Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thubten Choling không xa

23 Tháng Hai 201300:00(Xem: 14070)
Thubten Choling không xa


Cứ mỗi dịp tết Losar của Tây Tạng từng đoàn Phật tử trên thế giới trong đó có nhiều đoàn Việt Nam lại hành hương về đất Phật ở Nepal để viếng các thánh tíchtham dự các lễ hội. Dịp này Phật tử Việt Nam lại đi về phía ánh sáng của Đức Phật trên Tu viện Thubten Choling ở vùng đất thiêng Solukhumbu.

Tình đạo hữu

Nhớ lại lần chúng tôi về Tu viện tháng 8 năm 2012, vậy mà đã 6 tháng trôi qua. NSƯT Minh Đức cảm động nhắc lại: “Nhớ Thubten Choling quá chừng, nhớ như in từng việc một trong những ngày ở trên ấy. Cứ như mình vừa mới ở Nepal về…”

Vâng, đó là tour hành hương do chúng tôi tự tổ chức sang Nepal. Một chuyến đi giàu có những kỷ niệm đẹp, mỗi lần nghĩ đến lại nao nao nhớ về tình bạn hữu lo cho nhau từng tí một trong chuyến đi.

Cái đêm rời Việt Nam ngủ tại sân bay Bangkok để sáng sớm bay đến Katmandu, tôi đang ngồi gặm bánh mì cũ “dai như quai guốc” thì chị Bê đến bên ngoắt tôi: “Chị ra đây uống thuốc”, chị đưa tôi tới chỗ chị Thảo ngồi cách tôi mấy dãy ghế. Chị Thảo đang ngồi tẩn mẩn với một bọc lủng củng các loại thuốc. Tôi chưa kịp hiểu gì thì chị Thảo nói: “Thuốc của bạn đây, ăn sáng đi rồi uống 2 viên Tuần hoàn não và Tanakan nhé”. Có lẽ các chị biết tôi bị huyết áp thấp và đau tiền đình nên đã lo cho tôi, tôi ngoan ngoãn làm theo, nhờ vậy khi ngồi máy bay đến Katmandu tôi tỉnh như sáo.

Rất may là tôi và NSƯT Minh Đức được thầy Trí Không xếp ở chung phòng với chị Thảo, chị Thảo đã từng đi Nepal nên có kinh nghiệm hơn. Vừa nhận xong phòng nghỉ thì 2 chúng tôi thấy chị Thảo biến mất hút. Lát sau thấy chị trở về trên tay cầm một bịch đựng mấy thứ rau. Chị đã gần 70 tuổi, chân ướt chân ráo chẳng quản mệt nhọc đã tranh thủ đi mua rau, còn tôi thì chỉ biết nằm tán dóc với chị Đức. Tôi kính nể đã gọi luôn chị Thảo là “chị cả”. Những ngày sau, ngoài những lúc tụng kinh và nhiễu Bảo tháp, chị lại nấu mì cho tôi và chị Đức ăn.

Vì tôi và chị Đức còn ngô nghê với Katmandu nên đã được chị hướng dẫn cách nhiễu Đại bảo tháp, chỉ chỗ lễ lạy, cách cúng dường hương trong khuôn viên Bảo Tháp, kinh nghiệm ăn uống, mua sắm Phật cụ v v… tôi lại gọi chị là… “sư tỷ”, nhưng thỉnh thỏng chúng tôi cũng chọc ghẹo nhau cười vui như khi còn trẻ. Chưa hết, cái túi tiền của dân nghèo thành thị của tôi quá khiêm tốn nên bị thiếu tiền mua sắm, chẳng chờ tôi hỏi vay, chị Thảo tự nguyện cho tôi vay thêm tiền, nhưng sau đó chính chị thiếu tiền lại đi vay người khác. Mấy nữ Phật tử ở Hà Nội và một số bạn nam tuổi teen đi cùng đoàn mỗi lần leo núi luôn đi gần những người lớn tuổi hay “cài số lùi” khi chùn chân mỏi gối dễ bị lạc. Suốt thời gian trên đất Phật, chúng tôi sống với nhau, lo cho nhau từng đôi tất chân, đôi dép, ngụm nước thuốc uống hàng ngày. Chân thật, hỷ xả, an lạc, gần gũi, gắn bó, nâng cao giá trị sống của tình đạo hữu.

Thubten Choling

Qua 2 lần cưỡi mây bằng máy bay tới Solukhumbu. Khi rời khỏi trực thăng, chúng tôi theo bước chân người thầy xưa ngược lên lối mòn dốc núi, hai bên sườn núi ngợp cây cao bóng tỏa. Ngẩng lên nhìn ánh trưa ken qua vòm cây thơm hương rừng nguyên sinh như thanh lọc thân tâm từng người đang hổn hển lần bước đi lên.

Solukhumbu là một địa danh nằm trong khu vườn quốc gia Sagarmatha một trong 75 huyện thị của Nepal, nằm ở phần phía bắc dãy Everest, dân bản địa là người dân tộc Rai và người Sherpa. Vườn quốc gia Sagarmatha đã được UNESCO công nhậndi sản của thế giới. Tu viện Thubten Choling được dân địa phương và du khách quốc tế coi là một công trình nổi tiếng của Everest.

Từ phòng nghỉ lên Tu viện, chúng tôi lần lượt qua trên 113 bậc thang dài mà không có cảm giác rời rạc khúc đoạn, liền lặc nhau một giải như cung mây nâng bước lên khung trời chánh giác.

Đặt chân lên từng bậc thang được xếp bằng đá, chúng tôi ngạc nhiên có những viên màu nâu, có viên vàng như rỉ sắt, đỏ như bazan, có viên hơi xanh ngọc, như thạch anh, có viên như đá silicat, tất cả đều óng ánh, lấp lánh như bạc. Giống như loại đá magma, chúng tôi lựa viên nhỏ mang về thử đập ra thì thấy có những vụn li ti óng ánh rơi xuống, đó là mica. Có thể xưa kia khi bề mặt trái đất nung chảy đông nguội nhanh đã tạo thành khoáng chất này. Có vài chị đã chọn những cục đá đẹp mang về thuê thợ khắc tượng Phật.

Thubten Cholling hiện lên giữa một trời sương bao phủ, vờn mắt với cảm giác chơi vơi, bay bổng. Những cảm xúc mới mẻ lấp lánh đủ màu sắc trong tâm hồn. Ngày đầu Ngài Kyabje Trulshik Rinpoche đặt chân tới vùng Solukhumbu dựng lên ngôi tịnh thất đơn sơ để có chỗ tu hành, dấu ấn ngày đầu ấy cũng đã qua đi nửa đời người. Có lẽ Ngài cũng không ngờ rằng ngày nay Thubten Choling đã trở thành công trình Phật giáo của thời đại trên Thánh địa.

Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma truyền thống tại Nepal. Vẻ đẹp kiến trúc của Tu viện như một đóa sen mọc lên giữa một vùng môi trường với thảm thực vật bạt ngàn thông xanh và cây rừng nguyên sinh. Một công trình văn hóa Phật giáo mang phong cách nghệ thuật kiến trúc Tây Tạng đã thu hút biết bao lượt tu sĩ Phật giáoPhật tử trên thế giới, các đoàn du khách đủ các quốc tịch, màu da, tôn giáo đến Tu viện tham quan, thiền và làm từ thiện.

Trong giờ phút xả thiền, lữ khách có thể đưa mắt ngắm nhìn thật kỹ từng họa tiết hoa văn trên các xà ngang, xà gồ, vì kèo, vòm trần trong nội thất. Những đường hoa văn không phải là hư cấu mà dựa trên những hình tượng thực tế của thiên nhiên, qua những bàn tay nghệ nhân đã ước lệ hình tượng bông sen, hoa Mandala, giải mây ngũ sắc có tính hình học, nối tiếp nhau như một mối liên kết đan quện bền chặt.

Đối diện Thánh điện là tượng Đức Thích Ca và các Chư Phật. Quanh các bức tường là những bức Thangka. Một loại hình hội họa vẽ về trời, Phật, Bồ tát, Thần, Thánh, là những vị nắm giữ vai trò quan trọng trong Phật giáo. Qua những bức tranh Thangka có thể hiểu phần nào về lịch sử Mật giáo Tây Tạng từ thời cổ xưa lưu truyền đến ngày nay. Thông qua hình thức nghệ thuật tôn giáo mang tính nghi thức đa đạng ấy, mỗi bức Thangka mô tả từng chi tiết: Sắc diện, tay, chân, mắt, mũi, các trì vật, bửu bối toát lên những công năng khác nhau để giúp cho người tu hànhhành giả thiền quán. Một hình thức hướng dẫn qua sự thấy để quán mình hóa thân với vị Phật đối tượng mà nhập vào Phật tánh khi thực hành bất cứ nghi quỹ nào.

Thubten Choling đang là một Tu viện non trẻ nhưng chứa đựng bên trong những tinh thần Phật giáo được tạo lên từ cái nôi Phật giáolịch sử hàng ngàn năm của Phật giáo Tây Tạng, rất có thể sau này Thubten Choling sẽ trở thành công trình di sản của Phật giáo.

Vị Tăng trẻ

 Đó là thầy Trí Không – 36 tuổi, nước da trắng như phụ nữ. Sau khi hoàn thành chuyến hành hương về tới Sài Gòn thì da thầy đã chuyển màu nâu già đi như người ngũ tuần. Một chị là Việt kiều Mỹ đi trong đoàn hỏi: “Thầy Trí Không hơn 50 tuổi rồi ấy nhỉ?”. Người viết bài này nghe câu hỏi vậy mà phì cười, nhưng cảm động lắm. Vì thầy Trí Không thương Phật tử vất vả lần đầu đi xa luôn lo lắng làm sao mọi người phải an toàn sức khỏe. Lên tới Tu viện không nghỉ ngơi chỉ lo làm Phật sự. Trình diện các vị Rinpoche thỉnh cầu các Ngài giảng Pháp, ban truyền Quán đảnh những Pháp tu mới, chuẩn bị các thời khóa cho các Phật tử tu học, lo đủ thứ dẫn đoàn leo lên núi thăm viếng Thánh tích v.v… Tất cả những phần việc ấy chẳng thấm tháp gì với sức trẻ của thầy, nhưng thầy đi lại nhiều ngoài nắng ở độ cao gần 4.000 mét là trực tiếp chịu sự đốt cháy da của tia cực tím, mà những người da trắng hấp thụ rất mạnh tia cực tím nên nước da trắng trẻo của thầy nhanh chóng đổi màu và ngẫu nhiên tăng thâm niên cuộc đời thầy thành ngoài 50 tuổi.

Được hành hương cùng thầy sẽ thực sự yên tâm, chẳng thế mà ông Cảnh ở Quận 12 – TP Hồ Chí Minh chẳng biết thầy là ai, mới chỉ biết thầy trước chuyến đi cách có mấy giờ đồng hồ đã quyết định khăn gói, ba lô theo chân thầy nhập cùng đoàn sang đất Thánh. Thầy Trí Không không những có khả năng đối thoại tiếng Phạn, tiếng Anh, tiếng Hoa, nhờ đó mà thầy đã lật từng trang Thánh tích ở thủ đô Katmandu nói riêng và Nepal nói chung bằng cách dẫn dắt đoàn Phật tử đến tận nơi để mọi người bước dần vào kho tàng lịch sử Phật giáo ở Nepal để được mở mang thêm trí tuệ.

Trên 30 tuổi, nhưng thầy dành hết 2/3 thời gian với bước chân nghèo vượt qua những gian nan thử thách để xuất ngoại trên các quốc gia thuộc về đất Phật, không ngừng dày công học hỏi nên đã tiếp nhận nền giáo dục văn hóa Mật tông của Phật giáo Đại thừa từ các vị Rinpoche cao cấp ở Tây Tạng, Nepal và Ấn Độ. Mỗi khi trở về Việt Nam thầy Trí Không lại dốc hết tâm sức giảng và hướng dẫn Phật tử thực hành giáo Pháp, một trong những giáo Pháp trí tuệ của Phật giáo Đại thừa nhằm góp phần đưa hành giả tiến đến tinh thần vô ngã.

 Vì theo thầy, giáo Pháp không được áp dụng vào đời thì không còn là giáo Pháp. Cứ như vậy, thầy độ cho từng người, rồi đến từng nhóm, rồi thành một đạo tràng, đến nay đạo tràng vẫn sinh hoạt đều đặn 2 kỳ trong 1 tháng. Kể cả những lần thầy Trí Không nhập thất 1 tháng có khi 3 tháng, vắng thầy đạo tràng vẫn sinh hoạt đều đặn theo như thầy đã hướng dẫn trước đó.

Sau mỗi thời thực hành nghi quỹ, thầy lại giảng Pháp để cho những Phật tử đã theo học thầy nhiều năm hoặc những người mới tu học đều hiểu sâu ý nghĩa của Từ biNhân, trí tuệquả. Từ người cao tuổi đến tuổi vị thành niên trong đạo tràng, thầy luôn coi tất cả như cha, mẹ, anh, em của mình, bất kể người đó làm nghề gì, hoàn cảnh giàu nghèo đều không phân biệt. Thấy ai nghèo khổ, đau, yếu thì thầy chạnh lòng.

Tháng 5/2012, trong chuyến thầy Trí Không ra Hà Nội để giảng Pháp theo lời mời của thầy trụ trì một chùa ở Bắc Ninh thì được một Phật tử ở Gia Lâm tên Nguyễn Thị Cẩm, 40 tuổi, đã trên 20 năm sống bằng nghề xem bói và hầu đồng bóng. Nơi ở của chị có hẳn một phòng riêng thờ trên 10 bức tượng Cô mẫu, Thánh, Thần tương đối lớn. Nhưng cuộc sống của chị càng ngày càng gặp nhiều chướng ngại, chị cho rằng bị ma quỷ quậy phá. Chị Nguyễn Thị Cẩm đã tìm đến cầu thỉnh thầy Trí Không đến nhà xem vì sao và làm thế nào để chị bớt gặp chướng ngại được sống bình yên. Thầy Trí Không đã đi taxi cùng 2 Phật tử trẻ đi từ quận Hai Bà qua cầu Chương Dương đến phố Thạch Bàn quận Gia Lâm để thăm nhà Phật tử Nguyễn Thị Cẩm. Sau khi thầy gia trì cho chị và gia đình xong ra về, chị Nguyễn Thị Cẩm cúng dường thầy để bù vào tiền taxi nhưng thầy đã dứt khoát không nhận. Nhờ ánh sáng Phật do thầy Trí Không soi rọi, ngay hôm đó, tâm của chị Cẩm đã mở ra nhất tâm theo Phật. Chị đã gởi hết trên 10 bức tượng Mẫu, Thánh, Thần vào chùa, chỉ giữ lại cho mình xâu chuỗi hạt. Rất nhiều người điện thoại xin chị xem bói và cúng giải hạn, chị đều từ chối và đổi số điện thoại khác. Đến nay, chị Cẩm vẫn tụng kinh niệm Phật hàng ngày và mở một quán tạp hóa làm kế sinh nhai, bỏ hẳn nghề cũ.

Sau những lần hành hương từ Nepal trở về, nhờ có thầy Trí Không luôn hướng dẫn tu họcPhật tử mỗi lần đến đạo tràng như cảm thấy đang tu trì trong Tu viện.

 Do vậy, từ Việt Nam sang Sokhulumbu phải qua hàng ngàn dặm, nhưng khi trở về cố hương thì luôn thấy Thubten Cholling không xa. Mọi người vẫn tu theo Phật – Phật vẫn hàng ngày ở trong trái tim, trong trí não của từng người.

thubtencholing-01

thubtencholing-02

thubtencholing-03

thubtencholing-04

thubtencholing-05

thubtencholing-06

thubtencholing-08

Cụm Bảo Tháp Swayambu

thubtencholing-09

NSƯT Minh Đức với ngài Tulku Pema Wangyal Rinpoche

thubtencholing-10

Teen với nữ Tu sĩ


Đọc thêm: Solukhumbu du ký

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14125)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39670)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15282)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13826)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13891)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37283)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40013)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14610)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14298)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12634)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14805)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19194)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13773)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42579)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13804)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37202)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12643)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11738)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22519)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12473)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12532)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13008)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13077)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17233)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33186)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14814)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11018)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12415)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11932)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11906)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13103)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51197)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12355)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6590)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30369)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13098)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13289)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30637)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19316)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12464)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11817)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14741)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13171)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13173)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30640)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12005)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11803)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12690)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31847)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29361)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11763)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11711)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10395)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11526)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9605)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9619)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9925)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35365)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10121)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10074)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10019)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9621)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27772)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15455)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9822)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13640)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9819)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9668)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18273)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12023)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9537)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9655)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8674)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8882)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8377)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11440)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31666)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12304)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13285)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8797)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9410)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11904)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9192)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9047)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9636)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29301)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9048)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9066)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33189)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8407)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30551)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31181)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37054)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32215)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9900)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27023)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8420)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19202)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12980)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9738)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant