thầy trước chuyến đi cách có mấy giờ đồng hồ đã quyết định khăn gói, ba lô theo chân thầy nhập cùng đoàn sang đất Thánh. Thầy Trí Không không những có khả năng đối thoại tiếng Phạn, tiếng Anh, tiếng Hoa, nhờ đó mà thầy đã lật từng trang Thánh tích ở thủ đô Katmandu nói riêng và Nepal nói chung bằng cách dẫn dắt đoàn Phật tử đến tận nơi để mọi người bước dần vào kho tàng lịch sử Phật giáo ở Nepal để được mở mang thêm trí tuệ.

Trên 30 tuổi, nhưng thầy dành hết 2/3 thời gian với bước chân nghèo vượt qua những gian nan thử thách để xuất ngoại trên các quốc gia thuộc về đất Phật, không ngừng dày công học hỏi nên đã tiếp nhận nền giáo dục văn hóa Mật tông của Phật giáo Đại thừa từ các vị Rinpoche cao cấp ở Tây Tạng, Nepal và Ấn Độ. Mỗi khi trở về Việt Nam thầy Trí Không lại dốc hết tâm sức giảng và hướng dẫn Phật tử thực hành giáo Pháp, một trong những giáo Pháp trí tuệ của Phật giáo Đại thừa nhằm góp phần đưa hành giả tiến đến tinh thần vô ngã.

 Vì theo thầy, giáo Pháp không được áp dụng vào đời thì không còn là giáo Pháp. Cứ như vậy, thầy độ cho từng người, rồi đến từng nhóm, rồi thành một đạo tràng, đến nay đạo tràng vẫn sinh hoạt đều đặn 2 kỳ trong 1 tháng. Kể cả những lần thầy Trí Không nhập thất 1 tháng có khi 3 tháng, vắng thầy đạo tràng vẫn sinh hoạt đều đặn theo như thầy đã hướng dẫn trước đó.

Sau mỗi thời thực hành nghi quỹ, thầy lại giảng Pháp để cho những Phật tử đã theo học thầy nhiều năm hoặc những người mới tu học đều hiểu sâu ý nghĩa của Từ biNhân, trí tuệquả. Từ người cao tuổi đến tuổi vị thành niên trong đạo tràng, thầy luôn coi tất cả như cha, mẹ, anh, em của mình, bất kể người đó làm nghề gì, hoàn cảnh giàu nghèo đều không phân biệt. Thấy ai nghèo khổ, đau, yếu thì thầy chạnh lòng.

Tháng 5/2012, trong chuyến thầy Trí Không ra Hà Nội để giảng Pháp theo lời mời của thầy trụ trì một chùa ở Bắc Ninh thì được một Phật tử ở Gia Lâm tên Nguyễn Thị Cẩm, 40 tuổi, đã trên 20 năm sống bằng nghề xem bói và hầu đồng bóng. Nơi ở của chị có hẳn một phòng riêng thờ trên 10 bức tượng Cô mẫu, Thánh, Thần tương đối lớn. Nhưng cuộc sống của chị càng ngày càng gặp nhiều chướng ngại, chị cho rằng bị ma quỷ quậy phá. Chị Nguyễn Thị Cẩm đã tìm đến cầu thỉnh thầy Trí Không đến nhà xem vì sao và làm thế nào để chị bớt gặp chướng ngại được sống bình yên. Thầy Trí Không đã đi taxi cùng 2 Phật tử trẻ đi từ quận Hai Bà qua cầu Chương Dương đến phố Thạch Bàn quận Gia Lâm để thăm nhà Phật tử Nguyễn Thị Cẩm. Sau khi thầy gia trì cho chị và gia đình xong ra về, chị Nguyễn Thị Cẩm cúng dường thầy để bù vào tiền taxi nhưng thầy đã dứt khoát không nhận. Nhờ ánh sáng Phật do thầy Trí Không soi rọi, ngay hôm đó, tâm của chị Cẩm đã mở ra nhất tâm theo Phật. Chị đã gởi hết trên 10 bức tượng Mẫu, Thánh, Thần vào chùa, chỉ giữ lại cho mình xâu chuỗi hạt. Rất nhiều người điện thoại xin chị xem bói và cúng giải hạn, chị đều từ chối và đổi số điện thoại khác. Đến nay, chị Cẩm vẫn tụng kinh niệm Phật hàng ngày và mở một quán tạp hóa làm kế sinh nhai, bỏ hẳn nghề cũ.

Sau những lần hành hương từ Nepal trở về, nhờ có thầy Trí Không luôn hướng dẫn tu họcPhật tử mỗi lần đến đạo tràng như cảm thấy đang tu trì trong Tu viện.

 Do vậy, từ Việt Nam sang Sokhulumbu phải qua hàng ngàn dặm, nhưng khi trở về cố hương thì luôn thấy Thubten Cholling không xa. Mọi người vẫn tu theo Phật – Phật vẫn hàng ngày ở trong trái tim, trong trí não của từng người.

thubtencholing-01

thubtencholing-02

thubtencholing-03

thubtencholing-04

thubtencholing-05

thubtencholing-06

thubtencholing-08

Cụm Bảo Tháp Swayambu

thubtencholing-09

NSƯT Minh Đức với ngài Tulku Pema Wangyal Rinpoche

thubtencholing-10

Teen với nữ Tu sĩ


Đọc thêm: Solukhumbu du ký

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31590)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10518)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11211)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12729)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10800)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16631)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10801)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12009)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11483)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10673)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12321)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11186)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10003)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10322)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11898)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10690)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12358)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9795)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11247)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13825)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9573)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12614)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9686)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10445)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10538)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10307)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9889)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11045)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12001)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10134)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10778)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9533)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9887)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8761)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9488)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14509)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8772)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12542)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10408)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9070)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10552)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9326)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8782)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10497)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9175)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8350)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12010)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9690)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10211)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10223)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19118)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9397)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8972)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9574)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9011)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14732)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10074)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8342)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8937)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8966)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8731)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9362)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14580)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9029)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8754)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9027)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10515)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8630)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24260)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10155)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11012)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8990)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9458)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7997)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9248)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15334)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10332)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9561)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17430)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21369)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12149)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10227)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19217)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26020)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7970)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14760)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10620)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9527)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18644)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12341)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11871)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10730)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13332)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9365)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15874)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant