Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ý nghĩa và hướng dẫn thực hành Pháp tu trì Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn và Pháp tu Nyungnay

17 Tháng Tư 201300:00(Xem: 18342)
Ý nghĩa và hướng dẫn thực hành Pháp tu trì Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn và Pháp tu Nyungnay

thienthuthienhan-drukpa-01Thứ ba ngày 9/4 (tức 29/2 Â.L), Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa quang lâm, cầu nguyện quốc thái dân an và ban đại lễ gia trì quán đỉnh cộng đồng Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, truyền pháp thực hành Nyungnay tại chùa Hoàng Long xã An Đạo, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.

Để giúp đỡ quý vị Phật tử có được sự chuẩn bị và tri kiến cần thiết khi tham dự Pháp hội, Drukpa Việt Nam xin giới thiệu toát yếu các khai thị của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa về phương pháp thực hành các pháp tu trì này.

I. Pháp tu Bản tôn Phật Quan Âm

1. Lợi ích của Pháp tu Bản tôn Quan Âm

Lòng từ bi là sự quan tâm bình đẳng đến những người khác cho dù họ có là người xa lạ hay thậm chí đang làm tổn hại bạn. Trưởng dưỡng lòng từ bi từ tận đáy lòngthiện hạnh rất quan trọng của loài người bởi lòng từ bi có công năng cứu rỗi thế giới. Nếu khônglòng từ bi tỏa khắp, thế giới sẽ trở nên tồi tệ gấp hàng triệu lần so với bây giờ, sẽ đắm chìm trong chiến tranh chết chóc, nạn đói, bệnh tật, thiên taicác loại thảm họa dẫn dắt bởi nghiệp xấu cộng dồn từ khắp các chúng sinh. Tuy vậy, để phát triển lòng từ bi thì sự cầu nguyện không đủ, sự hiểu biết thông minh hay kiến thức uyên bác về triết học cũng không đủ mà chúng ta cần thực hành thiền định, và đặc biệt, điều quan trọng nhất là cần có sự hướng đạo từ một bậc Căn bản thượng sư giác ngộ để đón nhận quán đỉnh gia trì đặc biệt của Bản Tôn Phật Quan Âm.

Đức Phật Quan Âmhiện thân từ bi của tất cả chư Phật. Pháp thực hành Bản tôn Quan Âmmục đích chính là phát triển lòng từ bi trong tâm mỗi người và tất cả chúng sinh. Tình thương yêu và trí tuệ hiểu biết của Đức Quán Âm đã kết hợp hài hòa trọn vẹn, phát triển viên mãn. Bởi vậy Ngài đã thể hiện muôn ngàn hình tướng: Đức Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt, Đức Quan Âm Tứ Thủ, Đức Quan Âm Hai Tay hay là hiện thân của các Đức Tara. Tất cả hiện thân của các Ngài để tùy theo sự mong cầu của chúng sinh. Bắt nguồn từ trí tuệ và tình thương yêu, các Ngài hiện thân vô số để có thể cứu độ, cứu giúp, nâng đỡ cho tất cả chúng sinh, đem hạnh phúc đến cho tất cả mọi người. Đó là ý nghĩa chân thật của Đức Phật Quan Âm.

Phương pháp thực hành về Đức Phật Quán Âm chính là phương pháp để bảo vệ, hộ trìviên mãn mọi ước nguyện của chúng ta. Chúng ta thực hành pháp tu tập của Đức Phật Quán Âm để phát triển Bồ đề tâm, quán chiếu để nhận ra tất cả chúng sinh trong sáu đạo luân hồi đang trôi lăn trong đau khổ không phải là ai xa lạ mà chính là cha mẹ của chúng ta, người thân của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp. Chúng ta sẽ thấy được trách nhiệm của mình đối với những gì cha mẹ, người thân của chúng ta mong muốn. Họ mong cầu hạnh phúc, sợ hãi khổ đau. Bởi vậy chúng ta nhận ra được cha mẹ của chúng ta, người thân của chúng ta, chúng ta sẽ thực hành Bồ đề tâm, hết lòng đem thiện hạnh để có thể chia sẻ hạnh phúc đến cho tất cả chúng sinh.

Khi Bồ đề tâm chân thật đã thực sự phát triển trong lòng chúng ta thì năng lực của Bồ đề tâm sẽ có thể bảo vệ cho chúng ta thoát khỏi mọi khó khăn, thoát khỏi mọi nguy hiểm và trên thế gian này không có một sức mạnh nào có thể làm tổn hại chúng ta được nữa. Ví dụ như thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – Khi Ngài còn tại thế, Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) là anh họ của Đức Phật thường tật đố ghen tị với Ngài và tìm mọi cách để hại Ngài. Có một lần, Đề Bà Đạt Đa xui thái tử A Xà Thế chuốc cho một con voi uống rượu say rồi thả voi ra để làm hại Đức Phật. Khi con voi xông tới, tất cả chúng Tăng đều sợ hãi dạt sang hai bên, duy chỉ có Đức Phật với lòng từ bi, với tình thương yêu chân thật, Đức Phật hướng về con voi say, và đột nhiên con voi đang hung dữ như nhận được năng lực và từ trường tình yêu thương của Đức Phật Thích Ca gửi đến, nó đã phủ phục và quy y với Ngài. Câu chuyện để chứng minh rằng, với năng lực mạnh mẽ của Bồ đề tâm, với sức mạnh của tình thương yêu vô điều kiện có thể bảo hộ thoát khỏi tất cả những tai nạn. Cũng như sức mạnh năng lực của Bồ đề tâm vẫn có thể chuyển hóa được tâm giận dữ, si mê của con voi say hoang dại.

Trong Kinh điển Đại Thừa, Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Dù trong một khoảnh khắc, dù trong một giây phút, nếu có người phát Bồ đề tâm với mong nguyện tu tập giác ngộ để cứu độ cho hết thảy chúng sinh thì công đức của người phát Bồ đề tâm ấy lớn khắp, rộng khắp hư không cũng không thể chứa hết”. Như vậy, năng lựcsức mạnh của Bồ đề tâm có thể giúp cho chúng ta tích lũy vô lượng công đức.

Trong Kim Cương Thừa, phương pháp tu tập để phát triển Bồ đề tâm, phương pháp tu gần gũi và căn bản, chính là pháp tu về Đức Phật Quán Thế Âm. Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi, tình thương yêu, lòng bi mẫn, sự hợp nhất hoàn toàn. Bởi vậy, nhờ tâm chúng ta quán tưởng Ngài sẽ được thăng hoa tới mức độ thanh tịnh và miệng chúng ta trì chân ngôn của Ngài dần dần Bồ đề tâm trong chúng ta sẽ được phát triển viên mãn. Thông qua phương pháp tu tập phát triển Bồ đề tâm, phương pháp tu tập phát triển về Đức Phật Quan Âm, trì tụng chân ngônquán tưởng hình ảnh của Ngài sẽ giúp cho chúng ta phát triển được tình thương yêu, sự hiểu biết và những hành động thiện hạnh để có thể lợi ích hết thảy mọi loài.

2. Ý nghĩa hình ảnh Bản tôn

Đức Quan Thế Âm Tự Tại vì lòng từ bi phát khởi bi nguyện muốn cứu độ chúng sinh thoát khỏi vô minh mê vọng, không phải chịu khổ trong ba đường ác. Đức Phật Di Đà phóng quang gia trì khiến đức Quan Âm hóa hiện mười một đầu, đầu trên cùng là Đức Phật Di Đàpháp tướng Ngài có nghìn mắt nghìn tay để có thêm phương tiện tức tốc cứu độ chúng sinh. Thân Ngài sắc trắng, 11 đầu, có một đầu hiện tướng phẫn nộ.

thienthuthienhan-drukpa-02

Ý nghĩa chi tiết của hình ảnh Thangka Phật Bản tôn Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn như sau:

Đức Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn đứng trên tòa sen trong tư thế chữ nhất, nêu biểu sự hợp nhất của lòng từ bi và trí tuệ.

Phần hạ y của đức Quan Âm tượng trưng cho bản tính Phật còn ẩn tàng trong mỗi chúng sinh. Các trang sức, tua lụa tượng trưng cho các công hạnh giác ngộ của ngài, rất uyển chuyển linh hoạt trong các cõi. Phần đầu của tua lụa luôn hướng lên, thể hiện chiến thắng trước tham sân si. Nửa thân dưới có các trang sức và xiêm y nêu biểu cho việc đem tất cả năng lượng ái dục vào con đường tu tập giác ngộ bởi vì tất cả những NL tiêu cực ko bị chối bỏ mà chuyển hóa thành đại từ đại bitrí tuệ và những công hạnh độ chúng sinh tự lợi lợi tha.

Nửa thân trên của đức Quan Âm tượng trưng cho tâm Phật đã đựoc chứng ngộ hoàn toàn, không bị che đậy bởi vô minh tăm tối. Các trang sức nêu biểu cho các công hạnh ba la mật.

Đức Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn có ba lớp tay: trong cùng là 8 tay tượng trưng cho Pháp thân, lớp ở giữa có 42 tay tượng trưng cho Báo thân, lớp tay ngoài cùng tượng trưng cho Hóa thân. Các tay của đức Quan Âm tượng trưng cho phương tiện, trên mỗi bàn tay có một con mắt tượng trưng cho trí tuệ. Con mắt trong lòng bàn tay hàm ý sự hợp nhất của phương tiệntrí tuệ Phật. Tám cánh tay ở lớp trong cùng tượng trưng hoa sen tám cánh, đồng thời tương ứng với tứ trí (Đại Viên Cảnh trí, Diệu Quan sát trí, Bình đẳng tính trí, Thành sở tác trí) và tứ đức (từ, bi, hỷ, xả).

Hai cánh tay trong cùng của đức Quan Âm đang ôm ngọc Mani. Ngọc Mani là biểu tượng của sự viên mãn tâm nguyện thế gianxuất thế gian. Ở ý nghĩa sâu sắc hơn đó là sự giàu có tâm bồ đề. Hình ảnh bàn tay ôm ngọc mani chính là biểu tượng của sự hợp nhất giữa lòng từ bi vô lượngtrí tuệ siêu việt của đức Phật.

Các cánh tay còn lại:

- cánh tay cầm chuỗi tràng thủy tinhbiểu tượng của lòng từ bi, sự thanh tịnh và việc lần chuỗi tràng chính là sự cứu độ liên tục không ngừng nghỉ của ngài

- cánh tay cầm pháp luân nêu biểu việc ngài mang giáo pháp của Phật ban trải và cứu độ khắp nơi – chuyển bánh xe pháp vô ngại của đức Quan Âm (là tượng trưng cho các lần chuyển bánh xe Pháp của đức Phậtlợi lạc của hết thảy chúng sinh)

- cánh tay chỉ xuống là biểu tượng cho vô úy thí: ngài ban gia trì cho chúng sinh vượt qua sự sợ hãi, vượt qua mọi khổ đau phiền não, bởi vì chúng sinh từ lúc sinh ra đã bị ám ảnh bởi rất nhiều nỗi sợ hãi (nỗi sợ hãi bao trùm, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết đi: sợ đói, nghèo, bất hạnh, không danh vọng...), chính vì thế đức Quan Âm hiện cánh tay thí vô úy để cứu khổ ban cho chúng sinh những viên mãn tâm nguyện thế gian.

- cánh tay cầm hoa sen: tượng trưng cho Bồ đề tâm thanh tịnh, phẩm hạnh giác ngộ của chư Phật, cũng như hoa sen mọc từ bùn mà ko nhiễm nhơ, tiêu biểu cho bản nguyện của ngài vào đời cứu khổ chúng sinh mà ko bị chi phối.

- cánh tay cầm cung tên: xạ thủ giương cung mắt - giương cung - đích trên cùng 1 đường) tượng trưng cho sự rõ ràng, hợp nhất của căn, đạo quả (mục đích, con đường tu tập, và thành tựu). Bàn tay của đức Quan Âm cầm cung tên tượng trưng cho sự nhất tâm điều phục tất cả mọi vọng tưởng, giải thoát khỏi luân hồi, đánh bại 4 ma (tử ma, ngũ ấm ma, phiền não ma, thiên ma).

- cánh tay cầm bình cam lồ: tượng trưng cho năng lượng pháp vị cam lồ, tượng trưng sự gia trì của chư Phật để diệt trừ tất cả phiền não đau khổ tham sân si của chúng sinh.

42 tay ở giữa nêu biểu báo thân Phật, nêu biểu 42 thánh vị tu chứng (thập trụ, thập hạnh, thập địa, thập hồi hướng, đẳng giácdiệu giác) để cứu độ 25 cõi chúng sinh trải qua 42 thánh vị để thành tựu giác ngộ.

Lớp tay ngoài cùng tượng trưng cho Hóa thân phật đi tất cả các nẻo trong luân hồi để cứu độ chúng sinh. Mắt (trí tuệ) trong lòng bàn tay (phương tiện).

Phần đầu của đức Quan Âm (tiêu biểu cho 11 quả vị giác ngộ): gồm 5 tầng tượng trưng cho ngũ trí Phật; đầu trên cùng là biểu tượng của Pháp thân (đức Phật Di đà) nêu biểu cho chính đẳng chính giác, tiếp đến là Báo thân (đức Kim Cương thủ trong hiện tướng phẫn nộ chính là Bất không thành tựu Phật ở phương nam), 3 tầng dưới (9 đầu còn lại) là biểu tượng của Hóa thân.

Ba khuôn mặt ở giữa nêu biểu cho Đại viên cảnh trí là Đức A súc bệ ở phương Đông, 3 mặt này hiện tướng từ bi vì thấy chúng sinh làm thiện mà ngài sinh tâm an lạc, đại từ đại bi. Ba mặt bên trái nêu biểu sự hàng phục ngã áibình đẳng tính trí của đức Bảo sinh Phật ở phương nam. Ba mặt này vì thấy chúng sinh làm ác mà khởi tâm phẫn nộ, hàng phục chuyển hóa những chúng sinh cương cường khó độ. Ba khuôn mặt bên phải nêu biểu năng lực thuyết pháp của Diệu quan sát trí của phật A di Dà ở phương Tây.

Đức Quan Âm thiên thủ thiên nhãn mang trên mình các sức trang hoàng, tương ứng với Ngũ bộ Phật và Ngũ Trí.

- Khuyên tai tương ứng với Đức Phật Di đà Diệu quan sát trí

- Vòng cổ tương ứng với đức Phật Bảo sinh, tiêu biểu cho Bình đẳng tính trí

- Các vòng tay tương ứng với Phật Tỳ lư giá na, tiêu biểu Pháp giới thể tính trí

- Đai lưng Phật tương ứng với Phật Bất không thành tựu, tiêu biểu Thành sở tác trí

- Mũ (vương miện) tương ứng Phật A súc bệ, tiêu biểu Đại viên cảnh trí

Ba lọn tóc của đức Quan Âm nêu biểu năng lực bi, trí, dũng đồng thời tượng trưng cho tam bình đẳng (Phật, chúng sinh và tâm đều bình đẳng không sai khác).

Đức Quan Âm khoác tấm da nai, tượng trưng cho bi nguyện đồng sự của ngài. Ngài đi vào lục đạo luân hồi, đồng cam cộng khổ với chúng sinh.

Tứ phía của bức Thangka tượng trưng tứ phía với các Bản tôn:

- Phương Nam: Bản tôn Văn thù tiêu biểu cho Bảo sinh PhậtBình đẳng tính trí

- Phương Tây: bản tôn Bạch độ Mẫu và đức Phật A Di đàDiệu quan sát trí

- Phương Bắc: bản tôn Lục độ MẫuBất không thành tựuThành sở tác trí

- Phương Đông: bản tôn Kim Cương thủA súc bệ Phật - Đại viên cảnh trí

Đức Di đà ở giữa là Pháp thân là thể của đức Quan Âm và về phần sự ngài là căn bản thương sư của đức Quan Âm. Về phần lý Đức Di đà là trí tuệ của pháp thân, Đức Quan Âmphương tiện của lòng từ bi. Tuy đức Quan Âm nhập thế cứu độ chúng sinh hoạt động cứu độ chúng sinh trong khắp nẻo luân hồi nhưng vẫn an trụ trong đại định của đức A di đà.

Ngoài ra trong bức Thangka còn có các loài hoa tượng trưng cho các công hạnh của Phật, muôn thú vạn loài hữu tình đều hoan hỷ quy y Phật.

Phía dưới bức Thangka là ngọc Mani, tượng trưng cho sự giàu có của tâm Bồ đề (phần lý), hay là tượng trưng cho các phẩm vật cúng dường và sự viên mãn tâm nguyện của chúng sinh (phần sự). Tấm gương là biểu tượng của Đại viên cảnh trí, có thể soi rọi nghiệp chướng của chúng sinh một cách rõ ràng. Cây đàn là biểu tượng của diệu âm thanh, nêu biểu 60 diệu âm giác ngộ của Phật.

3. Hướng dẫn thực hành quán tưởng

Trước khi thực hành pháp tu Đức Phật Quán Thế Âm hay bất kỳ một pháp tu nào của Kim Cương Thừa thì chúng ta cần phải quy y sau đó phát Bồ đề tâm, đây chính là phần động cơ của sự thực hành. Sau đấy chúng ta quán tưởng. Quán tưởng xong chúng ta trì tụng chân ngôn, trì đủ số lượng chúng ta định hướng rồi chúng ta hồi hướng. Trong phương pháp tu tập của Kim Cương Thừa thì động cơ để dẫn dắt chúng ta đến việc tu sẽ giúp chúng ta tích lũy được nhiều công đức nhất, cho nên phải quy y phát Bồ đề tâm để có được động cơ chân thật khi tu tập, vì mục đích lợi ích hữu tình.

Việc hàng ngày tập phát Bồ đề tâm sẽ giúp chúng ta mỗi ngày, mỗi ngày mở rộng tâm mình rộng lớn hơn, người nào có thể mở rộng được lòng mình càng nhiều thì sẽ có càng nhiều hạnh phúc. Giống như một cái nhà, nếu chúng ta có một cái nhà rộng với khoảng không gian rộng rãi, chúng ta có thể chứa được rất nhiều người bên trong và họ có thể ngồi hay đi lại một cách thoải mái, nhưng nếu chúng ta có một cái nhà nhỏ hẹp thì ít người có thể ngồi được bên trong, rồi ngồi thì rất gò bó, cựa quậy là sẽ chạm vào chỗ nọ, đụng vào chỗ kia, sẽ rất là khó chịu. Cũng như vậy, nếu tâm chúng ta nhỏ hẹp, chỉ có thể chứa được chính bản thân mình hoặc những người thân của mình, khi đó ngay cả những người thân của chúng ta cũng dễ dàng đem đến cho chúng ta nhiều đau khổ bởi vì luôn chạm vào cái bản ngã của chúng ta, rồi tác động làm cho chúng ta đau khổ. Còn nếu chúng ta biết mở rộng lòng nhiều hơn, quên đi cái tôi của mình nhiều hơn, quên đi cái ích kỷ, hẹp hòi, bản ngã của mình càng nhiều bao nhiêu, bầu không gian tâm của chúng ta càng mở rộng được bao nhiêu thì chúng ta càng có thể chia sẻ tình thương yêu của mình đến nhiều với chúng sinhchúng ta mới thực sự có được nguồn chân hạnh phúc.

Tiếp đến là phần thực hành chính. Hãy quán tưởng ở nơi tim của Đức Phật Quán Thế Âm là một đĩa mặt trăng, trung tâm của đĩa mặt trăngchủng tử tự SHRI. Chúng ta sẽ quán tưởng quay xung quanh chủng tử tự SHRI là chuỗi chân ngôn OM MANI PADME HUNG đang chuyển vận theo chiều kim đồng hồ. Hãy quán tưởng từ sáu chữ chủng tử phóng hào quang theo sáu màu của chữ chủng tử đi vào sáu đạo, cứu khổ cho tất cả chúng sinh. Tất cả những chúng sinh trong sáu đạo đang phải chịu những nỗi khổ quằn quại trong sinh tử thì những ánh sáng của sáu chữ Lục tự sẽ đi vào lục đạo nâng đỡ, xoa dịucứu khổ cho chúng sinh. Chẳng hạn như ở cõi súc sinh hiện nay, mỗi giờ, mỗi giây vì miếng ăn của loài người, vì áo mặc của loài người, hàng tỷ, hàng triệu chúng sinh đang bị giết hại để thỏa mãn bữa ăn của con người. Những loài chúng sinh ấy không thể nói được và cũng không có cơ hội để được nói rằng: Tôi không muốn chết, tôi không muốn bị giết, tôi muốn sống hạnh phúc như các vị. Khi chúng ta tu tập pháp môn quán tưởng như vậy, ánh sáng của sáu chữ Lục tự sẽ đi vào mỗi cõi để xoa dịu nỗi khổ và cứu độ cho sáu đạo hữu tình.

Khi chúng ta quán tưởng sáu chữ chủng tử, chúng ta cần quán tưởng từ bản thân những chữ chủng tử chúng ta đang trì niệm phóng ra những luồng hào quang rực rỡ. Những luồng hào quang này hướng về mười phương chư Phật, mang đến cúng dường chư Phật tất cả những phẩm vật tôn quý nhất trong hình tướng những phẩm vật hương hoa, đăng trà, quả thực. Cúng dường xong chư Phật, những ánh hào quang này đón nhận sự gia trì từ chư Phật và quay trở lại chiếu vào sáu đạo hữu tình để xoa dịu, cứu khổ cho hết thảy chúng sinh.

Khi quán tưởng hình ảnh Đức Phật Quan Âm, chúng ta không nên quán tưởng Ngài giống như bức tranh hoặc giống như pho tượng gỗ. Hãy quán tưởng Ngài sống động và phi vật chất. Sống động giống như tất cả vạn sự vạn pháp đang tồn tại, hiện hữu chứ chúng ta không nên quán tưởng Ngài một cách cứng nhắc như là bức tranh, như là pho tượng. Chúng ta cần phải hiểu rằng mặc dù tất cả vạn pháp dường như đang tồn tại một cách thực hữu và sống động nhưng thật chất chúng tồn tại tùy duyên, là sự kết hợp của rất nhiều nhân duyên. Thông thường chúng ta bám chấp và đặt danh cho tất cả vạn pháp. Chúng ta gọi đây là cái cây, kia là ngôi nhà, đây là ô tô,… Tất cả những quan kiến này là sự bám chấp nặng nề của loài người chúng ta, chúng ta thường nghĩ rằng giấc mơ là giả còn đời sống hàng ngày là thật. Thật ra giấc mơ và đời sống hàng ngày thì chúng bình đẳng như nhau, đều giả dốiảo tưởng giống nhau.

Khi chúng ta quán tưởng, nhận rõ tất cả vạn pháp đều có thể do tâm mình biến hiện, kể cả đời sống hàng ngày của chúng ta đều do tâm biến hiện thì việc tu tập, quán tưởng Đức Phật Quan Âm chúng ta cũng có thể dùng tâm của mình để quán tưởng Phật. Sau khi kết thúc phần trì tụng chân ngôn thì chúng ta quán Đức Quan Âm lúc này bất khả phân với bậc Thầy Căn bản Thượng sư của chúng ta, hòa tan vào trong tâm của chúng ta, hòa nhập làm một và an trụ trong chính niệm, tỉnh giác, không nghĩ về quá khứ, không nghĩ về tương lai cũng không phân biệt trong hiện tại, tâm hoàn toàn thư giãn, thảnh thơi. Đó chính là Pháp thân Quan Âm hay chính là bản chất Phật tính ở nơi mỗi người.

Kết thúc của phần tu chính là từng bước chúng ta trở về với Phật tính của chúng ta, từng bước chúng ta trở về với Đức Quan Âm chân thật trong lòng mình. Hãy an trụ trong trạng thái này càng lâu càng tốt.


II. Pháp tu Nyungnay

1. Giới thiệu pháp tu Nyungnay

Phương pháp Nyungnay chính là nghĩa của Bát quan trai giới. Theo Truyền thống của Nguyên thủy Phật giáo, Bát quan trai giới là tám giới Đức Phật chế lập cho Phật tử tại gia. Vì gia duyên còn rằng buộc nên chỉ có thể hành trì Bát quan trai giới trong một ngày, một đêm. Nhưng Bát quan trai giới cũng là căn bản của tất cả Tam thừa. Bởi khi Bát quan trai giới được thực hành cùng với Bồ đề tâm, phát tâm thực hành trì Bát quan trai giới với mục đích lợi ích giải thoát cho hết thảy hữu tình thì tám giới đấy thuộc Bát quan trai giới của Đại thừa. Và Bát quan trai giới khi kết hợp với Kim Cương thừa, trong ngày thọ Bát quan trai thường được thực hành với phương pháp cầu nguyện đến Đức Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, và trở thành pháp Nyungnay.

Trì giới là nền tảng thực hành Phật pháp và pháp tu Nyungnay

Chúng ta đều biết giáo lý quan trọng nhất Đức Phật nhắc nhở chúng ta phải tuân thủtôn trọnggiáo lý về Nhân Quả. Một hành giả không có niềm tin và không có trí tuệ hiểu được giáo lý Nhân Quả sẽ không thực hành được thiện pháp. Vì vạn pháp thế gian này đều hiện diện theo quy luật Nhân Quả, nên trong tất cả các phương pháp thực hành, chúng ta thường thực hành bố thí, cúng dàng bởi đây là những hạt giống để tích lũy công đức trí tuệ. Nhưng điều kiện vô cùng cần thiết và tối quan trọng để thực hành Phật phápchúng ta phải biết trì giới bởi việc trì giới là nền tảng của công đức. Nền tảng này cũng được ví như mặt đất có thể nuôi dưỡng tất cả cây cỏ, muôn thú đến loài người, bao nhiêu sự sống đều tồn tại nhờ có mặt đất. Tương tự như vậy, nếu hành giả không hành trì giới luật sẽ không có phẩm hạnh và không thể kiểm soát được tâm bị chi phối bởi sát, đạo, dâm, vọng, bị thiêu đốt bởi tâm tham lam, giận dữ, tật đố, kiêu căng. Khi ấy, những thiện hạnh và phẩm chất như từ bi, trí tuệ không thể phát triển được. Vì vậy, với tình thươngtrí tuệ vô hạn, Đức Phật Thích Ca đã chế ra giới luật. Đặc biệt, đối với Phật tử tại gia, vì gia duyên còn ràng buộc nên Ngài đã chế pháp trì giới trong một ngày, một đêm. Phát nguyện hành trì giới luật trong một ngày, một đêm thanh tịnh cũng tích lũy được công đức vô lượng, vô biên, kết nhân với sự xuất gia giải thoát. Đây là lý do chúng tapháp thực hành Nyungnay.

Mục đích tối thượng của Phật pháp, Đức Phật dạy chúng ta vô số các phương pháp thực hành chỉ cùng một mục đíchchuyển hóarèn luyện tâm của chúng ta. Làm thế nào để chúng ta có thể chuyển hóa các xúc tình phiền não trong lòng mình, những xúc tình thuộc tham lam, sân giận, tật đố, kiêu căng. Và để chuyển hóarèn luyện tâm thì Biệt giải thoát giới lại là bước đầu tiên, là nền tảng quan trọng nhất giúp chúng ta chuyển hóa tâm.

Thông thường, trong sự thực hành trì giới, chúng ta phát nguyện rằng từ nay con sẽ không bao giờ sân giận, không bao giờ tật đố, không bao giờ kiêu căng. Việc trì giữ nguyện này là vô cùng khó khăn bởi trong đời sống hàng ngày chúng ta hoàn toàn không tỉnh thức và thường bị các xúc tình tiêu cực chỉ huy và dẫn dắt. Ngay cả khi sân phát khởi chúng ta cũng không biết và sau đó chúng ta lại ân hận vì mình đã sân, si. Bởi vậy để giữ được những giới tâm không phải chuyện đơn giản. Nhưng nếu chúng ta phát nguyện thọ Biệt giải thoát giới, phát nguyện không sát hại chúng sinh, không nói dối, không trộm cắp… nhờ giữ gìn Biệt giải thoát giới, từng bước từng bước chúng ta sẽ dần đi vào tâm giớichuyển hóa được những xúc tình tiêu cực trong lòng mình. Bởi vậy, Phật dạy rằng nền tảng căn bản đầu tiên trong Tam vô lậu học chính là Biệt giải thoát giới. Và Biệt giải thoát giới đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp chúng ta chuyển hóarèn luyện tâm mình.

Như vậy nhờ trì giới, khi chúng ta đã rèn luyện thân chúng ta, khẩu chúng ta được tốt đẹp, tức là chúng ta đã giữ giới Biệt giải thoát giới của Nguyên thủy Phật giáo một cách tốt đẹp, thì chúng ta bước đến giai đoạn thứ hai, thêm Bồ đề tâm giới. Bởi vẫn là những giới Biệt giải thoát đó nhưng chúng ta bắt đầu đi vào động cơ của Bồ đề tâm. Có nghĩa là động cơ vô ngã, tất cả mọi thiện hạnh, mọi hành trì giới luật của chúng ta đều hướng về sự giải thoát cho hết thảy chúng sinh. Bởi vậy một vị Bồ tát khi khởi những tâm niệm ích kỷ chỉ nghĩ về bản thân mình sẽ bị xem là bể giới nguyện Bồ tát. Khi thọ giới Bồ tát, chúng ta phát nguyện tất cả mọi hành động, tất cả mọi lời nói, tất cả đời sống của mình cho dù đi, đứng, nằm, ngồi, cũng chỉ vì lợi ích giải thoát cho hết thảy hữu tình. Thân này của mình không thuộc về bản thân nữa mà thuộc về tất cả chúng sinh mẹ đang trôi lăn trong sáu đạo. Mọi hành động đều làm vì lợi ích giải thoát của tất cả hữu tình. Cho nên khi chúng ta khởi những niệm ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân mình, hoặc sân giận, tham lam cho bản ngã, tức là chúng ta bể giới nguyện của Bồ tát. Bởi vậy giới của Bồ tát hay Bồ đề tâm giới chú trọng nhiều đến tâm giới, đến tâm vị tha, vô ngã, hoàn toàn hướng về sự lợi ích của hết thảy hữu tình.

Tiếp theo, giới nguyện của Kim Cương Thừa là từng niệm, từng niệm chúng ta phải an trụ trong tự tính vô phân biệt. Đó là lý do tại sao hành giả tu tập Kim Cương Thừa thụ nhận quán đỉnh, đón nhận sự gia trì từ thân, khẩu, ý giác ngộ của chư Phật Bản tôn, sau đó, chúng ta được phép quán tự thân mình là Phật, tâm của chúng ta chuyển hóa thành tâm giác ngộ của Bản tôn và an trụ trong tự tính bất nhị, bất khả phân, không phân biệt với các Ngài. Bởi hàng ngày, mắt thấy sắc chúng ta phân biệt đẹp xấu, tai nghe thanh chúng ta phân biệt hay dở. Mỗi tư tưởng hiện khởi chúng ta phân biệt tốt hay xấu. Tất cả những tư tưởng, sự phân biệt như vậy gọi là bể giới nguyện của Kim Cương Thừa. Mỗi khi xuất hiện những sự phân biệt, chúng ta phải để cho tất cả những tâm phân biệt tan vào trong bản chất tự nhiên của chúng.

Trong Bát quan trai giới chú trọng đến tám giới của cư sĩ, chúng ta sẽ thực hành, phát nguyện trì giữ Bát quan trai giới, thì bốn giới đầu là bốn giới căn bản, gồm: không sát sinh; không trộm cắp; không nói dối (gồm có đại vọng ngữ, tức là nói dối mình chứng thánh nhân, hoặc tiểu vọng ngữ tức là nói dối hai lưỡi độc ác, thêu dệt…); và không tà dâm. Bốn giới này thường thọ khi chúng ta quy y bởi khi quy y chúng ta thấy rõ sự bình đẳng giữa hạnh phúc của tất cả chúng sinh với hạnh phúc của mình. Khi bị đứt tay một chút thôi mình cũng thấy đau đớn, khổ sở. Vậy thì làm thế nào chúng ta có thể cắt cổ, mổ bụng chúng sinh, sung sướng khi ăn gan, uống máu của chúng sinh. Bởi thế, một người quy y đã phải trì giữ năm giới. Bốn giới đầu, tức là bốn việc sát sinh, trộm cắp, tà dâmnói dối, là những nhân khiến chúng ta đọa ba đường ác. Phật chế ra bốn giới giúp chúng ta cắt đứt những nhân đọa ba đường ác. Một giới nữa là không uống rượu, tức là một hành giả tu tập Bát quan trai giới hay ngũ giới không được phép uống rượu. Giới này giúp chúng ta đạt được trí tuệ tỉnh thức. Khi chúng ta uống rượu, chúng ta mất trí tuệ, hoàn toàn không tự chủba nghiệp chúng ta sẽ tạo lỗi lầm. Và ba giới sau tức là giới không nằm giường cao, tốt, rộng lớn; không xem nghe kỹ nhạc, không trang điểm; và không ăn phi thời. Ba giới này là ba giới giảm thiểu những nhân sinh tử và hướng chúng ta theo con đường xuất thế, con đường của chư Phật, Bồ tát. Bởi cái việc hát hò, xem nghe kỹ nhạc, hay việc trang điểm cho thân thể của mình, hay việc ngồi giường cao, tốt, rộng lớn đều tăng trưởng sự bám chấp vào bản ngã. Khi chúng ta bám chấp, yêu quý và chiều chuộng cái thân này nên chúng ta thích trang điểm, thích nằm giường cao, tốt, rộng lớn hoặc chúng ta thích nghe hát, xem nhạc… để tiêu khiển. Tất cả những việc làm đó là những việc làm vô ích, không gieo được những nhân lợi lạc mà đắm chìm thêm nhân của sự đọa lạc trong luân hồi. Và việc ăn phi thời của chúng ta, tức là trong việc thọ Bát quan trai, sau mười hai giờ chúng ta không ăn, không ăn mặn, không ăn thịt, không ăn hành, tỏi trong những ngày thọ Bát quan trai. Việc này vô cùng quan trọng, bởi buổi chiều là giờ ăn của ngạ quỷ. Khi chúng ta ăn cơm, tất cả các loại quỷ đói sẽ nổi giận vì quá đói nên khi thấy thức ăn họ bèn nổi lửa tự thiêu. Vì miếng ăn của chúng ta, biết bao loài quỷ đói phải khổ sở. Bởi vậy, một người hành trì Bát quan trai giới sẽ không ăn sau bữa trưa, tức là không ăn chiều. Mà ngay cả cái việc giảm ăn cũng vô cùng lợi ích, vì chúng ta biết rằng, nếu nói vấn đề ăn mặc tức là phải giết hại chúng sinh, thì việc đấy đã quá tổn thương tới chúng sinh. Ngay cả việc để trồng lên một cây lúa, trồng lên một hạt gạo, đã biết bao nhiêu trùng, sâu, bọ phải chết vì hạt gạo mà chúng ta ăn. Bởi vậy chúng ta giảm được bữa ăn tối là lòng từ bi hướng đến loài ngạ quỷ, và cũng là lòng từ bi để chúng ta hộ cho tất cả những chúng sinh bớt sự chết chóc, bản thân chúng ta không gieo nhân trong sinh tử, luân hồi. Như vậy, tám giới gọi là Bát quan trai giới thì bốn giới đầu là cắt đứt các nhân đọa lạc trong sinh tử, ba đường ác; một giới sau cắt đứt nhân vô minh, giúp chúng ta đạt được trí tuệ tỉnh thức. Ba giới cuối giúp chúng ta giảm bớt những nhân trong sáu đạo và giúp chúng ta hướng theo con đường xuất thế của Phật và Bồ tát. Bởi vậy đối với Phật tử tại gia, ngày thọ Bát quan trai giới là ngày chúng ta tập xuất gia một ngày để hướng theo con đường xuất thế của chư Phật, Bồ tát, đem lại sự giải thoát cho hết thảy hữu tình.

2. Hướng dẫn thực hành Nyungnay

Có rất là nhiều cách để thọ Bát quan trai giới, chúng ta có thể thọ Bát quan trai giới theo quan kiến của Nguyên thủy Phật giáo, có nghĩa là phát tâm thọ Bát quan trai để có thể giải thoát khỏi sáu đạo, để được tập hạnh xuất gia một ngày và gieo nhân xuất thế. Đó là động cơ theo Nguyên thủy Phật giáo. Nếu chúng ta phát nguyện thọ Bát quan trai giới vì lợi ích của hết thảy hữu tình, vì sự giải thoát của tất cả chúng sinhchúng ta thọ giới hôm nay. Đấy gọi là thọ Bát quan trai giới theo Đại thừa Phật giáo. Và chúng ta có thể thực hành Bát quan trai giới theo pháp của Kim Cương Thừa. Thọ Bát quan trai giới có nghĩa là sáng ngày ra khi minh tướng xuất hiện, lúc có thể nhìn thấy chỉ tay của mình, chúng ta sẽ giữ giới từ giờ khắc đó, chúng ta thọ đến ngày hôm sau, giữ giới đến ngày hôm sau. Có bốn cấp độ của việc trì giữ Bát quan trai theo Kim Cương Thừa. Cấp độ thứ nhất, tức là mục đích chính của việc thọ Bát quan trai, giảm ăn để chúng ta thiền định trở về với tâm bất nhị, tâm Phật tính của mình. Khi thọ Bát quan trai, nếu chúng ta không thể tắm được hết toàn thân của mình thì ít nhất mình cũng phải rửa mặt, rửa tay chân, sau đó đỉnh lễ quy y, phát Bồ đề tâm và xin thọ giới nguyện. Ngày thứ nhất thọ giới gọi là Nay, tức là chúng ta có thể uống trà và ăn một bữa trưa, sau đấy chúng ta trì tụng, đỉnh lễthiền định. Nhưng ngày thứ hai gọi là Nyung, chúng ta lại hoàn toàn không ăn uống gì cả, nhịn luôn cả ngày, không ăn không nói, tịnh khẩu, miệng không nói lời nào, hoàn toàn tịnh khẩu, không ăn không uống, chỉ tập trung thực hành thiền định, giảm thiểu tất cả những hoạt động không cần thiết. Chư Phật, Bồ tát dạy rằng trong ngày thọ Nyungnay, tức là một ngày chúng ta nhịn đói với động cơ vì lợi ích, vì sự giải thoát của hết thảy hữu tình, là một ngày chúng ta cắt được vô số nhân sẽ đọa địa ngục, ngạ quỷ. Bởi vì miệng chúng ta tịnh khẩu, nên không tạo khẩu nghiệp. Thân chúng ta không đi lại nhiều, không hoạt động, chỉ thiền định, cho nên chúng ta không tạo ác nghiệp của thân. Và tâm chúng ta tập trung vào việc thiền định, an trụ trong tự tính tâm của mình, cho nên chúng ta gieo những nhân giải thoát.

Chúng ta có thể thọ giới Nyungnay hai ngày, tức là một ngày chúng ta ăn một bữa và một ngày chúng ta nhịn đói trắng. Hoặc chúng ta có thể phát nguyện thực hành bốn ngày, tám ngày, bao nhiêu ngày tùy theo tâm nguyện của mình.

Lịch sửcông năng của pháp tu Nyungnay

Về lịch sử của pháp tu Nyungnay: Pháp tu Nyungnay được truyền từ Bồ Tát Quan Âm, xuống Ngài Atisa, từ Ngài Atisa truyền xuống Tỳ kheo ni Palmo giàu đức hạnh xả ly. Cô xuất gia và muốn giải thoát ngay trong một đời vì lợi ích của hết thảy hữu tình. Trong suốt cuộc đời, hàng nghìn lần, hàng nghìn ngày cô thực hànhcuối cùng đã thành tựu pháp tu Nyungnay. Đức Quan Âm thường thị hiện và ban phúc cho cô. Lịch sử kể lại rằng, vì vốn rất nghèo nên cô giống như một kẻ ăn mày lang thang, bẩn thỉu nhưng thực chất cô là một Tỳ kheo ni xuất gia. Một lần, cô muốn vào một ngôi chùa ở Nepal để đỉnh lễ Đức Quan Âm nhưng người giữ cổng chùa không cho vào, bởi trông cô quá bẩn thỉu, dơ dáy. Nghĩ trong lòng rằng, với mình Đức Quan Âm không bao giờ xa cách nên cô ra phía sau lưng của chùa và thực hành pháp Nyungnay trọn vẹn một ngày một đêm với tâm chí thành tha thiết đỉnh lễ Đức Quan Âm. Sáng hôm sau, khi mở cửa chùa, chư Tăng mới nhìn thấy tượng Đức Quan Âm, tức là bức tượng của Ngài đã quay lưng lại và hướng mặt vào tường tức là hướng mặt về phía Tỳ kheo ni Palmo đang thực hành Nyungnay. Cho đến tận bây giờ, ngôi chùa vẫn đang còn tồn tại ở Nepal với bức tượng Quan Âm quay mặt vào tường, như một minh chứng sống động cho sự thực hành Nyungnay của Tỳ kheo ni Palmo. Bởi vậy, pháp Nyungnay gắn liền với quán đỉnh của Bản tôn Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt mà hôm nay Đại đức Trụ trì tha thiết thỉnh cầu chúng tôi chuyển pháp Nyungnay ở đây.

Đối với Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa, Bậc Thầy của chúng ta thì pháp thực hành Nyungnay lại là một pháp thực hành chính của Ngài. Tôi nhớ ngay từ hồi còn thơ ấu, tôi thường thấy Đức Pháp Vương thực hành pháp Nyungnay. Ngài thực hành một bộ, tức là trong vòng hai ngày. Tôi không thường ở gần Ngài nhiều nhưng chính bản thân tôi đã chứng kiến Ngài thực hành hàng trăm lần pháp Nyungnay để rèn luyện tâm và thực hành thiền định. Bởi vậy pháp tu Nyungnay giúp cho chúng ta thiền định, lễ Phậtvô cùng cần thiết để giảm thiểu tất cả những nghiệp bất thiện, đồng thời thực hành thiện pháp lợi lạc cho hết thảy hữu tình. Phương pháp thực hành Nyungne này cho đến bây giờ tất cả Ni chúng của Ngài ở tu viện Amitabha vẫn thường thực hành một bộ hai ngày vào các ngày 15 và ngày mùng 8 mỗi tháng.

Như vậy, pháp Nyungnay là một trong những phương pháp thực hành vô cùng quan trọng của Kim Cương Thừa giúp cho chúng ta tịnh hóa cả phần thân thểvật chất. Khi nhịn đói cũng sẽ tịnh hóa được cả ba nghiệp thân, khẩu, ý của chúng ta. Nếu trong đời có thể thực hành tám lần, tức mười sáu ngày, với điều kiện là trong khi thực hành pháp Nyungnay chúng ta không được bể giới dù chỉ một chút nhỏ nào, thì công đức sẽ vô lượng, vô biên. Chẳng hạn giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni cũng có giới không ăn phi thời nhưng Đức Phật dạy khi đã ốm đau, bệnh hoạn cũng có thể dùng chút sữa, chút cháo cho đỡ bệnh. Nhưng đối với pháp Nyungnay, bởi thời gian chỉ là bốn mươi tám giờ cho nên không thể để một tơ hào vi phạm. Nếu chúng ta lỡ phạm khi phát nguyện thọ Nyungnay thì tội lỗi cũng rất lớn. Trong kinh Đức Quan Âm dạy rõ rằng, nếu ai trong đờithực hành tám lần Nyungnay tức là mười sáu ngày thì bao nhiêu tội lỗi sinh tử trong đời sẽ đều tiêu diệt. Và Ngài hứa nguyện rằng, đến lúc lâm chung Ngài sẽ tiếp dẫn hành giả về Tịnh độ. Bởi vậy, Đức Nhiếp Chính Vương thường khuyên tất cả học trò và đệ tử của Ngài cố gắng thực hành Nyungnay trong đời ít nhất là tám lần trong đời. Và đối với người mất, hành giả có thể cúng dàng cho pháp hội Nyungnay, cho dù một chút trà, một chút thực phẩm vào ngày đầu đều sẽ được công đức vô lượng để hồi hướng cho người đã mất.

Drukpa Việt Nam


Ý kiến bạn đọc
30 Tháng Mười Hai 201411:43
Khách
a di đà phật
25 Tháng Tám 201404:33
Khách
y nghia va hung dan thuc hanh phu tu phat quan am
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10025)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10429)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10042)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20196)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11509)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13668)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 18904)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46533)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 11995)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11550)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 22882)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17717)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10037)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17568)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13788)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 13923)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 14965)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20155)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18108)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17243)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18020)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12598)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12697)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13287)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 16873)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11378)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18166)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18461)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21211)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 21951)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16735)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12468)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15230)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24335)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14131)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11528)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19512)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13277)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22678)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18875)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 21487)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20434)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19901)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13954)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14909)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13716)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15016)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17103)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15152)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12734)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15775)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12847)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13020)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 14930)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22493)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7066)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19227)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37372)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9042)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8524)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17746)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14793)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 26877)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19772)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15180)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15368)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26679)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14460)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19527)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14488)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18542)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15798)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16230)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19246)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19614)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19814)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18520)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29656)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14486)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17651)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32230)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15196)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17200)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29612)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31346)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64495)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32648)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20077)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18420)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30668)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19789)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45776)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32449)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39178)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40258)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 49921)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19010)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18454)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20579)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19305)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant