Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi

30 Tháng Tư 201300:00(Xem: 8779)
Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi
KHAI TỔ THIÊN THAI TÔNG
THIÊN THAI TRÍ KHẢI

THIỀN VÀ CHỈ QUÁN

 PAUL L. SWANSON biên soạn
TỪ HOA NHẤT TUỆ TÂM biên dịch
thienquanvachiquan-bia2

PHÁP HOA TAM MUỘI SÁM NGHI
法 華 三 昧 懺 儀
[T 1941, 46. 949-955]
Thiên Thai Trí Khải giảng thuyết
Quán Đảnh ghi chú

[I] Khuyến khích tu tập pháp sám hối trong suốt 21 ngày, căn cứ vào kinh Pháp Hoa (949b10).

[II] Bài tựa (949c11)

[III] Pháp nhập thất trong suốt 21 ngày nhất tâmtinh cần tu tập (949c22)

[950a2-15] Có hai lối tu nhất tâm. Thứ nhất là tu tập nhất tâm chuyên chú vào sự. Thứ hai là tu tập nhất tâm chuyên chú vào lí.

Nhất tâm về sự tu tập như sau: Một hành giả khi bước vào tịnh thất, nên nghĩ như vầy: “Trong ba tuần lễ, khi tôi lễ chư Phật, tôi sẽ nhất tâm cung kính, tâm tôi sẽ không lo nghĩ đến bất cứ điều gì khác.”, và cứ như vậy mà sám hối, hành đạo, tụng kinh, tọa thiền. Trong khi thực tập những phương pháp nầy, hành giả chớ để tâm tán loạn. Ba tuần lễ sẽ trôi qua trong cung cách như vậy. Đây gọi là chuyên cần thực hành pháp nhất tâm dựa vào sự.

Thứ hai là tu tập nhất tâm chuyên chú vào lí. Hành giả, khi bước vào tịnh thất, nên nghĩ như vầy: “Từ giây phút nầy cho đến phút cuối trong suốt ba tuần lễ, trong suốt khoảng thời gian đó, tất cả những gì tôi sẽ làm là chiếu soi tận tường. [Biết] cái từ tâm sinh và bản tánh của tâm không phải là hai. Vậy thì cái đó là gì?. Ví như khi một người [quy mạng] lễ chư Phật, tánh của tâm chẳng sinh, chẳng diệt. Các ông phải nên biết rằng trong tất cả những hành động thuộc sự tướng đã làm, tánh của tâm chẳng sinh, chẳng diệt”. Khi các ông quán như vậy, các ông thấy được rằng tất cả tâm đều từ một tâm, sinh khởi từ bản tánh của tâm, luôn luôn là một tướng. Hành giả có thể như vậy mà quán chiếu tâm và nền tảng [của tâm], và dòng suối liên miên của ý [niệm]. Sau ba tuần lễ, hành giả vẫn không đắc được tướng của tâm [vì bất khả đắc]. Đây gọi là chuyên cần thực hành pháp nhất tâm dựa vào lí.

[IV] Pháp thực hành khi vào thiền thất (950a16)

[1] Trang nghiêm thanh tịnh thiền thất (950a25)

(950a25-b7) Tìm một nơi vắng vẻ, sửa soạn một căn phòng yên tỉnh để làm tịnh thất. Dọn một cái bục cao trong thiền thất nầy, và chỉ đặt cuốn kinh Pháp Hoa trên bục; những thánh tích khác, ngay cả những quyển kinh khác cũng không cần thiết lúc nầy, thực ra là không được phép [mang vào]. Trang hoàng tàng lọng với những vật dụng tế lễ. Ngày hành giả vào, thiền thất nên được quét dọn sạch sẽ. Thắp hương thơm và đốt nến, rải hoa. Hãy lễ bái tam bảo với tất cả lòng thành kính. Tâm hành giả phải thanh tịnh. Giữ tư thế cung kính tam bảo như vậy. Nếu hành giả không [muốn] trải thân mình quy kính pháp Đại thừa thì khó được trí tuệ, cũng như khó diệt được nghiệp chướng nặng nề hằng đeo mang.

[2] Thanh tịnh thân (950b8)

[950b8-13] Trước khi vào tịnh thất, hành giả nên tắm với nước thơm và mặc áo tràng mới. Nếu không có được áo mới thì dùng một chiếc áo sạch. Khi rời tịnh thất, nên thay áo tràng, không nên mặc áo nầy để làm việc bên ngoài. Trước khi trở lại tịnh thất, nên tắm rửa, và mặc áo tràng sạch. 

[3] Cúng dường thân, khẩu, và ý [thanh tịnh] (950b14)

(950b14-c4) Khi vào tịnh thất, hành giả nên như phápkính lễ, đứng ngay thẳng, tâm nguyện cứu độ chúng sinh. Hành giả nghĩ tưởng đến Như Lai giữa [biển] tâm cuồng vọng của chính mình, và khiến [đức ân của] tam bảo hiển lộ trong tịnh thất. Hành giả dâng hương thơm, rải hoa cung kính tam bảo. [Trong tư thế úp mặt trên sàn] xưng tán tam bảo như sau:

Nhất tâm đảnh lễ thập phương Phật.

 Nhất tâm đảnh thập phương Pháp.

 Nhất tâm đảnh lễ thập phương Tăng.”

Thân, khẩu, ý không tán loạn, hòa hợp cùng nhau, và luôn tâm niệm rằng thân, khẩu, ý nầy [cũng như vạn pháp] đều như bóng, không có thực.

[4] Thỉnh nguyện tam bảo [Phật, Pháp, Tăng]

[950c5-951b11] Sau khi cúng dường thân, khẩu, ý [thanh tịnh], hành giả dâng hương, rải hoa, nhất tâm đảnh lễ. Trong khi hành pháp thỉnh nguyện, thân trang nghiêm, miệng tụng đọc rõ ràng, ý không tán loạn.

Trước hết, hành giả xưng tán rằng:

“Nhất tâm cung thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật”.

Hành giả nên quán rằng thân Phật tức Không, tướng Phật không thực sự từ đâu đến, cũng không đi về đâu; tất cả chư Phật đều như vậy. Nếu hành giả quán như vậy [mà không sinh tâm kinh hãi], thì Đức Phật Thích Cachư thánh chúng bao quanh như hình ảnh trên non Linh Thứu được thuyết trong kinh Pháp Hoa, sẽ xuất hiện trong tịnh thất của hành giảtiếp nhận lời thỉnh nguyện của hành giả, và khuyến tấn tu hành.

Sau đó, hành giả xưng tán như sau:

“Nhất tâm cung thỉnh Đa Bảo Phật”.

“Nhất tâm cung thỉnh ứng thân Thích Ca Mâu Ni Phật trong khắp mười phương”.

“Nhất tâm cung thỉnh thập phương chư Phật xuất hiện bảo trì kinh điển Đại thừaDiệu Pháp Liên Hoa”.

“Nhất tâm cung thỉnh chư Phật thường trụ khắp mười phương thế giới”.

“Nhất tâm cung thỉnh kinh điển Đại thừaDiệu Pháp Liên Hoa.

“Nhất tâm cung thỉnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ma ha tát”.

“Nhất tâm cung thỉnh Di Lặc Bồ Tát ma ha tát”.

“Nhất tâm cung thỉnh Dược Sư Bồ Tát ma ha tát”.

Tháp của Đức Phật Đa Bảo sẽ từ lòng đất hiện ra, như được thuyết trong kinh Pháp Hoa, trong tịnh thất của hành giả, tiếp nhận lời thỉnh nguyện của hành giả.

Nếu hành giả nhất tâm quán chiếu, thì ứng thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khắp mười phương cõi nước, như mây pháp, đồng tiếp nhận lời thỉnh nguyện của hành giả.

Nếu hành giả có chánh quán, chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, và vị lai sẽ hiện ra trong tịnh thất, trước mặt hành giả và đồng tiếp nhận lời thỉnh nguyện.

Và cũng cung thỉnh như vậy đối với vô lượng Bồ tát khắp mười phương cõi nước; Ngài Xá Lợi Phất, và chư Thanh Văn, chư tăng ni thường trụ khắp mười phương, các cõi Trời, Rồng, và tất cả các vị hộ trì pháp Phật. Nếu hành giả một lòng mong mỏi thì tất cả các pháp tướng, với tâm đại bi, sẽ tiếp nhận lời thỉnh nguyện, và đồng thời xuất hiện trong tịnh thất.

Nếu hành giả nhất tâm kiên trì thực hành như trên trong suốt ba tuần lễ, thì Ngài Phổ Hiền Bồ Tát, như đại nguyện, sẽ tiếp nhận lời cung thỉnh, và hướng dẩn hành giả đến chỗ có thể diệt trừ tất cả nghiệp chướng, như kinh nói.

[5] Xưng tán tam bảo (951b12)

[951b12-27] Sau khi hành giả xong phần cung thỉnh, sẽ úp mặt xuống sàn lạy [tạ ân đức]. Sau đó cung kính dâng hươngrải hoa. Hãy nhớ nghĩ đến công đức của tam bảo. Sau đó, tụng bài kinh Pháp Hoa để xưng tán:

“Tướng hảo quang minh chiếu rạng mười phương

Con đã từng cung kính ngài,

Nay thêm một lần nữa, trở về đây chiêm ngưỡng dung quang Phật”.

(T9, 53c4-5, kinh Pháp Hoa)

“Đấng pháp vương, vua các cõi Trời, Người.

Pháp âm như tiếng chim Ca Lăng Tần Già

Bậc đại từ với tất cả chúng sinh,

Nay con chí tâm đảnh lễ.

(T9, 23c15-16, kinh Pháp Hoa

[6] Đảnh lễ Phật (951b27)

[951b27-a27] Sau phần xưng tán nói trên, hành giả giữ thân tướng nghiêm chỉnh, và bắt đầu đảnh lễ chư Phật. Luôn luôn tâm niệm rằng chư Phật tánh không như đã giải thích. Hành giả cũng không quên tánh không của chính thân và tâm mình. Khấu đầu đảnh lễ chư Phật sáu lần ngày và đêm trong suốt ba tuần lễ, xưng tán như sau:

“Nhất tâm đảnh lễ Bồn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Đa Bảo Phật.

Nhất tâm đảnh lễ ứng thân Thích Ca Mâu Ni Phật trong khắp mười phương.

Nhất tâm đảnh lễ Đông phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Đông Nam phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Nam phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Tây Nam phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Tây phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Tây Bắc phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Bắc phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Đông Bắc phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ thượng phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ hạ phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ quá khứ Phật.

Nhất tâm đảnh lễ hiện tại Phật.

Nhất tâm đảnh lễ vị lai Phật.

Vô lượng chư Phật, vô lượng chư Bồ tát như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Dược Sư Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát..., chư Thanh Văn, hộ pháp, thiên long, thiên chúng khắp mười phương xuất hiện trong kinh Pháp Hoa

[7] Sám hối sáu căn (952a28)

[952a28- 953b29] [1] Sám hối những lỗi lầm của sáu căn 六根懺悔. Phần nầy nói chi tiết về những lỗi lầm của sáu căn: mắt, tai, mủi, lưỡi, thân, và ý. Trước hết là phần giải thích đối với sự quan trọng của pháp quán về tánh Không. [Trí Giả] nói rằng: Sau khi hành giả đã hoàn tất phần đảnh lễ chư Phật, hành giả cung kính dâng hương, rải hoa, và quán tam bảo. Nếu hành giả giác được tánh Không, Phổ Hiền Bồ Tát sẽ xuất hiện trên voi trắng sáu ngà với quyến thuộc bao quanh. Hành giả nên vì chúng sinhnhất tâm sám hối. Hãy biết sinh tâm hổ thẹn sâu xa với những lỗi lầm đã gây tạo từ vô lượng kiếp. Hãy vứt bỏ tâm ái dục là tâm nuôi dưỡng những hạt mầm bất thiện từ sáu căn. Một người thấy được tánh Không có thể xa lìa ô nhiễm... Sau đó mỗi căn được phân tích.

Trước hết, hành giả sám hối những sai lạc của nhãn căn. Hành giả nên hết lòng ăn năn, biết rằng qua mắt, hành giả đã kinh nghiệm nhiều hình tướng khác nhau của phiền nãovướng mắc. Qua mắt, hành giả có thể trở thành nô lệ của cõi sắc tưóng. Hành giả phải nên tụng đọc kinh điển Đại thừa, lễ bái ngài Phổ Hiền và tất cả chư Phật, dâng hươngrải hoa, thú nhận không che đậy những tội lỗi gây tạo qua nhãn căn. Tất cả chư Phật, chư Bồ tát với tuệ nhãnpháp thủy, nguyện tẩy sạch những nghiệp chướng từ tội lỗi nầy, nhãn căn của hành giả dần dần được thanh tịnh. Sau khi sám hối, hành giả cung kính lễ bái tam bảo... như đã giải thích trong phẩm “Quán Phổ Hiền Bồ Tát”.

 Phương pháp nầy được lập lại, thay đổi tùy theo phần ứng dụng vào căn nào trong sáu căn.

 Thứ hai, thỉnh Phật chuyển pháp luân. Cung kính thỉnh cầu vô lượng chư Phật khắp mười phương thường trụ khắp pháp giới chuyển bánh xe pháp khiến chúng sinh giác ngộ bản tâm thanh tịnh. Sau đó hành giả đảnh lễ Như Lai, và tam bảo.

 Thứ ba, tùy hỉ công đức. Chí tâm tùy hỉ công đức của chư Phật và chư Bồ tát.

 Thứ tư, hồi hướng công đức. Chí tâm hồi hướng công đức tu tập vun trồng các chủng tử thiện. Sau đó đảnh lễ mười phương chư Phật.

 Thứ năm, phát nguyện độ thoát chúng sinh. Chí tâm phát Bồ tát nguyện. Nguyện rằng giờ phút lâm chung, tinh thần trong sáng với nguyện lực đầy đủ, sẽ được tái sinh nơi cõi Cực Lạc, được phủ phục trước Đức Phật A Di Đà, được tu tập mười địa của chư Bồ tát, và được thường lạc.

[8] Đi nhiễu quanh (953b29) 

[953b29-c15] Sau những nghi thức thông thường như đảnh lễ..., hành giả nhiễu quanh bàn thờ Phật, xưng tán:

Nhất tâm đảnh lễ thập phương Phật.

Nhất tâm đảnh lễ thập phương Pháp.

Nhất tâm đảnh lễ thập phương Tăng.

Nhất đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ma ha tát.

Nhất tâm đảnh lễ Di Lặc Bồ Tát ma ha tát.

Nhất tâm đảnh lễ Dược Sư Bồ Tát ma ha tát.

Nhất tâm đảnh lễ Phổ Hiền Bồ Tát ma ha tát.

Nhất tâm đảnh lễ Quán Thế Âm Bồ Tát ma ha tát.

v.v...

Hành giả tiếp tục đi nhiễu quanh trong khi miệng tụng đọc kinh Pháp Hoa, hoặc 3, 7, 21, 49, hoặc 100 lần. Sau đó trở lại chỗ ngồi, xưng tán tam bảo.

[9] Phương pháp tụng đọc kinh Pháp Hoa (963c16)

[963c16-954a8] Tụng đọc kinh Pháp Hoa có lối tụng “hoàn toàn”, và lối tụng “không hoàn toàn”. Lối tụng hoàn toàn là tụng toàn bộ kinh, lối tụng không hoàn toàn là chỉ tụng phẩm “An Lạc Hạnh”. Tụng nhanh, tụng chậm hoặc tụng bao nhiêu lần tùy ý. Nếu tụng nhiều lần thì có thể không tụng một vài phẩm nào đó, nhưng không nên cùng lúc tụng các kinh khác [vì có thể không nắm được yếu chỉ một bộ kinh].

Cung cách của người tụng kinh:

Nên đọc và phát âm từng câu rõ ràng, chẳng chậm, chẳng vội vàng. Chú ý từng đoạn kinh, và không lạc đoạn kinh. Không thể phạm lỗi trong khi tụng đọc. Sau đó, tịnh tâmcố gắng thâm hiểu tự tánh của âm thanh như tiếng vang trong sa mạc. Mặc dù không thể nắm giữ được âm thanh, nhưng tịnh tâm thì có thể chiếu soi ý nghĩa của từng dòng, và từ ngữ chính nó cũng tự nói lên [ý kinh]. Thấy cho được pháp âm nầy đang trải rộng khắp pháp giới, cùng lúc cúng dường tam bảo, làm pháp thí cho chúng sinh khắp các cõi nước, khiến tất cả chúng sinh vào được cảnh giới nhất thừa.

[10] Tọa thiềnquán chiếu chánh diện [của chân lý] (954a9)

[954a9-b28] Sau khi đi nhiễu quanh bàn thờ Phật và tụng đọc, hành giả trở lại chỗ ngồi của mình và nhất tâm quán chiếu thực tướng của chân như trong vạn pháp. Nội dung của pháp quán như sau:

Hành giả để tâm vào tất cả nhân duyên nhưng biết rõ rằng bất khả đắc. Tâm không chủ tể, ví như một cơn mơ hoặc như ảo hóa, tịch tịnh như hư không, bất phân biệt. Vào lúc nầy, hành giả không thấy được tâm sinh tử, thì sao lại mong đợi thấy được tâm niết bàn?. Khi hành giả không nắm giữ những đối tượng bị phân biệt, hoặc những ý niệm của một chủ tể phân biệt, thì hành giả không lấy cũng không bỏ, không nhờ cậy mà cũng không vâng phục. Tâm hành không vì đâu sinh khởi. [Bản] tâm tịch tịnh như bao giờ, mà cũng không hề trụ trong tịch tịnh nầy. Vượt trên chữ và lời, tức bất khả thuyết.

 Sám hối như vậy gọi là “đại sám hối”, diệt được tâm phân biệt. Hành giả nên một lòng thực hành sám pháp trong 21 ngày như nói trên.

[V] Tu tập chánh giác (954b29)

[954b29-955c5] Trong phần nầy Thiên Thai Trí Giả nhắc lại phần giáo lý bên cạnh phần thực hành, và nói thêm rằng người có căn tánh khác nhau sẽ chứng nghiệm kết quả khác nhau. Những người “hạ căn” sẽ được “sự minh bạch về nền tảng giới luật”, tức là có được khả năng giữ giới. Những người “trung căn” sẽ được “sự minh bạch về nền tảng tam muội”, với những sự chứng đắc khác nhau trong định lực kiên cường. Những người “thượng căn” sẽ được “sự minh bạch về nền tảng trí tuệ”, với những thứ lớp chứng đắc khác nhau. Hành giả nên cố gắng hoàn thành mười pháp nầy trong ba tuần lễ. Trí Giả kết luận:

“Phải nên biết rằng lấy 21 ngày như một khoảng thời gian tu tập nhất định, sáu thời mỗi ngày như đã nói trên, có mục đích hướng dẩn các vị Bồ tát sơ phát tâm. Một người chưa có khả năng nhập tam muội thì khởi đầu dùng các pháp hữu tướng để điều phục tâm, giảm thiểu những trọng tội làm chướng ngại đường đạo. Trải qua thời gian thực hành sám pháp nầy, thân tâm hành giả sẽ được thanh tịnh và biết được pháp vị. Nếu hành giả quyết tâm tu tập để nhập sâu vào được tam muội thì hành giả phải vượt qua những pháp thực hành trước, và dến thẳng trạng thái an lạc. Hành giả lập tức được thiền vị, và nhận rõ tánh không của vạn sự vạn vật. Hành giả sẽ không khởi tâm chướng ngại từ trong hoặc ngoài; cảm thấy tâm đại bi mở rộng, thương xót chúng sinh. Khi tâm hành giả có thể luôn luôn ở trong trạng thái nầy, không một phút giây nào gián đoạn thì đây gọi là phát huy và duy trì tam muội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31301)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10451)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11140)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12621)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10732)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16468)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10737)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22765)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11909)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11412)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10585)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11096)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9936)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10236)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11792)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10610)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9704)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11177)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13748)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9504)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12522)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9606)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10337)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10433)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10208)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9798)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10981)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11933)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10075)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10696)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9460)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9815)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8694)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14436)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12446)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10328)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8974)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10472)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9237)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8708)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10417)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9068)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8286)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11921)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9629)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10144)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10164)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9332)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8912)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9491)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8929)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14656)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10020)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8269)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8817)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8882)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8662)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9255)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14450)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8955)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8663)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10435)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8545)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9909)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10078)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10946)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8910)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9175)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15234)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10248)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9476)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21210)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12065)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10154)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19086)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25830)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7902)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14659)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10552)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11258)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9426)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18482)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12257)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11793)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10608)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13243)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9898)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9192)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9297)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15719)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant