Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Đản Sinh & Tính Giải Thoát Trong Đạo Phật

21 Tháng Năm 201300:00(Xem: 12567)
Phật Đản Sinh & Tính Giải Thoát Trong Đạo Phật

PHẬT ĐẢN SINH &
TÍNH GIẢI THOÁT TRONG ĐẠO PHẬT

Thích Phước Đạt


Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời.

Suy ngẫm về sự kiện lịch sử có tầm quan trọng này, mục đích là nhận chân được bài học có giá trị muôn đời cho con ngườithiết thực hơn hết là cho con người Phật tử Việt Nam đang sống trong thời đạixu hướng toàn cầu hóa, của nền văn minh vật chất được sùng thượng. Vấn đề đặt ra, giá trị thiết thực của đạo Phật, trong đó tính giải thoát sẽ góp phần đem lại sự bình an nội tại, hạnh phúc cho con người trong cuộc hành trình tâm linh truyền thống.

Ý niệm về giải thoát trong đạo Phật

Đức Phật từng dạy rằng: “Cũng như nước biển chỉ có một vị là mặn, đạo của Như Lai cũng có một vị là giải thoát”. Giải thoátlý tưởng muốn đạt tới của con người muôn thuở, chứ không riêng gì trong thời đại Đức Phật. Theo đó, Phật giáo hướng con người vượt qua sự mê mờ (vô minh), nhận ra bản tính của mình và thực tướng của vạn vật, hòa nhập được vào với bản thể vũ trụ tuyệt đối, chân thực, bằng nhận thức trực giác, và cả thực nghiệm tâm linh. Đó chính là sự giải thoát.

Giải thoát theo tiếng Phạn là moksha, mukti. “Giải” nghĩa là gỡ ra, cởi ra, chia tách ra hay giải thích cho rõ; chữ “thoát” nghĩa là vượt ra khỏi sự trói buộc, vượt ra ngoài sự ràng buộc của cái ách của sanh, già, bệnh, chết, ách của sanh tử, luân hồi mà đã làm người thì ai cũng phải chịu.

Theo các kinh sách triết họctôn giáo cổ Ấn Độ, thì từ giải thoát có rất nhiều nghĩa và có thể xem xét nó qua các mặt khác nhau như trạng thái, mục đích, phương tiện và kết quả. Người ta cũng có thể xem xét nó ở các mặt bản thể luận hay nhận thức luận, triết học, tâm lý cũng như đạo đức, tôn giáo. Trong triết lý Phật giáo Ấn Độ, giải thoát tức là trạng thái đời sống tinh thần con người vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới nhục dục, là sự “diệt” hết mọi dục vọng, đạt tới cảnh trí Niết-bàn với cái tâm tuyệt đối thanh tịnh, bất sinh, bất diệttự do, tự tại, bằng con đường thực nghiệm tâm linh theo lộ trình Giới - Định - Tuệ.

Chúng ta nhớ lại chuyện thái tử Siddharta, khi còn ở trong hoàng cung, mấy lần đi chơi ngoại thành gặp những cảnh người ốm, người già, người bệnh và lần thứ tư gặp một nhà tu hành với dáng điệu giải thoát. Tất nhiên dáng điệu giải thoát đó của nhà tu hànhthái tử gặp ở ngoài thành, phải phản ánh, phải thể hiện nội tâm giải thoát của vị ấy, nếu không như vậy thì sẽ không có tác động sâu sắc đến thái tử như vậy, khiến thái tử quyết chí từ bỏ hoàng cung xuất gia đi cầu đạo.

Nội tâm giải thoát như các sách Phật hiện nay thường nói, là tâm giải thoáttuệ giải thoát, giải thoát khỏi phiền nãovô minh. Sự giải thoát phải thật sự đạt được từ bên trong nội tâm, rồi mới bộc lộ ra bên ngoài thành tướng giải thoát, chứ không phải cứ mặc áo nâu sồng, đầu cạo sạch tóc là tướng giải thoát. Thiết nghĩ, người phương Tây đã nói đúng với câu: “Cái áo không làm thành người tu sĩ” (L’habit ne fait pas le moine). Và Khổng Tử cũng nói rất đúng khi ông viết trong cuốn Đại học: “Thành ư trung, hình ư ngoại”. Nghĩa là chân thành ở bên trong thì lộ ra ở bên ngoài. Giải thoát hay không giải thoát đều lộ ra bên ngoài.

Kinh Bổn duyên (Mahavastu) kể lại chuyện ngài Xá Lợi Phất sau khi ngộ đạo gặp lại ngài Mục Kiền Liên trên đường đi. Ngài Mục Kiền Liên thấy ngài Xá Lợi Phất dung mạo khác thường bèn hỏi: “Này Tôn giả Xá Lợi Phất, dung mạo Tôn giả thanh tịnh, thần thái Tôn giả trang nghiêm, an ổn khiến mọi người đều kính. Phải chăng Tôn giả đã uống được nước cam lồ bất tử, đã tìm được con đường lớn dẫn tới sự giải thoát? Dung mạo Tôn giả giống như bậc đắc đạo, nó trong sáng như hoa sen nở…” (Chuyển từ cuốn Buddhist Thought In India-Mahavastu).

Tính giải thoát ưu việt của đạo Phật trong đời sống xã hội

Mọi tôn giáotriết thuyết đều không phải nảy sinh trong sa mạc, mà là trong bối cảnh lịch sử - xã hội nhất định. Đạo Phật là một đạo giải thoát, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử - xã hội Ấn Độ cổ đại, bị chi phối bởi giáo điều giải thoát rất đặc biệt của Bà-la-môn giáo.

Vì sao lại nói giáo điều giải thoát đặc biệt? Giáo điều giải thoát của Bà-la-môn giáo đặc biệt ở chỗ chỉ dành cho những người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn và đẳng cấp Sát-đế-lỵ (tức là đẳng cấp giáo sĩ và vương tướng); còn người thuộc đẳng cấp tiện dân, Thủ-đà-la mà trộm nghe kinh Veda thì bị phạt đổ dầu nóng vào tai; trộm xem kinh Veda thì bị phạt đổ dầu nóng vào mắt… Giáo điều giải thoát của Bà-la-môn còn đặc biệt ở chỗ nó xem kinh Veda là thần khải, do đó mà gọi lời chép trong kinh đều là chân lý tuyệt đối, phải tin và phục tùng không được bàn cãi.

Và cũng theo lời dạy của kinh Veda, tổ chức tế đàn cúng pháp là điều tối thượng, đảm bảo cho người dâng tế sự gia hộche chở của thần linh. Tuy nhiên, để có thể tổ chức tế đàn đúng quy định, thì không thể không dựa vào lớp giáo sĩ Bà-la-môn, thông thạo sách Veda. Từ đó, mọi người kể cả vua chúa phải tôn sùng đẳng cấp Bà-la-môn như là đẳng cấp cao quý nhất trong xã hội, đẳng cấp có thể giao tiếp với thần linh, thậm chí có thể sai sử thần linh.

Như vậy biện pháp gọi là giải thoát của của Bà-la-môn giáo thực ra là biến con người thành nô lệ của tế đàn của kinh Veda, thần linh và đẳng cấp Bà-la-môn.

Gọi là giải thoát nhưng trên thực tếnô lệ hóa. Một trong những chức năng cách mạng của đạo Phật khi nó xuất hiệnẤn Độgiải thoát người Ấn Độ khỏi những ràng buộc đó, và bày vẽ cho người Ấn Độ con đường dẫn tới cảnh giới đích thực. Đúng như Tiến sĩ Radhakrishnan viết khi mở đầu tập hai cuốn Triết học Ấn Độ: “Kỷ nguyên của Đức Phật là suối nguồn vĩ đại của tinh thần triết học Ấn Độ… Đạo Phật tác động như một liều thuốc tẩy, rửa sạch tinh thần khỏi ảnh hưởng làm xơ cứng của những trở ngại và ách tắc xưa. Chủ nghĩa hoài nghi, nếu trung thực thì sẽ giúp tổ chức lại tín ngưỡng trên cơ sở tự nhiên của nó. Các trường phái bảo thủ buộc phải điều chỉnh những quan điểm của mình, và bảo vệ chúng một cách lô-gic…” (Indian Philosophy. Vol 2 p. 17. Radhakrishnan).

Có thể nói, với sự xuất hiện của đạo Phật, mặt phê phán của triết lý trở thành quan trọng ngang bằng mặt tự biện. Khác với giáo chủ các tôn giáo khác, Đức Phật chưa từng bao giờ xưng mình là thần linh và đòi hỏi tín đồ phải tin và phục tùng mình như thần linh. Đức Phật đến với loài người như là một con người nhưng là một con người hoàn thiện, và chỉ bày cho mọi người con đường để trở thành hoàn thiện. Tính nhân bản của đạo Phật là ở chỗ đó.

Cảnh giới giải thoátĐức Phật chỉ bày cho con người tuy là không thể nghĩ bàn, siêu việt ngôn ngữtư duy thế tục, thế nhưng con đường dẫn tới cảnh giới đó lại được Đức Phật mô tả và giảng dạy bằng ngôn ngữ, và sau này được chép lại thành văn tự, đó là con đường Giới - Định - Tuệ; con đường của nếp sống đạo đức (giới), của tịnh tâm (định), và trí tuệ bừng sáng (trên cơ sở của giới và định). Đó là con đường tự mình cố gắng, tự mình nỗ lực hàng ngày, hàng giờ, trong từng giây phút của cuộc sống.

Cuộc sống đạo đức trong sáng hàng ngày sẽ dần dần đem lại sự định tâm, sự bình lặng và trong sáng của tâm thức, từ đó trí tuệ Bát-nhã nảy sinh. Đó là con đường tu tập vững chắc nhất, ai cũng theo được dù là xuất gia hay tại gia.

Vua Trần Thái Tông đã nói lại tư tưởng này trong cuốn Khóa hư lục với câu mà hầu như người nào nghiên cứu Phật giáo thời Trần đều thuộc lòng và tâm niệm không phút nào quên: “Mạc vấn đại ẩn tiểu ẩn, bất câu Tăng tục, xuất gia tại gia, chỉ yếu biện tâm…” (Không kể là ở ẩn trên núi hay là giữa thị thành, không kể là Tăng hay tục, là xuất gia hay tại gia, điều chủ yếu phải làm là biện tâm, tức là tu tập tâm, cải tạo tâm...).

Cũng trong thời Trần, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, trong bài Phật tâm ca nổi tiếng, cũng khẳng định: “Phật tức tâm, tâm tức Phật”. Và học trò của ngài là vua Trần Nhân Tông, Sơ tổ của dòng Thiền Trúc Lâm, trong Cư trần lạc đạo phú, lại diễn đạt tư tưởng đó với những câu như: “Chỉn Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ…;“Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn nghi ngờ đến phương Tây”, “Di Đà là tính lặng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc…”.

Đúng như vậy, tinh thần đạo Phật là trong sự nghiệp cầu tìm chân lý, cầu tìm giải thoát, cầu tìm Phật, không nên tìm tòi ở đâu xa, ở Ấn Độ hay Hymalaya… mà chính ngay ở trong nội tâm mình.

Đó cũng là bức thông điệp đầy tính nhân bản và cũng đầy tính cách mạng mà Đức Phật Thích Ca gởi đến loài người, khi Ngài xuất hiện không phải trong hào quang của thần linh, mà như một con người đã hoàn thiện, đến với những con người.

Có người, nhiều người chứ không phải là một số ít người, nhìn đạo Phật như là một cái gì đó xa xôi, siêu nhiên, huyền bí. Nhưng “hoa sen đâu có mọc trên núi rừng xa vắng, mà mọc ngay ở cạnh đường đi, ở trong bùn”. Ảnh dụ hoa sen vươn lên từ trong bùn lầy, hoa sen vẫn tươi đẹp trong lò lửa tham, sân, si của cái thân năm uẩn này là một ảnh dụ rất có ý nghĩa, rất sâu sắc, xứng đáng để cho chúng ta suy tư và tâm niệm hàng ngày, hàng giờ phút trong cuộc sống.

Chúng ta cũng gần gũi với Phật bằng cả cuộc sống của mình với việc hướng tâm đến sự giác ngộgiải thoát bằng nỗ lực sống theo phương châm “Việc hại người dù nhỏ cũng không làm; việc lợi người dù nhỏ cũng cố gắng làm”. Đấy chính là con đường dẫn đến cuộc sống an lạc, hạnh phúc cho bản thâncộng đồng. Giá trị của tính giải thoát trong đạo Phật là vậy.

Thích Phước Đạt

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31672)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10532)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11232)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12759)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10813)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16669)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10821)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22969)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12029)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11497)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10688)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12341)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11200)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10026)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10333)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11922)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10702)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12377)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9817)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11276)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13846)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9582)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12635)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9705)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10461)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10558)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10326)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9907)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11061)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12021)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10147)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10788)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8772)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9500)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14527)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8782)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12556)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10427)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9089)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10562)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8807)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10520)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9196)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8369)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12033)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10218)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19146)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9417)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9021)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14761)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10101)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8354)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8953)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8976)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8744)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9371)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14602)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9041)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8777)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9050)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10536)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8644)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9994)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24288)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10178)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11030)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9003)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9472)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8005)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9271)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10340)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9584)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21403)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12168)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19242)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26049)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7982)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14810)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10636)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11356)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9535)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12367)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10757)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13346)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10002)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9274)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9387)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15903)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant