Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ý nghĩa và hướng dẫn thực hành pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu Tara

17 Tháng Tư 201300:00(Xem: 22699)
Ý nghĩa và hướng dẫn thực hành pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu Tara


tara-drukpa-01Chủ nhật ngày 14/4 (tức 5.3 Â.L), Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa và tăng đoàn Truyền thừa quang lâm, cầu nguyện quốc thái dân an và ban đại lễ gia trì quán đỉnh cộng đồng Lục Độ Phật Mẫu Tara.

Từ hàng ngàn năm nay, đức Lục Độ Phật Mẫu là vị Bản tôn Mẫu tính được tôn kính nhất trong truyền thống Kim Cương thừa. Trong vô số kiếp quá khứ, khi thấu suốt căn nguyên của khổ đau luân hồi, với lòng từ bi vô hạn và hạnh nguyện lợi tha, Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara đã phát nguyện rằng bất kỳ chúng sinh nào nghe được danh hiệu Ngài, nhìn thấy Ngài, trì niệm chân ngôn của Ngài thì tất những ước nguyện thế gian đều được sở cầu như ý, ngay cả tâm nguyện xuất thế gian cũng sẽ viên mãn. Phật Mẫu Tara vì thế nêu biểu cho phẩm chất giải thoátbảo hộ hữu tình. Ngài là bậc từ mẫu đáp ứng mọi thỉnh cầu, giải thoát chúng sinh khỏi mọi hiểm nguy, chướng ngại trên phương diện thế gian và cả trên hành trình thực hành tâm linh.

Để giúp đỡ quý vị Phật tử có sự chuẩn bị và tri thức cần thiết khi tham dự Pháp hội, Drukpa Việt Nam xin giới thiệu toát yếu các khai thị của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa về ý nghĩa và hướng dẫn thực hành pháp tu Lục Độ Phật Mẫu Tara.

 

 

tara-drukpa-02OM JÉ TSUNMA PHAGMA DrOLMALA CHHAGTSHEL LO/

OM- Kính lễ Lục Độ Mẫu Bản tôn!

CHHAGTSHEL TARÉ NYURMA PAMO/

Chí thành đỉnh lễ quy y

Tara Phật Mẫu dũng uy phi thường,

TUTTARA YI JIGPA SELMA/

TUTTARA đại lực cường

Bao nhiêu sợ hãi Ngài thương giải trừ,

TURÉ DONKUN DJINPÉ DrOLMA/

Âm TURE nghĩa thắng dư

Mọi điều sở nguyện ban cho toại thành,

SOHA YIGÉ KHYÖELA DÜETO/

SOHA hai chữ diệu linh

Con nay đỉnh lễ, rạp mình tán dương!

1. Lợi ích của pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu Tara

Cuộc sống đời người luôn kèm theo các nỗi lo sợ bên trong và bên ngoài, bám suốt đeo đẳng từ khi sinh ra đến lúc chết đi, từ vô thủy luân hồi tới mãi về sau cũng như vậy. Sinh ra từ giọt nước mắt của lòng bi mẫn Quan Âm, Đức Lục Độ Phật Mẫu hiện diện nơi thế gian để ban gia trì trường thọ, cứu giúp chúng ta thoát khỏi mọi tai ách, mang tới hạnh phúc an lạc cho vô lượng chúng sinh. Ngài là Bậc hộ trì che trở, giải cứu chúng sinh khỏi tám nỗi sợ hãi, bao gồm những sợ hãi về tứ đại, các bi kịch thế gian và những hoạn nạn hiểm nguy nơi thân tâm. Bất kỳ ai nếu có bất kỳ khó khăn chướng ngại nào trong cuộc sống hoặc có bất kỳ mong nguyện nào chỉ cần chí thành cầu nguyện đến Ngài tức thời được giải trừ nguy hiểm.

tara-drukpa-03Pháp thực hành Tara liên quan đến việc cầu nguyện lên 21 hóa thân Tara để bảo vệ chống lại các tác động phương hại khác nhau, chẳng hạn như Phật mẫu Tara an bình màu trắng chống lại sự suy thoái của thế giớihữu tình, những thù nghịch công kích, ốm đau, ma thuật; đức Tara màu đỏ chống lại hiểm họa từ nước như lụt lội, chết đuối, ô nhiễm nước ăn, các tác động xấu do ham muốn gây ra; đức Tara màu vàng chống lại thảm họa từ thiên thạch, sấm chớt, mưa đá, tuyết lở cùng tác hại từ các sinh linh ma quỷ, thù hận, ghen tỵ; Phật mẫu Tara bảo vệ chống lại sự phương hại từ Vũ khí, giúp thế giới tránh cảnh chiến tranh, diệt vong, những thảm họa đối nghịch săn đuổitác hại của xúc tình phiền não sân giận… 21 hóa thân Tara tượng trưng cho hai mươi mốt hạnh nguyện, phù hợp với các mong cầu khác nhau của chúng sinh, giúp chúng sinh thành tựu tu tậpbảo hộ họ khỏi tai nạn nguy hiểm. Những ai có thể hành trì ba lần hoặc bảy lần cầu nguyện đến 21 Độ Mẫu mỗi ngày thì mọi mong nguyện rất dễ thành tựu, mọi chướng ngại sẽ dễ vượt qua.

Đức Lục Độ Phật Mẫu như thế được tôn xưng là mẹ của tất cả Chư Phật, mẹ của tất cả vũ trụ và của hết thảy yếu tố đất, nước, gió, lửa. Bởi Ngài nắm giữ toàn bộ sự gia trì nên bất cứ chúng sinh cầu nguyện điều gì với tâm chí thành tha thiết đều sẽ được như nguyện. Vì thế pháp thực hành lễ tán cúng dàng đức Lục Độ Phật Mẫu và việc trì niệm chân ngôn của Ngài là vô cùng quan trọng và thù thắng.

 

 

2. Ý nghĩa của Đức Tara

tara-drukpa-04Kinh điểngiáo lý Kim Cương thừa đưa ra nhiều cách tiếp cận về ý nghĩa của Đức Tara. Theo cách hiểu chung nhất, Tara là một vị Phật. Dưới góc độ lịch sử, Ngài từng là một nữ hành giả phát Bồ đề tâm đạt giác ngộ tối thượng để lợi ích chúng sinh. Kinh điển cũng dạy rằng Đức Tara là giọt lệ của lòng bi mẫn, hiện thân công hạnh của Đức Phật Quan Âm. Theo cách hiểu khác, đức Tara là hiện thân của phẩm hạnh giác ngộ. Cuối cùng, cũng có thể hiểu đức Tara là tiềm năng Phật tính sẵn có nơi mỗi người.

Đức Tara là Phật

Đức Tara hay Lục Độ Phật Mẫuđức Phật, bất kỳ ai đều có thể trở thành Phật. Chúng ta cần biết có rất nhiều đức Phật và các cõi Tịnh độ của các Ngài song tâm toàn tri chỉ có một và phẩm hạnh, công đức, trí tuệ của các bậc giác ngộ đều như nhau. Chư Phật đã loại bỏ được tất cả phiền não, tựu chung được chia làm hai loại: Phiền não chướngSở tri chướng. Những chướng ngại này là nguyên nhân khiến chúng ta mắc kẹt trong đau khổ luân hồi. Sở tri chướngvô minh phiền não vi tế trong tâm chúng sinh, phiền não chướng là những trạng thái si mê, sân giận, tham áinghiệp quả đã vận chuyển vòng quay luân hồi. Bất kỳ đức Phật nào đều hoàn toàn xả ly mọi loại phiền não trên và hoàn thiện trưởng dưỡng tất cả phẩm hạnh như Từ, Bi Hỷ, Xả cũng như viên mãn công hạnh Ba la mật bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.

Sắc tướng Phật mẫu của Đức Tara biểu trưng cho trí tuệ là nhân tố chính để loại bỏ vô minh. Sự vô minh này đã gây lầm lẫn thực tại và là gốc rễ của sự đau khổ. Người phụ nữxu hướng cảm nhận và nhận thức nhanh chóng nhờ vào trực giáctrí tuệ bí mật. Đức Tara biểu trưng cho phẩm hạnh này! Một cách không quản ngại, Ngài có khả năng giúp chúng ta phát triển những phẩm hạnh đó. Vì Ngài biểu trưng cho trí tuệ chứng ngộ thực tại, tâm tự do khỏi vô minh chấp thủ, bản ngã nên Ngài được tán thán là Mẹ của tất cả chư Phật.

Đức Tara là nhân vật lịch sử

tara-drukpa-01

Vô số kiếp trong một cảnh giới khác, có một công chúa tên là Yeshe Dawa. Nhờ sở học và trí tuệ của mình, nàng có lòng tin kiên cố với ba ngôi Tam Bảo. Nàng thấu hiểu đời sống bất như ý của bản chất luân hồiquyết định giải thoát khỏi tất cả mọi đau khổ. Do thấu hiểu tất cả chúng sinh cũng giống như mình đều muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau nên Công chúa đã trưởng dưỡng lòng từ bi và tình yêu thương hướng về muôn loài hữu tình. Nàng không thích lối sống xa hoa trong cung điện vàng ngọc, và đã phát lời nguyện dẫn dắt hướng đạo cho hàng nghìn chúng sinh trên con đường giải thoát mỗi ngày trước bữa ăn sáng, cho hàng nghìn chúng sinh trước bữa ăn trưa, và thậm chí nhiều hơn nữa trước khi đi ngủ. Vì nhân duyên này, công chúa được tôn xưng là Arya (Bậc tôn quý) có nghĩa là Nàng có thể chứng ngộ trực tiếp bản chất của thực tại và danh xưng đó biểu lộ các hạnh nguyện giải thoát của Nàng. Một bậc lãnh tụ tâm linh của thời đó đã khuyên Công chúa hãy cầu nguyện để tái sinhgiác ngộ trong thân trượng phu. Nhưng Công chúa Yeshe Drawa đã phát nguyện thành tựu giác ngộ trong thân người nữ và còn liên tục hóa thân trở lại trong hình tướng nữ nhân để cứu độ hữu tình. Và từ đó, Ngài bắt đầu tích lũy những công đức trí tuệ cho đến khi đạt giác ngộ trong hình tướng Đức Phật Mẫu Tara.

Dù cho chúng ta là thân nam hay nữ thì Đức Tara lịch sử là tấm gương cho chúng ta. Giống như mọi hữu tình, Ngài cũng từng là một chúng sinh bình thường, cũng từng bị chi phối bởi xúc tình phiền não. Nhưng nhờ phát nguyện, tu tập Phật pháp rèn luyện tâm linh nên Ngài đã đạt được toàn giác. Giống như vậy, nếu biết phát đại nguyệnthực hành giáo pháp với niềm tinh tấn hỷ lạc, chúng ta cũng có thể được thành tựu giác ngộ như Ngài. Câu chuyện về Ngài là tấm gương sách tấn lớn lao đối với mỗi chúng ta trên con đường tu tập!

Tara là hiện thân công hạnh của Đức Quan Âm

tara-drukpa-05Trong một bản Kinh Lục Độ Phật Mẫu khác có kể rằng: Đức Tara được sinh ra từ giọt nước mắt bi mẫn của Đức Quan Âm. Nhân duyên vì Đức Avalokiteshvara hay Đức Quan Âm đã không ngừng cứu độ chúng sinh để giải thoát tất cả thoát khỏi cõi địa ngục thống khổ. Sau khi hoàn thành công hạnh này, Ngài chỉ kịp nghỉ ngơi một chút, nhưng ngay sau đó Ngài nhận ra rằng trong cõi địa ngục thống khổ kia thoáng chốc lại đầy tất cả những chúng sinh mình vừa cứu khỏi, bởi họ lại vừa tạo tác thêm những ác nghiệp cực trọng. Trong khoảnh khắc tuyệt vọng, Đức Quan Âm đã nhỏ những giọt nước mắt bi mẫn vì lời nguyện cứu khổ cho những chúng sinh vô minh đó. Một trong những giọt nước mắt từ bi của Đức Quan Âm đã biến thành Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara để khích lệ Ngài trên con đường Bồ Tát hạnh. Khi đó, Đức Tara đã phát nguyện rằng: "Xin Ngài đừng tuyệt vọng, tôi nguyện cùng Ngài giải thoát tất cả chúng sinh vô minh trong cõi luân hồi thống khổ mà không để sót một ai!"

Đức Tara phát nguyện rằng bất kỳ người nào nghe được danh hiệu Ngài, nhìn thấy Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì tất nhưng ước nguyện thế gian đều được sở cầu như ý, ngay cả tâm nguyện xuất thế gian cũng được viên mãn. Nguyên do đức Tara nhìn thấy nỗi khổ của luân hồi vì mong nguyện thế gian của chúng sinh không được như ý. Ngài liền phát nguyện có đầy đủ năng lực giúp họ viên mãn được mọi sở cầu thế gian, và để rồi dần giúp họ giác ngộ về chân lý tuyệt đối. Nếu biết thực hành nghi quỹ Tara một cách đúng đắn với Bồ Đề tâm chân thật vì lợi ích giác ngộ cho hết thảy khổ não chúng sinh thì tất cả những gì mà chúng ta mong nguyện tự lợi lợi tha đều được thành tựu.

 

Đức Tara là hiện thân của các Công hạnh giác ngộ

tara-drukpa-06Tâm đức Phật siêu vượt các khái niệm hạn hẹp hiện tại của phàm phu, tất cả các bậc giác ngộ đều thực hành vô số kiếp để tịnh hóa tâm và phát triển khả năng lợi ích chúng sinh. Mỗi hóa thân của chư Phật nêu biểu cho những phẩm hạnh giác ngộ như Từ, Bi, Hỷ, Xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Đức Phật Mẫu Tara giống như những Bản tôn thiền định khác là một trong những hóa thân đó!

Nếu như mỗi hóa thân có thể biểu trưng nhấn mạnh vào những phẩm hạnh cụ thể, thì đức Tara xanh biểu trưng cho Công hạnh giác ngộ của mười phương ba đời chư Phật, trong khi đức Quan Âmhóa thân của lòng Từ bi hay đức Văn Thù nêu biểu cho Trí tuệ... Các hóa thân của Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara đều được mô tảbản tôn có thể tiêu trừ sợ hãi, chướng ngại và đem lại sự viên mãn thành tựu cho chúng sinh, đặc biệt còn có đức Bạch Độ Mẫu Tara với khả năng giúp tiêu trừ bệnh tật và ban cho đời sống trường thọ.

Đức Tara là tinh túy Phật

Quan điểm thứ ba về Đức Tara là phản ánh của tiềm năng Phật tính hiện tại trong mỗi chúng ta, sẽ được phát triển toàn vẹn trong tương lai. Làm thế nào để chứng ngộ được Phật tính? Một cách ngắn gọn, chúng ta tu tập theo con đường giác ngộ, có ba điểm chính yếu nên khắc cốt ghi tâm:

 

  • Thứ nhất: Phát tâm thoát khỏi luân hồi đau khổ.
  • Thứ hai: Phát khởitrưởng dưỡng Bồ đề tâm lợi ích chúng sinh.
  • Thứ ba: Chính kiến, trí tuệ thực chứng tính không hợp nhất với bản tâm tuyệt đối của chính mình.

 

Thân tâm vi tế của chúng ta có khả năng chuyển hóa thành thân tâm giác ngộ hoàn hảo như chư Phật. Khi quán tưởng đức Phật Mẫu Tara và sùng kính Ngài, chúng ta cần thấu hiểu rằng đó là công hạnh, trí tuệ, thần lực mà mình đang được viên mãn, nhờ đó sẽ được truyền cảm hứng để chuyển hóa tâm trên con đường thành tựu tối thượng!

Bởi năng lực phi thường vì lợi ích chúng sinh, từ hàng ngàn năm nay, đức Lục Độ Phật Mẫu là vị Bản tôn Mẫu tính được tôn kính nhất trong truyền thống Kim Cương Thừa. Ngày và đêm, lúc an bình hay loạn lạc chiến tranh luôn có các chúng sinh ở khắp nơi cầu nguyện thỉnh cầu sự gia trìcứu độ của Ngài, và Ngài không hề từ nan quản ngại trong việc viên mãn công hạnh đó. Mật pháp cầu nguyện cúng dàng Tara là pháp tu trì cần thiết của tất cả hành giả Kim cương thừa để có thể thực hành Tam mật tương ưng, kết nối với Ngài và qua đó viên mãn tâm nguyện lợi tha; Đây chính là pháp thực hành phổ thôngthiết thực nhất mà người Phật tử nên hành trì để vững bước trên hành trình giác ngộ!


3. Ý nghĩa hình ảnh Bản tôn Lục Độ Phật Mẫu

tara-drukpa-02

Phương pháp hiệu quả để vượt qua chướng ngạiđạt được thành công trong cuộc sống cũng như thành tựu giác ngộ là sự thực hành, cầu nguyện thỉnh cầu Đức Tara. Ngài là bậc giải thoát, hiện thân của trí tuệ, lòng bi mẫn, tình yêu thươngđặc biệtcông hạnh thiện xảo của mười phương chư Phật. Mỗi chi tiết trong hình ảnh của đức Tara nêu biểu của các khía cạnh khác nhau của con đường Đạo giải thoát. Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực hướng đến tất cả chúng sinh, làm tươi mới tim mình, chí tâm với pháp thực hành và lân mẫn với Thượng sư chứng ngộ để thực hành Thượng Sư Tara giúp chuyển hóa tất cả những thân, khẩu, ý nhiễm ô của bạn trở thành thân, khẩu, ý linh thiêng của đức Lục Độ Phật Mẫu.

Đức Tara là hiện thân hợp nhất của đại lạctính không. Sự đại hỷ lạc phương tiện thiện xảotrí tuệ tính không của tất cả chư Phật đều xuất hiện trong sắc thân của Đức Tara để truyền cảm hứng cho chúng ta phát triển Bồ đề tâm, trưởng dưỡng những công hạnh lợi tha. Nhờ vào hiểu biết các ý nghĩa, biểu tượng và các phẩm chất của sắc thân của Đức Tara, chúng ta sẽ có niềm tin chí thànhtinh tấn đi theo con đường Ngài hướng đạo để tỏa chiếu những phẩm chất, công hạnh, thần lực Tara trong tự thân chúng ta.

Trước hết, màu sắc của Đức Phật Mẫu Tara biểu trưng các công hạnh thành tựu. Dù Ngài có cùng phẩm hạnh như là các hiện thân của bậc toàn tri khác, Đức Tara đặc biệt hiện thân cho các công hạnh giác ngộ của chư Phật, gia trì đem lại lợi íchchúng ta. Thêm vào đó, Ngài đại diện khía cạnh thanh tịnh của Không đại, vì Không đại bao hàm tất cả các sự vật hiện tượng. Những ảnh hưởngcông hạnh của Đức Tara làm những phẩm hạnh vô ngã vị tha tiềm tàng của chúng ta nở hoa giác ngộ thơm ngát muôn phương. Những hạt giống tốt mọc dễ dàng là niềm vui của người nông dân. Cũng vậy, sắc xanh của Ngài nêu biểu cho sự thành công của sự xả bình đẳng trong thế giới trần tục, cũng như trong sự phát triển thế giới tâm linh cho chúng ta cảm giác vui vẻ, hy vọnglạc quan. Những tâm nguyện của Đức Tara có thể dễ dàng nở hoa kết trái và hạnh nguyện của Ngài nhanh chóng cảm ứng tới chúng sinh không thể nghĩ bàn. Vì lý do này, bằng sự quán tưởng và cầu nguyện Đức Tara, chúng tanăng lực để tạo ra nhân của hạnh phúc và sự thông tuệ trong sự thực hành pháp trên con đường tự lợi, lợi tha.

Sắc thân của Đức Tara kết tinh bằng ánh sáng và thuộc về phương Bắc. Thân ánh sáng của Ngài xuất hiện nhưng không thể nắm bắt, giống như cầu vồng, ảo cảnh. Thân ánh sáng này là biểu trưng cho sự hợp nhất của hai chân lý: Chân lý tương đốiChân lý tuyệt đối. Trong mức độ chân lý tương đối, Đức Tara xuất hiện tồn tại. Ấy vậy mà khi chúng ta tìm kiếm sự tồn tại tuyệt đối của Ngài thì không thể tìm thấy bất kỳ thứ gì tồn tại một cách cố hữu, độc lập từ các nhân và điều kiện, các phần, thuật ngữ và khái niệm. Đức Tara xuất hiện một cách tương đối giống như ảo giác, không thể tìm thấy nắm bắt được và chỉ là tính không.

Thân của Đức Tara diễn tả sự nội chứng bên trong và các công hạnh vị tha bên ngoài. Tư thế vũ điệu du hý của Ngài tự do, cởi mở và thân thiện, chân phải của Ngài duỗi xuống chỉ ra sự sẵn sàng bước xuống cõi luân hồi đau khổ để cứu giúp chúng tachúng sinh vô minh. Nhờ năng lực của lòng bi mẫn, Đức Tara có thể ứng hiện trong mọi cõi giới. Ngài không trốn tránh sự khổ đau mà đối mặt nó một cách vô úytừ bi bằng cách trung hòa đau khổ.

Chân trái Ngài co vào phía trong lòng, tỏ rõ rằng Ngài kiểm soát toàn bộ năng lượng vi tế bên trong, từ bi không quản ngại vấn đề gì, cho dù ai đó tán thán hay hủy báng, làm tổn hại hay giúp đỡ, năng lực của Ngài không vì thế trở nên mất cân bằng và tâm Ngài không rời bình đẳng xả.

Tay phải Ngài trong tư thế thực chứng siêu việt bằng cách thực hành tu tập để tự thân thành tựu sự chứng ngộ. Tư thế này cũng gọi là Thí Nguyện Ấn là tư thế bố thí nêu biểu Ngài sẵn sàng ban cho tài sản, tình yêu thương, sự bảo hộgiáo pháp để tất cả chúng sinh tùy theo những nhu cầu và những mong ước của họ đều được viên mãn.

Tay trái của Ngài là Ấn Tam Bảo, với ngón tay cái chạm vào ngón tay đeo nhẫn và 3 ngón tay kia hướng thẳng, 3 ngón duỗi thẳng nêu biểu Tam bảo Phật, Pháp, Tăng có nghĩa rằng giao phó bản thân chúng ta nương tựa Ba ngôi báu và thực hành giáo pháp giải thoát. Ngón cái và ngón áp út chạm nhau nêu biểu chúng ta có thể hợp nhất lòng từ bi hỷ lạctrí tuệ tính không.

Tay phải của Đức Tara và chân phải đều duỗi hướng ra phía ngoài, nhấn mạnh các công hạnh hạnh từ bi vị tha, phương tiện thiện xảo của con đường giác ngộ. Tay trái và chân trái của Ngài đều thu vào phía người biểu đạt sự điềm tĩnh an bình bên trong đạt được thông qua việc thực hành trí tuệ của đạo giải thoát.

Trong mỗi bàn tay của Ngài trì giữ hoa Utpala, hoa sen xanh. Bên phía tay trái, một bông nụ là nêu biểu chư Phật tương lai, bông nở hoàn toàn là nêu biểu chư Phật quá khứ, bông đang nở là nêu biểu đức Phật hiện tại. Trên vương miện của Đức Tara là Bản Sư Di Đà an bìnhmỉm cười. Vì đức Phật Di Đà là bậc thượng sư hướng đạo tâm linh của Đức Tara, được an trí trên vương miện của đức Tara nhằm nêu biểu tầm quan trọng khi có bậc Căn bản Thượng sư đầy đủ phẩm hạnh trí tuệlòng từ bi dẫn dắt đệ tử đi đúng trên con đường giác ngộ, và cũng nêu biểu Đức Tara luôn trú tâm vào giáo pháp mà Ngài được đón nhận từ bậc Thượng Sư của mình. Điều này nhắc nhở chúng ta thực hành noi theo thiện hạnh của Ngài.

Tiếp theo là các sức trang hoàng. Nếu phàm nhân chúng ta thường trang điểm cho thân thể mình những trang sức bên ngoài để trông cho đẹp mắt thì vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong đức Tara là lòng từ, bi, hỷ, xả mới thực sự là trang sức của Ngài. Sáu sức trang hoàng: Vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, vòng chân, đai lưng, vương miện bằng ngọc báu sáng chói trang hoàng trên sắc thân Ngài nêu biểu cho sự viên mãn sáu Ba la mậtbố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền địnhtrí tuệ Ba La Mật và mọi công hạnh lợi tha này là trang sức giải thoát của báo thân Ngài.

Đức Tara cũng trang hoàng với ba chữ chủng tử, chủng tử OM trên vương miện, chữ AH tại luân xa cổ họng và chữ HUNG tại luân xa tim. Ba chữ chủng tử này tương ứng với thân, khẩu, ý giác ngộ của Phật và nêu biểu cho Tam quy: Phật, Pháp, Tăng. Những chữ chủng tử này thường dùng làm đối tượng vi tế khi hành giả chú tâm thiền định. Ba chủng tử tự nhắc nhở những phẩm hạnh mà chúng ta đang trưởng dưỡng trong chính mình, đó là kết quả thực hành Phật Pháp. Mỗi đặc điểm sắc tướng của Đức Tara minh họa cho toàn bộ con đường giác ngộ đạt đến Phật quả và Tara là hợp nhất các tinh túy đức tính, thần lựccông hạnh giác ngộ.

4. Cốt yếu quán tưởng thực hành Bản tôn Lục Độ Phật Mẫu Tara

Để có thể thực hành pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu Tara, các Phật tử cần tìm cầu và thụ nhận quán đỉnh Tara để đón nhận dòng ân phúc gia trì từ Đức Phật Mẫu Tara, từ bậc Kim Cương Thượng Sư bất khả phân với Bản tôn Tara và từ Truyền thừa giác ngộ để được phép tu tập, trì tụng chân ngôn cũng như tự quán thân mình là Đức Lục Độ Phật Mẫu.

Trước khi đi vào phần nghi quỹ chính, hành giả phải thực hành quy yphát Bồ đề tâm. Việc này vô cùng quan trọng bởi nguyên nhân của những khổ đau chúng ta đang phải chịu là vì bám chấp vào bản ngã, chỉ khư khư nghĩ đến cá nhân, gia đình và những người thân của mình. Tâm chúng ta rất ít khi mở rộng để nghĩ đến người khác. Chính về những tâm yêu ghét như vậy chúng ta tạo vô số ác nghiệp với kết quả là sự khổ đau và trôi lăn trong luân hồi sinh tử. Bởi vậy, khi thực hành Phật Pháp, chúng ta không chỉ cầu nguyện riêng cho cá nhân mình, mà còn phải phát tâm Bồ đề, mở rộng tâm mình cầu nguyện cho tất cả pháp giới chúng sinh, qua đó chúng ta bớt đi bản ngã và biết sống vô ngã vị tha hơn. Sau đó chúng ta sẽ triệu thỉnh Đức Phật Mẫu Tara và quán tưởng Ngài hiển diện sống động, bất khả phân với bậc Căn bản Thượng sư (là tinh túy của Tam căn bản và là sự hợp nhất của tất cả chư Thượng sư giác ngộ của Truyền thừa Drukpa). Nếu có thời gian thì có thể trì tiếp lời cầu nguyện tới 21 Lục Độ Mẫu, nếu khôngthời gian thì chúng ta sẽ trì thẳng vào câu chân ngôn “Om Tare Tutare Ture Soha”, có thể trì 3 tràng, 7 tràng hoặc 21 tràng, càng nhiều càng tốt. Và sau khi trì chú xong chúng ta sẽ quán tưởng hòa tan. Quán tưởng Đức Phật Mẫu Tara hòa nhập tan vào trong mình và bản thân chúng ta an trụ trong tự tính bất khả phân với tâm giác ngộ của Đức Phật Mẫu Tara. Không nghĩ về quá khứ, không nghĩ về tương lai, không phân biệt hiện tại, an trú trong trạng thái vô niệm tỉnh giác như vậy càng lâu càng tốt.

Việc quán hòa tan để an trụ trong tự tính tâm là một việc vô cùng quan trọng. Chẳng hạn khi tâm chúng ta đang nhiều phiền não khổ đau, đang nhiều căng thẳng, chúng ta có thể quán Đức Pháp Vương bất khả phân với Đức Phật Mẫu Tara rồi hòa nhập tan vào trong chúng ta, chúng ta an trụ nương tựa hòa nhập làm một trong tự tính tâm giác ngộ của Ngài. Nhờ quán tưởng như vậy, thư giãn như thế chúng ta sẽ giảm bớt căng thẳng lo âu trong đời sống phàm tình. Và tâm chúng ta sẽ thư giãn hơn, chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa của những của cải vật chất, những thứ thành công mang tính thế gian chỉ có mang tính chất tương đối, còn hạnh phúc chân thật nhất chính là hạnh phúc chúng ta tìm được sự nghỉ ngơi an lạc trong đáy sâu tâm hồn, sự tỉnh giác của chính mình.

 

Cầu nguyện 21 Lục Độ Mẫu

· OM JÉ TSUNMA PHAGMA DrOLMALA CHAGTSHEL LO

OM- Kính lễ Lục Độ Mẫu Bản tôn!

CHAGTSHEL TARÉ NYURMA PAMO

Chí thành đỉnh lễ quy y

Tara Phật Mẫu dũng uy phi thường,

TUTTARA YI JIGPA SELMA

TUTTARE đại lực cường

Bao nhiêu sợ hãi ngài thương giải trừ,

TURÉ DONKUN JINPÉ DrOLMA

Âm TURE nghĩa thắng dư

Mọi điều sở nguyện ban cho toại thành,

SOHA YIGÉ KHYÖELA DÜEDO

SOHA hai chữ diệu linh

Con nay đỉnh lễ rạp mình tán dương.

 

· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU CỨU ĐỘ TỐC DŨNG TARA

CHAGTSHEL DrOLMA NYURMA PAMO

Chí thành đỉnh lễ quy y

Cứu Độ Tốc Dũng nan nghì Tara

CHENNI KÉCHING LOGDANG DrAMA

Hào quang ánh mắt rọi xa

Như muôn tia chớp tỏa ra sáng ngời

JIGTEN SUMGON CHU KYÉ SHELGYI

Thánh Tôn ba cõi lệ rơi

GÉSAR JÉWA LÉNI JUNGMA

Hoa sen hóa hiện ngài thời đản sinh.

 

· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU BÁCH THU LÃNG NGUYỆT TARA

CHAGTSHEL TONKEI DAWA KUNTU

Chí thành đỉnh lễ quy y

Bách Thu Lãng Nguyệt nan nghì Tara

GANGWA GYANI TSEGPEI SHELMA

Tôn nhan, vẻ nguyệt chan hòa

Tịnh không trần cấu hợp về một nơi,

KARMA TONGTHrAG TSHOGPA NAMKYI

Như ngàn tinh tú rạng ngời

RABTU CHEWEI ÖERAB BARMA

Uy quang thù thắng muôn loài sánh sao.


· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU LAM KIM CỨU ĐỘ TARA

CHAGTSHEL SERNGO CHHUNÉ KYÉKYI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Lam Kim Cứu Độ nan nghì Tara

PADMÖE CHAGNI NAMPAR GYENMA

Diệu kỳ một đóa liên hoa

Tay ngài trì giữ rất là trang nghiêm,

JINPA TSONDrUB KA THUB SHIWA

Bố thí, giới trì, nhẫn an

ZÖEPA SAMTEN CHÖEYUL NYIMA

Tinh tấn, thiền định, tuệ viên mãn đầy


· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU NHƯ LAI ĐỈNH KẾ TARA

CHAGTSHEL DESHIN SHEGPEI TSUGTOR

Chí thành đỉnh lễ quy y

Như Lai Đỉnh Kế nan nghì Tara

THAYÉ NAMPAR GYELWAR CHÖEMA

Công hạnh siêu thắng hằng sa,

Sáu ba la mật đã là viên dung,

MALÜE PHAROL CHINPA THOBPEI

Các bậc Pháp tử vô song

GYELWEI SÉ KYI SHINTU TENMA

Của chư Thắng Giả hết lòng tán dương.


· NGUYỆN CẦU PHẬT TARA TỰ MẪU TUTTARE HUNG

CHAGTSHEL TUTTARA HUNG YIGÉ

Chí thành đỉnh lễ quy y

Tara Tự Mẫu TUTTARE HUNG

DÖEDANG CHOGDANG NAMKHA GANGMA

Âm thanh viên mãn khôn cùng

Lòng từ tran trải khắp vùng muôn phương;

JINTEN DUNPO SHABKYI NENTÉ

Bảy cõi dưới gót chân sen,

LÜEPA MÉPAR GUG PAR NÜEMA

Bi tâm thu nhiếp chấn yên hữu tình.


· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU THÍCH PHẠM HỎA THIÊN TARA

CHAGTSHEL GYAJIN ME LHA TSHANGPA

Chí thành đỉnh lễ quy y

Hỏa Thiên Thích Phạm nan nghì Tara

LUNGLHA NA TSHOG WANGCHUG CHÖEMA

Phong Thần, Tự Tại chủ thiên

JUNGPO ROLANG DrIZA NAMDANG

Hương thơm, nhiều bộ quỷ ma kiếm tìm

NÖEJIN TSHOGKYI DUNNÉ TÖEMA

Dạ xoa ma chúng một niềm

Hân hoan tán thán tôn sùng Tara.


· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU TRÁT PHÉT CỨU ĐỘ TARA

CHAGTSHEL TrAT CHÉJA DANG PHET KYI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Tara ’TRAT PHET’ uy nghi độ từ,

PHAROL THrULKHOR RABTU JOMMA

Chướng ngăn hết thảy không dư

Do ngài phù hộ giải trừ tiêu tai

YÉKUM YONKYANG SHABKYI NENTE

Chân phải co, trái duỗi dài

MÉBAR THrUGPA SHINTU BARMA

Trong vầng lửa cháy rực ngời hào quang.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU TURE PHẪN NỘ TARA

CHAGTSHEL TURÉ JIGPA CHHENPÖE

Chí thành đỉnh lễ quy y

TURE Phẫn Nộ nan nghì Tara

DÜE KYI PAWO NAMPAR JOMMA

Muôn loài oán quỷ hận ma

Dũng uy hàng phục thời đà chuyển tâm

CHU KYÉ SHELNI THrO NYER DEN DZÉ

Mặt sen đượm một từ dung

DrAWO THAMCHÉ MALÜE SÖEMA

Mi chau hóa giải mê lầm oan khiên

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU TAM BẢO NGHIỂM ẤN TARA

CHAGTSHEL KONCHOG SUMTSHON CHAGGYEI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Tam Bảo Nghiêm Ấn nan nghì Tara

SORMÖE THUGKAR NAMPAR GYENMA

Giữa tâm bắt ấn ngón hoa

MALÜE CHOGKYI KHORLÖE GYENPEI

Uy nghiêm luân báu nguy nga khắp trời

RANGGI ÖE KYI TSHOGNAM THrUGMA

Hào quang thân báu sáng ngời

Muôn phương chiếu rọi nơi nơi huy hoàng.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU UY ĐỨC HOAN HỶ TARA

CHAGTSHEL RABTU GAWA JIPEI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Uy Đức Hoan Hỷ nan nghì Tara

WU GYEN ÖE KYI THrENGWÉ PELMA

Vương miện nghiêm sức chói lòa

SHÉPA RABSHÉ TUTTARA YI

Cười vang hoan hỷ TUTTARE tràng

DÜEDANG JINTEN WANGDU DZÉMA

Các loài ma quỷ thế gian

Ngài thời nhiếp phục quy hàng chuyển tâm

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU THỦ HỘ CHÚNG ĐỊA TARA

CHAGTSHEL SASHI KYONGWEI TSHOGNAM

Chí thành đỉnh lễ quy y

Thủ Hộ Chúng Địa nan nghì Tara

THAMCHÉ GUGPAR NÜEMA NYIMA

Uy lực triệu bách thần ra

THrO NYER YOWEI YIGÉ HUNG GI

Chau mày dao động hiện là chữ Hung

PHONGPA THAMCHÉ NAMPAR DrOLMA

Muộn phiền đau khổ bần cùng

Ngài đều phổ độ mọi vùng chúng sinh

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU ĐỈNH QUAN NGUYỆT TƯỚNG TARA

CHAGTSHEL DAWEI DUMBÜE WU GYEN

Chí thành đỉnh lễ quy y

Đỉnh Quan Nguyệt Tướng nan nghì Tara

GYENPA THAMCHÉ SHINTU BARMA

Vương miện diệu thắng chói lòa

RELPEI THrÖENA ÖE PAGMÉ LÉ

Ở nơi búi tóc Di Đà hiện sinh

TAGPAR SHINTU ÖERAB DZÉMA

Từ đó phóng chiếu quang minh

Đủ bao diệu bảo hữu tình lợi tha.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT NHƯ TẬN KIẾP HỎA TARA

CHAGTSHEL KELPEI THAMEI MÉTAR

Chí thành đỉnh lễ quy y

Như Tận Kiếp Hỏa nan nghì Tara

BARWEI THrENGWEI WÜENA NÉMA

Trong búi tóc, lửa kiếp không

YÉ KYANG YONKUM KUNNÉ KORGEI

Chân phải thẳng duỗi, gập cong chân này

DrAYI PUNGNI NAMPAR JOMMA

Những bầy oán địch quân cai

Ngài đều tận diệt chẳng sai chút nào.


· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU THỦ ÁN ĐẠI ĐỊA TARA

CHAGTSHEL SASHII NGÖELA CHAGGI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Thủ Án Đại Địa nan nghì Tara

THILGYI NUNCHING SHABKYI DUNGMA

Giẫm chân trấn yểm hàng ma

THrO NYER CHEN DZÉ YIGÉ HUNGGI

Mày chau phẫn nộ hiện là chữ Hung

RIMPA DUNPO NAMNI GEMMA

Bảy hiểm nạn, mọi tai ương

Ngài thời hàng phục yêu thương hộ trì.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU AN THIỆN TĨNH TỊCH TARA

CHAGTSHEL DÉMA GÉMA SHIMA

Chí thành đỉnh lễ quy y

An Thiện Tĩnh Tịch nan nghì Tara

NGA NGEN DÉSHI CHÖEYUL NYIMA

Niết bàn tịch diệt an hòa

SOHA OM DANG YANGDAG DENPÉ

SOHA - OM chữ thật là tương ưng

DIGPA CHENPO JOMPA NYIMA

Biết bao tai họa quá chừng

Ngài khéo cứu độ tiêu dừng nạn tai.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU PHỔ BIẾN CỰC HỶ TARA

CHAGTSHEL KUNNÉ KORRAB GAWEI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Phổ Biến Cực Hỷ nan nghì Tara

DrAYI LÜENI RABTU GEMMA

Trái Phật Pháp oán lìa xa

YIGÉ CHUPEI NGAGNI KÖEPEI

Chân ngôn mười chữ rất là linh thiêng

RIGPA HUNG LÉ DrOLMA NYIMA

Âm thanh minh chú chữ HUNG

Vang xa khắp chốn tận cùng mười phương.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU TURE ĐỐN TÚC TARA

CHAGTSHEL TUREI SHABNI DABPÉ

Chí thành đỉnh lễ quy y

TURE Đốn Túc nan nghì Tara

HUNGGI NAMPEI SABON NYIMA

Từ chữ HUNG ngài hiện ra

RIRAB MENDAHRA DANG BIGJÉ

Mạn đà la với Bảo Đà, Tu Di

JIGTEN SUMNAM YOWA NYIMA

Đến như ba cõi muôn nơi

Làm cho chấn động đất trời chuyển rung

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU CỤ HẢI THÂM TƯỚNG TARA

CHAGTSHEL LHAYI TSHOYI NAMPEI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Cụ Hải Thâm Tướng nan nghì Tara

RIDAG TAGCHEN CHAGNA NAMMA

Dấu Nai thiêng trong tay hoa

TARA NYIJÖE PHET KYI YIGE

TARA với PHET tụng trì luôn luôn

DUGNAM MALÜE PANI SELMA

Độc kia các chất muôn vàn

Ngài năng diệt tận không còn sót dư.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU CHƯ THIÊN VÂN TẬP TARA

CHAGTSHEL LHAYI TSHOGNAM GYELPO

Chí thành đỉnh lễ quy y

Chư Thiên Vân Tập nan nghì Tara

LHADANG MI AM CHIYI TENMA

Là nơi quy kính an hòa

Chư thiên nơi cõi Ta Bà phi thiên

KUNNÉ GO CHAG GAWEI JI KYI

Đức uy, hỷ duyệt, giáp kiên

TSÖEDANG MILAM NGENPA SELMA

Đấu tranh, ác mộng thảy liền tiêu tan.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU NHẬT NGUYỆT QUẢNG VIÊN TARA

CHAGTSHEL NYIMA DAWA GYÉPEI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Quảng Viên Nhật Nguyệt nan nghì Tara

CHENNYI POLA ÖERAB SELMA

Hào quang ánh mắt chói lòa

HARA NYIJÖE TUTTARA YI

HARA hai biến, TUTARE trì,

SHINTU DrAGPOI RIMNÉ SELMA

Bao tật bệnh, mọi độc dư

Ngài đều thiện xảo giải trừ độ sinh.


· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU CỤ TAM BẢO TƯỚNG TARA

CHAGTSHEL DÉ NYI SUMNAM KÖEPÉ

Chí thành đỉnh lễ quy y

Cụ Tam Bảo Tướng nan nghì Tara

SHIWEI THUDANG YANGDAG DENMA

Thiện tịnh uy lực chan hòa

Diệt tan hiểm họa, ma tà, ách tai

DONDANG ROLANG NÖEJIN TSHOGNAM

Dạ xoa con quỷ khởi bày

Ngài đều nhiếp phục chẳng chừa một ai

JOMPA TURÉ RABCHOG NYIMA

Chữ TURE, thật là đây

Chú thiêng siêu thắng ách tai tận trừ.

TSAWEI NGAGKYI TÖEPA DIDANG

Căn bản minh chú bản tôn,

CHAGTSHEL WANI NYISHU TSACHIG

Tara hăm mốt Hóa thân các ngài

Tâm thành trì tụng lễ bày

Muôn lời tán thán thời nay viên tròn.

 

Drukpa Việt Nam

Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Chín 201404:17
Khách
nam mo a di da phat
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11330)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10423)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10679)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9645)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9444)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12791)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13156)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13342)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19680)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12411)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13134)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13451)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 12927)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12283)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18432)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10581)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12279)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 10878)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11092)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14565)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22330)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11499)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10070)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34407)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17570)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32529)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 21963)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11115)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17412)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17001)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10603)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10771)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9471)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10535)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10553)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10471)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12381)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12342)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9914)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13103)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9636)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9046)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11734)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13361)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 11961)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11199)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11508)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10240)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10159)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10818)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28052)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10718)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7332)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9255)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11689)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11584)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10995)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10200)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10161)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13705)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14787)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10406)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11790)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10756)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10424)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10518)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9797)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10547)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9182)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 9860)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10081)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10385)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10516)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10428)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10000)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9720)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13387)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16182)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13358)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11442)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11029)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 10993)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12103)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15222)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10497)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11614)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10489)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 10990)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 9930)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10276)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11332)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 10891)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12788)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24114)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12507)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10204)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28365)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19214)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10816)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23102)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant