Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tịnh Độ Thập Nghi Luận

30 Tháng Tư 201300:00(Xem: 8318)
Tịnh Độ Thập Nghi Luận
KHAI TỔ THIÊN THAI TÔNG
THIÊN THAI TRÍ KHẢI

THIỀN VÀ CHỈ QUÁN

 PAUL L. SWANSON biên soạn
TỪ HOA NHẤT TUỆ TÂM biên dịch
thienquanvachiquan-bia2

Phần Ba
TỊNH ĐỘ THẬP NGHI LUẬN
(Thiên Thai Trí Giả)
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm biên tập
700 Câu Kệ Tụng

I
Vấn

Ðại bi làm đạo nghiệp
Hằng sa Phật xưa nay
Hoa tâm Bồ tát trổ
Hẳn sinh ba cõi nầy.

Ngại chi đời ác trược
Ba đường dữ vào ra
Nay cầu sinh cõi tịnh
Sao gọi rằng lợi tha ?

Ðáp

Nầy đại phu nên biết
Bồ tát ví mầm xanh
Tạm nói rằng hai tướng
Kết quả chứng vô sanh

Lại có hàng Bồ tát
Cánh khép ươm tà hoa
Vô sinh chưa chứng đươc
Thường kề cận Phật Ðà

Bậc chứng vô sinh nhẫn
Nếu lìa bỏ chúng sinh
Cầu đất lành chim đậu
Lời trách chẳng vô tình.

Ví như hàng Bồ tát
Sơ phát tâm Bồ đề
Ðại Trí Ðộ thường nói
Phàm phu nghiệp nặng nề.

Khá biết bởi vì sao?
Ác nghiệp chốn trần lao
Lẫy lừng và cùng khắp
Non thẳm mấy tầng cao

Nhẫn lực chưa thành tựu
Cho dù với đại bi
Như chim non cánh mỏng
Trời rộng dễ gì bay

Tự pháp ắt sinh tâm
Vô minh tùy cảnh chuyển
Danh sắc khéo buộc ràng
Biết đâu là giả huyễn

Tự cứu cũng chẳng xong
Cảnh xấu ác đầy dẫy
Chánh nhân đà khó gặp
Phật đạo dễ gì thấy

Trì giớibố thí
Do nhân gieo đời xưa
Thọ sinh hàng quyền quý
Tham đắm mấy cho vừa

Ví gặp thiện tri thức
Chánh lý nghịch tà tâm
Nghĩa sâu trái lòng cạn
Tịnh hạnh ngược tham sân

Thân sinh thì thân diệt
Tam đồ lại thọ thân
Trải hằng vô lượng kiếp
Sinh làm kẻ cô bần

Chuyển xoay đà mấy thuở
Luân lạc một tâm nầy
Xưa nay nào có khác
Nan-hành-đạo vậy thay.

Thành Xá Ly ngày xưa
Lời kinh Duy Ma Cật
{Chẳng tự cứu lấy mình
Há cứu người mà được ?}

Ðại Trí Ðộ lại nói
Ví có hai người kia
Người thân bị nước cuốn
Muốn cứu dưới dòng gieo

Biết đâu là đáy vực
Biết đâu sức cuồng lưu
Cứu nhau đà chẳng được
Thác lũ cánh bèo trôi

Còn lại một người trí
Thả bè xuôi dòng xanh
Cứu lấy người chẳng khó
Bồ tát vô sanh

Lại ví như trẻ thơ
Chớ rời xa bóng mẹ
Lại ví như chim non
Nhảy chuyền trên nhánh lá

Phàm phu cũng chẳng khác
Tâm niệm A Di Ðà
Ðến khi thanh tịnh nghiệp
Chứng được quả vô sinh

Bấy giờ nương Pháp nhẫn
Dong thuyền giữa biển khơi
Mặc tình muôn lớp sóng
Mặc thế sự đổi dời

Bậc bi tâm hành giả
Muốn vào biển trầm luân
Nên cầu sinh đất tịnh
Dị-hành-đạo gọi chung.

II

Vấn

Thể vạn pháp vốn Không
Xưa nay thường vắng lặng
Bồ tát bỏ Sa Bà
Lại cầu nơi Cực Lạc

Như kinh thường nói rằng
Nay muốn cầu tịnh độ
Trước phải tịnh tâm mình
Tâm tịnh tức độ tịnh

Như lời kinh mà suy
Ngôn hạnh chẳng đồng nhất
Bỏ đây cầu nơi kia
Lý nào là lý Phật ?

Ðáp

Phân hai nghĩa rõ ràng
Tổng-đáp và Biệt-đáp
Bỏ đây cầu nơi kia
Cho rằng chẳng bình đẳng

Lại như ông, chấp đây
Bỏ cầu sinh tịnh giới
Há chẳng lại là người
Bỏ kia cầu đây thôi

Nếu nói chẳng đây, kia
Nầy đại phu phải biết
Ông lại chính là người
Mắc phải lỗi đoạn diệt.

Dòng Kim Cang Bát Nhã
Phật thuyết trên đài hoa
{Tu Bồ Ðề nên rõ
Tướng vạn pháp một thừa


Chớ nên nói lời rằng
Người phát tâm vô thượng
Nơi đó, chính là người
Ðoạn diệt tất cả tướng

Khá biết bởi vì sao?
Người phát tâm vô thượng
Tánh, Tướng chẳng rời nhau
Há nói tướng đoạn diệt.}

Lại như phần biệt-đáp
Nói đến lý vô sinh
Cùng như về tánh tịnh
Tôi vì ông minh bạch

Vô sinh tức bất sinh
Bất sinh thì bất diệt
Do giả hợp tựu thành
Chính vì không tự tánh

Chẳng từ đâu mà lại
Nên gọi là bất sinh
Ðại phu- ông phải biết
Sóng vỡ, một dòng xanh.

Sao gọi là bất diệt ?
Bởi chẳng đi về đâu
Ðại phu- ông phải biết
Bàng bạc mây trên đầu.

Vô sinh hoặc vô diệt
Vẫn không ngoài các pháp
Ðó chính thực chân như
Chân như trong vạn pháp.

Chẳng cầu sinh tịnh độ
Hoặc chẳng muốn Di Ðà
Vô sinh nào nghĩa ấy
Chấp một- chẳng lìa xa.

Xưa kia Ngài Long Thọ
Dùng Trung Quán hiển khai
Lời xưa đâu đấy tỏ
Sấp, ngữa một bàn tay.

{Các pháp nhân duyên sinh
Ta nói chính là Không
Ðó gọi là giả danh
Cũng là nghĩa Trung Ðạo}

Các pháp chẳng tự sinh
Chẳng nơi khác mà sinh
Chẳng cộng, chẳng vô nhân
Nên gọi là vô sinh.}

Kinh Duy Ma lại nói:
{Quốc độ và hữu tình
Biết tánh Không các cõi
Thường tu- dạy quần sinh}.

Ví người xây cung thất
Muốn trụ giữa hư không
Chẳng chống trời, dựa đất
Tất không thể nên công .

Thực tướng của các pháp
Tùy căn tánh chúng sanh
Chư Phật dùng Nhị Ðế
Không hoại diệt giả hình.

Vậy mới hay kẻ trí
Tịnh độ cầu vãng sinh
Biết Không vốn thể tánh
Ðó thực chân vô sinh.

Tâm tịnh cõi Phật tịnh
Mới chính thực nghĩa nầy
Kẻ ngu si vọng chấp
Ngàn dặm dấu bèo, mây.

Nghe sinh, liền chấp sinh
Nghe vô sinh, lại chấp
Vô sinh là chẳng sinh
Không chỗ nơi hội nhập.

Tâm mê nào thấy được
Sinh chính thực vô sinh
Cả hai nào ngăn ngại
Khác chi bóng theo hình

Trí khởi sinh tranh chấp
Tâm ưa thích thị phi
Khinh người cầu Cực Lạc
Bởi chấp đến, chấp đi.

Kẻ tội nhân báng Pháp
Ðã chính thực mê lầm
Hàng tà kiến ngoại đạo
Cách Phật đến muôn trùng.

III

Vấn

Pháp tánh cùng công đức
Cõi Phật khắp mười phương
Bình đẳng nào sai khác
Sao chỉ cầu một đường ?

Ðáp

Ðúng như lời ông nói
Mười phương Phật đủ đầy
Kẻ độn căn, thiểu trí
Cần buộc tâm cõi nầy.

Muốn tựu thành tam muội
Tâm niệm một hồng danh
Tâm chuyên vào một cảnh
Nhất-tướng tam-muội thành.

Ngài Phổ Quang Bồ tát
‘Tùy Nguyện Vãng Sanh Kinh’
Dưới đài sen tán thán
Ðảnh lễ bạch lời rằng :

{Nơi nào chẳng tịnh độ
Ðâu chỉ riêng Tây phương ?
Mười phương cõi nước Phật
Một màu hoa thanh lương

Bởi do nhân duyên
Thế Tôn riêng khen ngợi
Cõi nước A Di Ðà
Khuyên sinh về nước ấy ?}

{Nầy Phổ Quang Bồ tát
Chúng sinh cõi Diêm Phù
Tâm tánh thường mê loạn
Vời vợi dạ du du.

Nếu tưởng nhiều quốc độ
Nếu niệm nhiều Phật danh
Tâm kia không kiên cố
Tam muội khó tựu thành.

Công đức của chư Phật
Ðồng pháp tánh như nhau
Cầu công đức một Phật
Ngàn công đức gồm thâu .

Nay nhất tâm xưng tán
Phật danh A Di Ðà
Không khác đà xưng tán
Chư Phật khắp hằng sa .

Sinh về cõi tịnh độ
A Di Ðà phương Tây
Tức sinh về tất cả
Cõi tịnh mười phương nầy .}

Thân tất cả chư Phật
Cũng chính một Phật thân
Kinh Hoa Nghiêm từng nói
Ðịnh, huệ, lực cũng đồng.

Ví vành trăng tròn sáng
In bóng khắp sông hồ
Như bậc vô ngại trí
Ứng hiện diệu thần cơ

Người tuệ căn nên biết
Thân Phật không có hai
{Tâm niệm một danh Phật
Tức mười phương Như Lai.}

IV

Vấn
Chúng sanh tâm trược loạn
Tam muội khó tựu thành
Mười phương đồng có Phật
Chẳng tùy nguyện vãng sinh ?

Ðáp

Trí phàm, tâm thô cạn
Chẳng nên tự lọc lừa
Vâng phục lời Phật dạy
Y pháp tự ngàn xưa

Châu sa vương lòng giấy
Lá bối thơm lời kinh
Dòng hoa từ kim khẩu
{Cực Lạc cầu vãng sinh.}

A Di Ðà tự thuyết
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Hoa Nghiêm, Vô Lượng Thọ
{Cực Lạc cầu vãng sinh.}

Hằng sa chư Phật, Tổ
Tịnh Ðộ một cõi nầy
Bốn mươi tám thệ nguyện
Ánh sáng nhuộm hồng mây.

Tám vạn bốn ngàn tướng
Tướng tướng phóng quang minh
Tỏa ngời muôn pháp giới
Cảm ứng tự nhiên thành.

Phật mười phương cõi nước
Hiện tướng lưỡi rộng dài
Chứng minh lời tự thuyết
Cực Lạc một trời Tây

A Di Ðà Tôn Phật
Hy hữu đại nhân duyên
Diêm Phù Ðề cõi ấy
Tạng kinh báu lưu truyền

Rằng: {Trong thời mạt tận
Ngọc điệp khép tờ hoa
Một trăm năm còn lại
Dòng kinh A Di Ðà}.

V

Vấn
Phước đức cõi người mỏng
Phiền não chướng bủa vây
Kho chứa muôn ác nghiệp
Chưa vơi lại đổ đầy.

Nước Cực Lạc trang nghiêm
Vượt ra ngoài ba cõi
Phàm tâm tâm dấy động
Tạp niệm niệm bồi hồi

Nhân gieo toàn hạt dữ
Trí cạn trăng lồng mây
Nay vọng sinh đất tịnh
Ðiệp sứ khôn hồi quy.

Ðáp

Khéo biết có hai duyên
Tự lựctha lực
Hàng phàm phu kém phước
Chẳng thể tự vãng sinh.

Anh Lạc Kinh từng nói
Trồng gốc hạnh Bồ Ðề
Vun bồi bằng tín, giới
Bồ tát pháp chẳng lìa

Trải qua ba số kiếp
Trụ vị sơ-phát-tâm
Thập tín, ba la mật
Vô lượng hạnh khó làm.

Theo sau mười ngàn kiếp
Trụ chánh tâm quang minh
Vào được chủng-tánh-vị
Vẫn chưa thể vãng sinh.

Nếu như có hành giả
Vì người phát tâm tu
Niệm Phật Ba La Mật
Cảm ứng chẳng rời nhau.

“Thập Trụ Tỳ Bà Sa”
Há đã chẳng từng nói:
Nan HànhDị Hành
Ðường kia chia hai lối.

Chúng sinh đời ngũ trược
Vô lượng kiếp đến, đi
Cầu A-bệ-bạt-trí
Thực khó được vậy thay!

Phước chung thì nghiệp chung
Ngoài tâm cầu Phật, Tổ
Trong mê ngóng Thánh, Hiền
Làm loạn Bồ tát pháp.

Hội ngộ kẻ tà tâm
Cận kề người thiểu trí
Chút thắng đức giữ gìn
Dần dà bị thiêu hủy.

Ðơm hoa và trổ quả
Do xưa gieo nhân lành
Ðắm chìm trong phước báu
Dễ lạc mất Phạm hạnh.

Tu pháp môn tự lợi
Lạc vào hàng Thanh Văn
Tâm đại từ khép kín
Vì mình hơn vì người.

Xa xa đường vạn dặm
Cách cách mấy trùng quan
Chân buông lòng gió bụi
Bằng bặt dấu quê nhà !.

Thuyền xuôi theo nước xuôi
Hải lý vạn trùng dương
Ví như nương Phật lực
Bốn bể gió đưa chân

Lại như nương luân bảo
Xe vàng của Thánh Vương
Du hành khắp thiên hạ
Trời Tây mấy dặm trường.

Cũng có kẻ luận bàn
Hữu lậu tánh phàm nhân
Không thể sinh Phật độ
Không thể thấy Phật thân

Ðại phu, ông nên biết
vô lậu thiện căn
Niệm Phật Ba La Mật
Công đức khó suy lường

Phàm nhânhữu lậu
Nhất tâm cầu Tây Phương
Hàng phục được phiền não
Thấy thô tướng Phật thân

Như với hàng Bồ tát
Nhất tâm cầu vãng sinh
Thấy Phật thân vi diệu
Ðiều ấy chẳng còn ngờ .

Tất cả các cõi Phật
Theo lời Hoa Nghiêm Kinh
Ðều bình đẳng không khác
Phân biệt tự tâm sinh.

VI

Vấn
Phàm nhân sinh tịnh giới
Hận sân thường phát khởi
Phàm tánh chẳng rời thân
Sao gọi vượt ba cõi ?

Ðáp

Phàm nhân sinh đất tịnh
Hội đủ năm nhân duyên
Phiền não chẳng phát sinh
Trụ vị bất thối chuyển.

Vì bổn nguyện Ðại Bi
Tôn Phật luôn nhiếp trì
Hào quang như nhật nguyệt
Tăng trưởng Bồ đề trí.

Rừng xanh cây nói pháp
Suối mát thơm lời kinh
Gió theo mây phù lãng
Chim hót tiếng hồn nhiên

Âm thanh làm Phật sự
Sắc tướng há vô tình
Ngay giữa lòng vạn vật
Pháp tánh hiện nguyên hình

Thượng trí và thượng thiện
Ðại Bồ tát ứng thân
Thần giao sinh quyến thuộc
Tuyệt tham độc, mê lầm.

Thọ mệnh đến nghìn muôn
Ðối duyên rõ cội nguồn
Ngoài không, thời, lập hạnh
Tiếng rống động càn khôn.

VII

Vấn
Bậc Nhất Sanh Bổ Xứ
Ngự Ðâu Suất thiên cung
Giáng thế thành Phật đạo
Long Hoa hội tương phùng

Chí tâm tu thập thiện
Cầu Ðâu Suất sinh thân
Theo chân Ngài giáng hạ
Chứng thánh vị tại trần.

Ðáp

Công đức của chư Phật
Ðồng pháp tánh không hai
Như đoạn trên đã nói
Cõi tịnh mười phương nầy

Phương tiện thì có khác
Bởi cảm ứng song đôi
Nếu dụng công phân biệt
Phải hiểu chữ tùy thời

Ðâu Suất là đất Phật
Kinh Di Lạc Thượng Sinh
{Muốn thọ sinh nội viện
Chánh định tam muội thành.}

Lại tụ nơi Dục Giới
Quần tiên hội không xa
Có con Trời phóng dật
thiên nữ vào, ra.

Thích Ca Mâu Ni Phật
Thuyết “Cửu Phẩm Giáo Môn”
Từng ân cần khuyến nhủ
Cầu Cực Lạc Tây phương.

Lại nói về thánh vị
Há gặp Phật tất thành ?
Ðại phu, ông phải biết
Tự lực, đạo nan hành.

Ví như cầu Cực Lạc
Chứng được quả vô-sinh
Bỏ sinh từ vô thủy
Biết sinh diệt nhân duyên.

Xưa ba vị Bồ tát
Cùng nguyện thọ sinh thân
Về cung trời Ðâu Suất
Nội viện kiến Phật ân

Lại ước hẹn cùng nhau
Nếu thọ thân Ðâu Suất
Ðảnh lễ bậc đại từ
Lập tức Diêm Phù hiện

Người quy thiên thứ nhất
Sư Tử Giác là tên
Lạc vào cung thần nữ
Ðằng đẳng nhạn trông tin

Khi Thế Thân thị tịch
Ngài Vô Trước ân cần
Ðâu Cung nếu thấy Phật
Chớ quên lòng hẹn lòng.

Ba năm qua biền biệt
Dõi mây chiều ngóng trông
Ngài Thế Thân trở lại
Rừng thiền gặp cố nhân

Kể rằng: Cung Ðâu Suất
Ðảnh lễ báo Phật ân
Dưới đài hoa nghe pháp
Cung kính nhiễu ba vòng.

Nhớ Diêm Phù đất cũ
Hẹn cùng ai năm xưa
Tức thì quay trở bước
Ba lần lá thay mùa.

Cũng bởi một ngày đêm
Sánh bốn trăm năm vậy
Không gianthời gian
Tự tâmứng hiện

VIII

Vấn
Ác nghiệp tự vô thủy
Do khó gặp thiện nhân
Nhân kia trổ quả ấy
Như lá rụng rừng tùng

Dạy rằng : Hơi thở cuối
Ðược mười niệm chí tâm
Vượt kiết sử ba cõi
Dường nghi lý chẳng thông ?

Ðáp

Nghiệp chủng của chúng sinh
Hoặc ít, nhiều, lành, dữ
Tự vô thủy đến nay
Mấy ai người rõ biết

Tín giả lúc lâm chung
Nếu gặp thiện tri thức
Thành tựu mười thiện niệm
Tức đã sẳn thiện nghiệp.

Nếu chẳng là thiện duyên
Dễ chi gặp người hiền
Kể gì đến thành tựu
Mười lời nguyện vãng sinh

Cớ sao lại cho rằng
Ác nghiệp chốn trầm luân
Nặng hơn mười thiện nguyện
Nên chẳng thể vãng sinh ?

Nếu như luận khinh, trọng
Hoặc công phu hành trì
Hoặc thời gian dài, ngắn
Chẳng đơn thuần vậy thay.

Lược nói ba nguyên lý
Ðối với kẻ sơ tâm
Tâm, Duyên, và Quyết Ðịnh
Xanh lá chốn rừng tùng.

Từ tâm sinh ác nghiệp
Từ tâm hiện pháp đăng
Bềnh bồng khuôn lãng nguyệt
Thiện ác há hai tâm ?

Ví một gian thạch thất
Ðóng kín cửa nhiều năm
Mở ra lìa bóng tối
Ðối diện mặt trời hồng.

Gió yên thì sóng lặng
Tâm duyên cảnh giới sinh
Bồ Ðề Tâm phát khởi
Công đức diệu âm thinh

Như người trúng tên độc
Thần dược cứu được thân
Ác nghiệp vô số kiếp
Chánh niệm cứu được tâm

Ly tâm lìa thể tánh
Hậu niệm cách chân như
Một tâm kia bất loạn
Nhất niệm A Di Ðà

Ví vòng dây thô cứng
Dùng tay dứt chẳng rời
Vung Thái A thần kiếm
Ánh thép đoạn đôi nơi

Ví củi khô gom góp
Nhiều năm chất thành gò
Dùng lửa kia mà đốt
Chẳng mấy chốc thành tro.

Ví như người tinh tấn
Tu tập mười nghiệp lành
Lại khởi sinh tà kiến
Thối đọa ngục A Tỳ

Nghiệp ác từ hư vọng
bóng dáng của tâm
Vẫn tựu thành lửa dữ
Thiêu hủy rừng công đức

Huống chi danh hiệu Phật
diệu pháp, diệu âm
Dấu son hồng nét mực
Là dấu ấn Phật tâm.

Lại như kinh thường nói
Lục tự A Di Ðà
Nếu chí tâm trì niệm
Nghiệp dữ phiến mây qua .

Phải biết bởi vì đâu
Tám mươi ức ác nghiệp
Biển rộng hóa cồn dâu
Từ nhất tâm, nhất niệm.

Lại xin nhắc lời rằng
Các học giả xưa nay
Hiểu lầm mười lời nguyện
Thuộc về biệt-thời-ý

Mở lại trang Nhiếp Luận
‘Nếu chỉ có biệt thời
Thì thuần là ý Nguyện
Không có Hạnh sánh đôi .’

‘Lâm chung liền vãng sinh
Nếu như nguyện Cực Lạc
Khi nghe Vô Cấu Phật
Chứng quả Vô Thượng Giác

Ðó là Tạp-Tập-Luận
Chỉ nói biệt-thời-nhân
Nên khéo mà suy đoán
Chớ vội mà phải lầm.

Thành tựu mười lời nguyện
Cũng bởi từ duyên lành
Hội ngộ thiện tri thức
Tin, hiểu, chí tâm hành

Nếu chỉ do túc nhân
Thì đã là thiếu sót
Hạt vùi giữa tuyết băng
Há dễ đơm hoa được.

IX

Vấn

Rằng cõi nước Cực Lạc
Cách xa mười muôn ức
Ngó biển lại ngó trời
Biết đâu là nước Phật

Thấy trong “Luận Vãng Sinh”
Nói rằng : ‘Kẻ tật nguyền
Nhị Thừa và người nữ
Không có nơi đất tịnh.’

Như lời ấy mà suy
Ðã thấy chỗ cách phân
Kẻ thiếu căn, yếu đuối
Hàng Duyên Giác, Thanh Văn

Ðáp

Mười muôn ức cõi nước
Dùng nhục nhãn mà nhìn
Người phàm tâm ô trược
Cõi Phật bóng mây xanh.

Thiện nghiệp đã thành tựu
An định trong chánh tâm
Tâm đó là tâm tịnh
Quy hướng liền vãng sinh

{Cõi nước A Di Ðà
Cách đây chẳng phải xa}
Kinh Quán Vô Lượng Thọ
Muôn sắc một tờ hoa .

Ví như người trong mộng
Thân tuy ở tại sàng
Thấy đến đi các cõi
Bích hải tiếp thanh sơn.

Lại nói không người nữ
Không có kẻ thiếu căn
Nghĩa kinh nên tường tận
Thánh ý chớ xem thường

Xưa bà Vi Ðề Hy
Cùng năm trăm thị tỳ
Cực Lạc sẽ vãng sinh
Chính lời Phật thọ ký .

Lại nói bậc Nhị Thừa
Pháp Tạng đại tỳ khiêu
Bốn mươi tám thệ nguyện
Chưa từng bỏ một ai .

Người thọ sinh Cực Lạc
Lìa tâm chấp tướng thân
Thấy thực tướng vạn pháp
Vượt trên quả Thanh Văn.

X

Vấn

Phàm phu sinh cõi người
Ái dục là hạt dữ
Cầu sinh thân cõi tịnh
Lấy gì làm chủng tử ?

Ðáp

Muốn cầu sinh Cực Lạc
Thứ nhất, hạnh yễm ly
Thứ hai là hân nguyện
Làm chủng tử hồi quy

Thọ sinh trong cùng khổ
Quanh quẩn nẻo luân hồi
Cưu mang thân tật bệnh
Yếu ớt lại tanh hôi

Kinh Ðại Niết Bàn nói
Ái thân chỉ kẻ ngu
Duy có loài La Sát
Chẳng thấy cảnh ngục tù

Nếu thực là người trí
Cớ chi mê đắm thân
Thân nam hoặc thân nữ
Khối máu thịt, dãi đàm.

Khi sinh khởi lòng chấp
Tức hoại nghĩa chân thân
Dùng thân như phương tiện
Ðoạt pháp Phật tại trần

Cũng nên hằng quán chiếu
Bất tịnh pháp, bảy nhà
Thân kết từ ái nhiễm
Tinh huyết của mẹ cha

Thai bào cung bất tịnh
Tăm tối và tanh hôi
Lớn dần trong máu huyết
Tràn chảy lúc ra đời.

Không lớp da che đậy
Phèo phổi ai dám thương
Lúc sống mà đã vậy
Khi chết lại sình ương.

Thêm quán người mới chết
Da phấn đổi xanh bầm
Thân cương to nức nẻ
Nước hôi thúi rỉ thầm.

Vòi tửa bò lúc nhúc
Chẳng lâu còn gân, xương
Lửa thiêu xương ro rút
Trải nắng sớm mưa chiều .

Thứ hai là hân nguyện
Tâm thương tưởng chúng sinh
Chứng Vô Sinh Pháp Nhẫn
Vào ra cõi hữu tình.

Vãng Sinh Luận từng thuyết
Bồ Ðề chân phát tâm
Tức tâm cầu làm Phật
Tức tâm độ chúng sinh

Ba pháp chướng Bồ Ðề
Thứ nhất, tâm chấp ngã
Cầu an vui riêng mình
Người cầu đạo phải biết .

Khá nên dùng trí huệ
Xa lìa tâm chấp thân
Ta, Người, chung tánh thể
Chia thân tức cách lòng.

Thứ hai, dùng bi nguyện
Tiếp độ kẻ mê tân
Thứ ba, dùng phương tiện
Mang đạo pháp đến gần.

Lìa được ba chướng pháp
Ba thuận pháp đồng thời
Thanh tịnh tâm vô nhiễm
Ngã, Pháp chẳng trong ngoài .

An tâmthí pháp
Thường lạc, Ðại Niết Bàn
Cầu sinh về Tịnh Ðộ
Tùy thuận hạnh Bồ Ðề.

Lại quán chân tướng Phật
Rõ biết chân pháp thân
Tánh tướng đâu sai khác
Ðịnh, Huệ, Lực chung đồng.

Cõi nước tịnh trang nghiêm
Hoa thơm làm thất bảo
Suối mát đẫm trăng thiêng
Chánh báoy báo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25574)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37834)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19518)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18600)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14186)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20063)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9475)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14331)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35487)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10626)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19646)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23161)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13338)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10727)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20164)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10570)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9927)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14839)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17592)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17547)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13148)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31092)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25676)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13946)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17467)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10936)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12255)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10438)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12237)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11736)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9594)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12314)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9158)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8461)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9926)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9739)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11999)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14378)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9884)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11183)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8272)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10950)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14034)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9874)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15151)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12998)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23040)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23906)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12528)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15393)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17738)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15000)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16509)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16009)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17547)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11564)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11594)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17782)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10736)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10500)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11285)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12049)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11014)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36362)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8936)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9638)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34665)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17226)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10210)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10436)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12165)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13580)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14604)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9126)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24759)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11610)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10293)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15895)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15534)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14477)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12972)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12415)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14535)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18314)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9550)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18489)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18543)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18985)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18782)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11789)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13298)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47946)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11023)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13519)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13007)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11045)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12527)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11037)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31728)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11644)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant