Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

02. Lược sử về đức Liên Hoa Sanh

10 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 13282)
02. Lược sử về đức Liên Hoa Sanh

GIÁO HUẤN DAKINI

Do YESHE TSOGYAL ghi lại và chôn dấu
Phát lộ bởi: NYANG RAL NYIMA OSER và SANGYE LINGPA

LƯỢC SỬ VỀ ĐỨC LIÊN HOA SANH

NGÀI JAMGON KONGTRUL ĐỆ NHẤT

Tiểu sử vắn tắt về cuộc đời của Đức Liên Hoa Sanh, cũng được biết là Guru Rinpoche hay Padmakara, được trích ra từ “vòng hoa lam ngọc quý báu”, một bộ sưu tập nói về cuộc đời của 108 vị terton chính do Ngài Jamgon Kongtrul đệ nhất viết và thấy trong quyển 1 thuộc bộ Rinchen Terdzo của Ngài.

Đức Padmakara đã ảnh hưởng đến vô số chúng sanh qua giáo huấn Kim Cương Thừa, đặc biệt là qua hoạt động chôn dấu những kho tàng terma thâm sâu. Bậc Thầy vĩ đại này không phải là người thường trên con đường cũng không phải là thánh nhân của những địa Bồ Tát mà là một hóa thân của cả hai Phật A Di ĐàThích Ca Mâu Ni, xuất hiện để thuần phục nhân loại và những tinh linh khó thay đổi.

Ngay cả những đại Bồ Tát cũng khó giải nghĩa đầy đủ những gương mẫu về cuộc đời Ngài, nên tôi xin được tường thuật vắn tắt như sau.

Trong cõi Pháp thân của Tinh túy Kim Cương Quang, Đức Guru Rinpoche nhờ đạt tự tánh giác ngộ viên mãn từ vô thủy như nền tảng giải thoát của thanh tịnh nguyên sơ. Ngài nổi tiếng là đấng Thủ Hộ nguyên thủy Bất biến Quang.

Trong cõi Báo thân tự-hiển lộ của Sấm Trống Viên mãn, Ngài đồng thời biểu hiện Vô tận Trí của ngũ bộ Vô biên Đại dương Chư Phật đang sở hữu ngũ trí.

Như hiển lộ bên ngoài của sự phô diễn tự-hiện này, trong vô số phô diễn tướng thân ở những cõi của năm gia đình Phật bao gồm cõi Hóa thân tự nhiên cùng hiển lộ của Đại Phạm Thiên, Ngài xuất hiện đến tất cả Bồ Tát ở mười địa. Vì tất cả những điều này là những đám mây phô diễn trí tuệ của Guru Rinpoche, “Vô tận Luân Trang nghiêm” nên Ngài được biết là Đấng Trì Thủ Trọn Vẹn Liên Hoa.

Bằng năng lực của những phô diễn trí tuệ này Ngài xuất hiện trong vô số thập phương thế giới như sự xuất hiện huyền diệu của Hóa thân, bậc điều phục chúng sanh. Đặc biệtcõi Ta bà này, Ngài soi sáng năm mươi thế giới với ngọn đèn giáo lý sutra và tantra hiển lộ như tám hóa thân để điều phục chúng sanh trong những nơi khác nhau trên thế giới.

Dakini Yeshe Tsoygal đã có linh kiến thấy một hóa thân của Ngài gọi là Vô biên Kim cương Hải ở hướng Đông. Mỗi lỗ chân lông trên thân Ngài chứa một tỷ cõi và trong mỗi cõi chứa một tỷ hệ thống thế giới. Trong mỗi hệ thống thế giới này có một tỷ Guru Rinpoche mà mỗi vị lại tạo ra một tỷ hóa thân. Mỗi hóa thân này thuần phục cho một tỷ đệ tử. Sau đó Bà thấy sự phô diễn tương tự ở phương trung ương và trong mỗi phương khác.

Trong cõi Diêm Phù Đề này, Guru Rinpoche chỉ là một hóa thân, bậc điều phục chúng sanh[3] mà tùy theo khả năng, căn cơ của từng người sẽ cảm nhận Ngài theo nhiều cách. Quyển Lịch Sử Khẩu Truyền Kilaya và hầu hết nguồn tài liệu Ấn Độ đều giải thích rằng Ngài sinh ra là con vua hay là một bộ trưởng ở Uddiyana, trái lại phần lớn những kho tàng terma kể lại rằng Ngài sinh ra một cách kỳ diệu. Trong một số kinh văn nói Ngài xuất hiện từ một tia chớp trên đỉnh Malaya. Mỗi câu chuyện kỳ diệu đều khác nhau. Thật sự đây là một chủ đề vượt lên tầm hiểu biết của trí tuệ người thường.

Sự giải thích giới hạn của tôi chỉ là một nguyên nhân, cuộc đời Ngài Guru Rinpoche sinh ra kỳ diệu ra sao đã được ghi trong giáo huấn terma.

Trong xứ Uddiyana ở hướng tây Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng) có một hòn đảo trong Hồ Danakosha, nhờ ân phước của chư Phật, trên đó xuất hiện một hoa sen nhiều màu sắc. Đức Phật A Di Đà gởi từ giữa tâm Ngài một (chày) Vajra vàng có khắc chữ HRIH vào nụ hoa sen này, và kỳ diệu thay, hoa sen chuyển thành một đứa trẻ tám tuổi tay cầm một chày và một hoa sen, được trang hoàng bằng những dấu ấn chính và phụ. Đứa trẻ ngụ ở đó và giảng dạy Giáo Pháp cao sâu cho chư Thiên và Dakini trên hòn đảo đó.

Vào lúc đó vị vua của xứ này là Indrabodhi, không có con. Ông đã cúng dường hết kho tàng của mình lên Tam Bảobố thí cho người nghèo để cầu con. Như một phương sách cuối để tìm ngọc như ý, Ông bắt đầu cuộc du hành đến Hồ lớn Danakosha với vị bộ trưởng Krishnadhara. Trên đường về trước tiên là Krishnadhara và sau đó Vua Indrabodhi gặp đứa trẻ kỳ diệu. Nhà Vua xem Ngài như kết quả của việc cầu con và đem Ngài về cung điện, ở đó ông đặt tên Ngài là Padmakara, Liên Hoa Sanh. Sau đó Ngài Padmakara được mời ngồi lên ngai bằng những viên ngọc quý và tất cả dân chúng cúng dường rất nhiều.

Khi lớn lên, vị hoàng tử làm cho nhiều người cùng trưởng thành qua các môn thể thao và trò chơi thời thanh niên của Ngài. Ngài lập gia đình với Prabhadhari và cai trị vương quốc Uddiyana theo Giáo Pháp. Vào lúc nhận ngôi, Ngài thấy không thể đem lại lợi ích lớn lao cho người khác bằng việc làm cho đất nước phát triển nên Ngài xin Vua Indrabodhi cho phép thoái vị nhưng không được chấp thuận. Thế nên trong một cuộc chơi, Ngài giả vờ làm ngọn giáo tuột khỏi tay và giết chết con của một bộ trưởng. Do vậy Ngài bị kết án lưu đày đến một nghĩa địa. Ngài sống ở Băng Viên, Hoan hỷ Lâm, và Sosaling, thực hiện giới luận đạo đức của một hành giả yogi. Trong thời gian này Ngài nhận được quán đảnh và ân phước của hai dakini là Đấng Hàng phục Ma Vương và Bậc Duy trì Cực Lạc. Khi triệu thỉnh tất cả dakini của nghĩa địa dưới lệnh mình, Ngài được biết là Shantarakshita.

Padmakara trở về xứ Uddiyana đến hòn đảo trong hồ, ở đó Ngài thực hành Mật Chúngôn ngữ biểu tượng của chư dakini, nhờ vậy, Ngài đem chư dakini đến hòn đảo dưới mệnh lệnh của mình. Sau đó Ngài tu hànhRừng Khổ Hạnh và được ban phước linh kiến thấy Vajra Yogini. Ngài ràng buộc tất cả loài Rồng trong những hồ cũng như những tinh linh của hành tinh phát thệ bảo vệ Giáo Pháp nhờ sự trao quyền với năng lực siêu nhiên của tất cả chư daka và dakini. Vì vậy Ngài nổi danh là Dorje Drakpo Tsal (Đại lực Phẫn Nộ Kim Cương).

Sau đó Ngài du hành đến kim cương ngai ở Bồ Đề Đạo Tràng, tại đây Ngài phô diễn nhiều phép lạ. Dân chúng hỏi Ngài là ai, và khi trả lời Ngài là một vị Phật tự-hiện, họ không tin mà còn phỉ báng. Xét thấy có nhiều lý do phải có một vị thầy, Ngài đến Sahor, ở đó Ngài thọ giới với Prabhahasti và được ban pháp danh Shakya Sangye. Ngài nhận giáo huấn về tantra yoga mười tám lần và có linh kiến của các Bổn Tôn. Sau đó Ngài đến nữ đạo sư Kungamo, là bậc trí tuệ dakini Guhyasamaya xuất hiện trong thân tướng của một sư ni. Ngài yêu cầu được quán đảnh và Bà chuyển Ngài thành chủng tự HUM, sau đó Bà nuốt Ngài vào và nhả ra qua hoa sen của Bà. Bên trong thân Bà, Ngài được ban toàn bộ quán đảnh bên ngoài, bên trong, bí mật và được tịnh hóa ba che chướng (thân, khẩu, ý).

Sau này Ngài gặp tám vị Đại Trì Minh Vương và thọ tám phần nghi quỹ. Ngài thọ nhận Maya Jala từ đại sư Buddha Guhya và Dzogchen từ tổ Shri Singha. Theo cách này, Ngài thọ nhận và học tập tất cả sutra, tantra từ rất nhiều học giả và những vị tổ đã thành tựu của Ấn Độ. Ngài rất thông tuệ, chỉ cần nghiên cứu một chủ đề chỉ một lần mà đã có linh kiến của tất cả Bổn Tôn không cần thực hành. Vào lúc đó, Ngài được biết là Loden Choksey và phô diễn cách thức viên mãn của bậc vidyadhara đẳng cấp cao tột.

Kế tiếp, Ngài đến vùng ngoại ô của Sahor. Tại đó Ngài lôi cuốn công chúa Mandarava, con gái của Vua Vihardhara. Ngài nhận Bà như sự hỗ trợ nghi quỹ của mình, và họ thực hành ba tháng trong Động Maratika, sau này Đức Phật Vô Lượng Thọ (Amitayus) xuất hiện trong thân người ban quán đảnh trên họ và ban phước để bất khả phân với Đức Phật. Họ được ban một tỷ tantra về trường thọ và đạt thành tựu của vidyadhara thuộc đẳng cấp làm chủ cuộc sống. Thành tựu Kim Cương Thân vượt khỏi sinh tử, các Ngài trở lại vương quốc Sahor để hoằng Pháp. Khi khất thực, các Ngài bị nhà vua và bộ trưởng bắt và đem thiêu sống, vị Thầy và consort tạo niềm tin bằng sự phô diễn huyền diệu; chuyển dàn hỏa thiêu thành hồ nước lạnh giá, các Ngài ngồi trên hoa sen giữa hồ. Các Ngài đã làm tất cả mọi người thực hành Giáo Pháp miên mật và đã đưa họ vào trạng thái vượt khỏi luân hồi.

Sau đó, Đức Padmakara trở lại xứ Uddiyana để chuyển hóa dân chúng. Trong khi trì bình khất thực, Ngài bị nhận diện và đem hỏa thiêu trong một lò thiêu lớn tại rừng đàn hương. Vị Thầy và phối ngẫu một lần nữa xuất hiện trên một hoa sen giữa hồ không bị thương tổn, đeo một chuỗi sọ người biểu tượng cho sự giải thoát tất cả chúng sanh khỏi luân hồi. Vì sự phô diễn phép màu này Ngài được biết là Padma Thotreng Tsal (Đại Lực Liên Hoa của Chuỗi Sọ). Ngài lưu lại Uddiyana trong mười ba năm như một vị thầy của nhà Vua và làm cho toàn vương quốc thực hành Giáo Pháp. Trong thời gian này, Ngài ban quán đảnhgiáo huấn cho Kadue Chokyi Gyamtso là Biển Pháp Biểu Tượng Cho Mọi Giáo huấn. Nhờ đó vua và hoàng hậu cùng tất cả những người có căn cơ đã thành tựu đẳng cấp vidyadhara tối thượng. Do vậy Ngài được biết là Padma Raja (Liên Hoa Vương).

Tương ứng với một tiên tri trong Kinh Tri Kiến Huyền Diệu, Ngài Padmakara tự biến thành nhà sư Wangpo Dey để chuyển hóa cho vua A Dục (Asoka). Để xây dựng cho vua A Dục niềm tin bất thoái chuyển, chỉ trong một đêm Ngài dựng nên trong thế gian này một tỷ bảo tháp chứa những xá lợi của Đấng Như Lai. Ngài cũng khuất phục một số vị thầy không phải Phật Giáo, Ngài đã bị đầu độc bởi một vị vua nhưng không bị thương tổn. Sau đó, khi bị ném xuống dòng sông, Ngài làm nước sông chảy ngược, còn Ngài thì nhảy múa giữa trời. Qua đó, Ngài được biết là Đại Lực Kim Xí Điểu.

Ngoài ra, Padmakara còn tự hiện thân trong thân tướng Acharya Padmavajra, vị Thầy đã phát hiện Tantra Hevajra, cũng như Brahmin Saraha, Dombi Heruka, Virupa, Kalacharya, và nhiều vị thành tựu (siddha) khác. Ngài tu hành trong những đại mộ địa, ở đó Ngài dạy Kim Cương Thừa cho chư dakini. Ngài hàng phục những tinh linh thế gian bên ngoài và bên trong, chỉ định cho họ làm những người bảo vệ Giáo Pháp. Vào lúc đó, Ngài được biết là Nyima Oser.

Khi năm trăm vị thầy ngoại đạo sắp đánh bại Giáo Pháp trong một cuộc tranh luận tại Bồ Đề Đạo Tràng, Đức Padmakara thách thức họ và Ngài đã chiến thắng. Một số tà sư phải viện đến tà thuật, nhưng Padmakara đánh tan họ bằng mantra phẫn nộ mà Ngài đã được dakini Hàng phục Ma Vương ban cho. Tất cả họ đều chuyển tâm theo Phật Giáo và ngọn cờ Giáo Pháp tung bay trên bầu trời. Vào lúc đó Ngài được biết là Senge Dradrok. Lúc đó Ngài diệt hết ba nhiễm ô và an trụ trong đẳng cấp Vidyadhara làm chủ cuộc sống.

Đi đến động Yanglesho ở giữa Ấn Độ và Nepal, Ngài gặp Shakya Devi con gái vua xứ Nepal, người đã nhận lời hỗ trợ và làm phối ngẫu cho nghi quỹ của Ngài. Trong khi Ngài thực hành Vishuddha Heruka, ba tinh linh hùng mạnh đã ngăn không cho mưa trong ba năm tạo ra bệnh tật và đói kém. Đức Padmakara gởi người đem tin về Ấn Độ cầu những vị thầy của Ngài ban cho một giáo huấn có thể chống lại những che chướng này. Hai người đã trở về mang theo kinh văn Kilaya, những che chướng tự nhiên được dẹp tan ngay khi họ vừa đến Nepal. Sau đó, Padmakara và vị phối ngẫu thành tựu tất địa tối thượng và an trụ trong đẳng cấp Vidyadhara đại ấn.

Guru Rinpoche nhận thấy việc thực hành nghi quỹ của Vishuddha Heruka đem lại đại thành tựu. Nhưng thực hành này cũng giống như người đi buôn gặp nhiều chướng ngại, còn Kilaya giống như sự bảo hộ không thể thiếu. Vì sự trùng hợp ngẫu nhiên này, Guru Rinpoche đã soạn thảo nhiều nghi quỹ chứa hai Heruka này. Tại nơi đây Ngài ràng buộc mười sáu vị bảo vệ thế gian phát nguyện giữ gìn nghi quỹ Kilaya.

Đức Padmasambhva viếng thăm nhiều vương quốc cổ khác và truyền dạy Giáo Pháp: như Hurmudzu ở gần Uddiyana, Sikojhara, Dharmakosha, Rugma, Tirahuti, Kamarupa, vàKancha, cũng như nhiều nơi khác. Kinh văn không nói rõ Ngài có đến xứ Droding hay không, nhưng những giáo huấn tantric Ngài đã ban về Hevajra, Guhyachandra Bindu, Vishuddha, Hayagriva, Kilaya, và Mamo vẫn còn truyền đến ngày nay.

Padmakara được xem là sống ở Ấn Độ đến ba ngàn sáu trăm năm giảng dạy làm lợi ích chúng sanh. Nhưng những học giả chỉ chấp nhận một nửa số năm; vì đó chỉ là con số tượng trưng.

Để chuyển tâm dân xứ Mông CổTrung Quốc, Đức Padmakara hóa thân thành Vua Ngonshe Chen và hành giả Tobden. Ngoài ra Ngài còn xuất hiện như thần đồng ở vùng ngoại ô Shangshung, Ngài đã ban những giáo huấn về dòng truyền nghe của Đại Viên Mãn (Dzogchen) và dẫn dắt nhiều đệ tử xứng đáng thành tựu thân cầu vồng.

Bằng nhiều phương tiện, xuất hiện nhiều nơi, trong nhiều thân tướng khác nhau, nói nhiều thứ tiếng, những hoạt động của Đức Padmakara thật sự vượt lên mọi suy lường.

Bây giờ, tôi xin mô tả lại việc Ngài Padmakara đến xứ Tây Tạng ra sao. Khi Vua Trisong Deutsen, một hóa thân của Bồ Tát Văn Thù, được hai mươi tuổi; trong Ngài hình thành một khao khát mạnh mẽ về Giáo Pháp thiêng liêng được phổ biến. Ngài mời Bồ Tát Khenpo[4] từ Ấn Độ, bậc đã dạy thập thiện hạnh và thập nhị nhân duyên. Một năm sau, nền móng của một ngôi Đại Tự đã xong, nhưng những tinh linh của Tây Tạng tạo chướng ngạingăn cản việc xây cất. Phù hợp với tiên tri của Ngài Khenpo, nhà vua cử năm người nhanh chóng mời thỉnh đại sĩ Padmakara. Biết trước việc này, Padmakara đã đến Manyul ở giữa Nepal và Tây Tạng. Trên đường đến miền trung Tây Tạng, Ngài đi qua Ngari, Tsang, và Dokham dùng thần thông thăm tất cả các khu vực, ở đó Ngài ràng buộc mười hai thiên nữ Tenma, mười ba Gurlha và hai mươi mốt Genyen phát thệ, cũng như nhiều tinh linh hùng mạnh khác.

Tại Rừng Tamarisk ở Hồng Thạch, Ngài gặp vua Tây Tạng và lên đỉnh Hepori thu phục quỷ thần. Ngài đạt nền móng cho tu viện Samye và trông coi từ đầu đến khi hoàn tất, Ngài giao cho những quỷ thần trước đây gây cản trở việc xây cất phải làm việc. Trong năm năm đã xây dựng xong một quần thể tự viện Samye Quang Vinh, Bất BiếnThành Tựu Tự nhiên Vihara, bao gồm ba tu viện của hoàng hậu, các quần thể cung điện này đã xây theo biểu tượng Núi Tu Di bao quanh bởi bốn châu lục, tám châu lục phụ, mặt trời, mặt trăng, và tường thành của núi sắt. Trong lễ thánh hóa, đã xảy ra năm đấu hiệu kỳ diệu.

Sau đó nhà vua ước muốn phiên dịch kinh điểnthiết lập Giáo Pháp, nên vua chọn những thiếu niên Tây Tạng thông minh học để thành những dịch giả. Ngài mời những Pháp sư thông hiểu Kinh, Luật, Luận từ Ấn Độ, nhờ Ngài Khenpo thọ giới cho bảy vị tu sĩ đầu tiên và dần dần thiết lập một tăng đoàn đã thọ giới. Bồ Tát Khenpo, Đức Padmakara và các nhà hiền triết khác cùng Ngài Vairochana, Kawa Paltseg, Chog-ro Lui Gyaltsen và những dịch giả khác đã trao tất cả Kinh điển Hiển và Mật của Đạo Phật đang tồn tại cũng như những luận thư giảng nghĩa về chúng cho Tây Tạng.

Vairochana và Namkhai Nyingpo được gởi tới Ấn Độ, Ngài Vairochana học Dzogchen với Tổ Shri Singha, trong lúc Namkhai Nyingpo tiếp nhận giảng dạy về Vishuddha Heruka từ đại sư Hungkara. Cả hai đều thành tựu và về hoằng PhápTây Tạng.

Sau đó, Vua Trisong Deutsen thỉnh cầu Đức Padmakara quán đảnh và hướng dẫn. Tại Chimphu, nơi ẩn tu trên Samye, đại sư đã hiển lộ mandala tám nghi quỹ Heruka, Ngài làm lễ nhập dòng cho nhà vua và tám người khác. Mỗi một vị được giao phó với một trao truyền đặc biệt, và cả chín người đều thành tựu nhờ thực hành giáo huấn.

Padmakara đã ban vô số giáo huấn thâm sâukỳ diệu khác liên kết với ba tanra nội cho nhiều đệ tử đã định trước, đứng đầu là nhà vua và những con trai và hai mươi lăm vị đệ tử ở Lhodrak, Tidro và nhiều nơi khác.

Guru Rinpoche lưu lại Tây Tạng năm mươi lăm năm sáu tháng, bốn mươi tám năm lúc nhà vua còn sống và và bảy năm sáu tháng sau đó. Ngài đến Tây Tạng lúc nhà vua được hai mươi mốt tuổi (810 sau Công nguyên). Nhà vua qua đời vào tuổi sáu mươi chín. Padmakara ở lại vài năm sau đó trước khi rời khỏi xứ La Sát (Tây Tạng).

Padmakara đi thăm hai mươi ngọn núi tuyết của Ngari, hai mươi mốt nơi thực hành ở miền trung Tây Tạng và Tsang, hai mươi lăm nơi ở Dokham, ba thung lũng ẩn khuất và nhiều nơi khác. Mỗi nơi Ngài đều ban phước thành nơi thiêng liêng để thực hành. Biết trước vị vua sau này sẽ phá hoại Phật GiáoTây Tạng, Ngài ban nhiều tiên tri cho tương lai. Hội ý với nhà vua và những đệ tử thân cận, Padmakara chôn dấu vô số giáo huấn terma, chủ yếu tại tám kho tàng của cá nhân nhà vua, năm kho đại trí, và hai mươi lăm kho vi diệu. Lý do chôn dấu những terma này là ngăn ngừa sự hủy diệt giáo huấn Kim Cương Thừa, tránh sự thêm thắt hay làm sai lạc Kim Cương Thừa của giới trí thức sau này, để bảo tồn ân phước và làm lợi ích cho những đệ tử trong tương lai. Với mỗi kho tàng chôn dấu này, Đức Padmakara đều tiên tri thời gian phát hiện, người nào sẽ phát hiện và người gìn giữ giáo huấn đã định trước. Ngài biểu lộ tướng phẫn nộ khủng khiếp của trí tuệ điên ở mười ba nơi tên là Hang Cọp, ràng buộc tất cả tinh linh thế gian dưới lời thề phục vụ Giáo Pháp, và giao cho họ canh giữ những kho tàng terma. Vào lúc đó Ngài có tên là Dorje Drollo.

Để gợi niềm tin cho những thế hệ tương lai, Ngài để lại dấu ấn thân Ngài tại Bumthang dấu bàn tay Ngài tại Namtso Chugmo, và dấu chân tại Paro Drakat cũng như vô số dấu ấn ở những chỗ thực hành khác.

Sau cái chết của Vua Trisong Deutsen, Padmakara đưa Mutig Tsenpo lên ngôi. Ngài thực hiện một drubchen tại Tramdruk, Ngài trao giáo huấn thâm sâu cho Gyaltse, vị hoàng tử thứ hai và ban tiên tri rằng ông sẽ làm lợi ích chúng sanh do trở thành một vị khai mật tạng trong mười ba kiếp sau.[5] 

Không thể tính đếm được có bao nhiêu đệ tửTây Tạng đã nhận được quán đảnh từ Đức Padmakara trong thân người, nhưng phần lớn được nổi tiếng là hai mươi lăm vị đệ tử ban đầu, hai mươi lăm vị ở khoảng giữa, sau này là mười bảy và hai mươi mốt đệ tử. Có tám mươi đệ tử của Ngài đắc thân cầu vồng tại Yerpa, và một trăm lẻ tám thiền sư tại Chuwori, ba mươi hành giả tantrika tại Yangdzong, và năm mươi lăm bậc giác ngộ tại Sheldrag. Về đệ tử nữ có hai mươi lăm đệ tử dakini, và bảy yogini. Nhiều vị đệ tử thân cận này có dòng truyền thừa liên tục cho tới ngày nay.

Khi Ngài sắp rời khỏi xứ la sát đến hướng Tây Nam, nhà vua và bộ trưởng cùng tất cả đệ tử cố gắng can ngăn Ngài Padmakara không đi, nhưng không hiệu quả. Ngài ban cho mỗi người giáo huấn và khai thị rộng lớn và khởi hành từ đèo Gunthang, cưỡi trên một con ngựa hay sư tửchư thiên theo hộ tốngcúng dường. Tại Đỉnh Núi Màu Đồng Quang Vinh trên châu lục Chamara, Ngài giải thoát Raksha Thotreng, vua các la sát, và mang hình tướng này. Sau đó, Ngài kiến tạo một cách phi thường cung điện Liên Hoa Quang với nhiều trang hoàng kỳ diệu không thể tưởng và Ngài lưu xuất ra tám thân trên tám hòn đảo bao quanh, ở đó Ngài an trú như nhà vua giảng dạy tám nghi quỹ Heruka.

Hiện tại Ngài an trụ ở đẳng cấp vidyadhara tự-hiện trong tướng quan nhiếp chính của Vajradhara (Kim Cương Trì), bất biến với thời gian chừng nào luân hồi còn tồn tại. Tràn đầy lòng bi, Ngài lưu xuất nhiều hóa thân làm lợi ích chúng sanh. Thậm chí sau khi giáo huấn vinaya (luật tạng) bị hư hoại, Ngài cũng sẽ xuất hiện với những hành giả tantric. Sẽ có nhiều đệ tử đã định trước thành tựu thân cầu vồng. Trong tương lai khi Đức Phật Di Lạc xuất hiện đến thế gian này, Đức Padmakara sẽ hóa thân là một người được biết là Drowa Kundul và truyền bá giáo huấn của Kim Cương Thừa cho tất cả người xứng đáng.

Tiểu sử vắn tắt này chỉ là một phần tường thuật để thích nghi với những gì mà người học bình thường có thể tiếp nhận[6].

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25574)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37834)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19518)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18600)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14186)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20063)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9475)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14331)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35488)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10626)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19646)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23161)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13338)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10727)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20164)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10571)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9928)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14840)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17592)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17548)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13149)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31093)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25677)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13947)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17468)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10937)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12255)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10439)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12238)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11736)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9595)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12314)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9158)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8461)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9926)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9740)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12000)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14378)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9884)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11183)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8272)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10950)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14034)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9874)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15151)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12998)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23040)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23906)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12528)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15393)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17738)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15000)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16509)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16010)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17547)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11564)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11594)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17782)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10736)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10500)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11286)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12049)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11014)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36362)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8936)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9638)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34665)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17226)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10210)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10437)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12165)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13580)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14604)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9126)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24760)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11610)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10293)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15895)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15534)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14477)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12972)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12415)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14535)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18314)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9550)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18489)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18543)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18985)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18782)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11789)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13298)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47946)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11023)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13519)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13007)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11045)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12527)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11037)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31728)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11644)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant