- 01. Lời nói đầu của dịch giả
- 02. Lược sử về đức Liên Hoa Sanh
- 03. Giáo huấn dẫn nhập
- 04. Những giáo lý đi lên với hạnh
- 05. Quy y
- 06. Bồ đề tâm
- 07. Phát Bồ đề tâm thực tế
- 08. Mười nền tảng của Kim Cương Thừa và những lời dạy chọn lọc khác
- 09. Thực hành Pháp với sự chân thành
- 10. Kim Cương sư và Bổn tôn Yidam
- 11. Tu tâm theo Kim Cương Thừa
- 12. Tràng hoa pha lê của sự thực hành không lỗi
- 13. Cốt tủy tinh hoa của những giáo huấn khẩu truyền
- 14. Thuật ngữ
GIÁO HUẤN DAKINI
Do YESHE TSOGYAL ghi lại và chôn giấu
Phát lộ bởi: NYANG RAL NYIMA OSER và SANGYE LINGPA
THUẬT NGỮ
Phần thuật ngữ này là một soạn thảo về kiến thức chủ yếu nhận được như giáo lý khẩu truyền từ các Ngài Tulku Urgyen Rinpoche, Chokyi Nyima Rinpoche, và những vị Thầy khác của đạo Phật hiện nay. Một số từ mục thì vắn tắt và không định nghĩa, nhưng vì bao gồm sự tương đương với tiếng Tây Tạng, người đọc có thể tìm hiểu ý nghĩa sâu hơn từ các nguồn khác. Một số thuật ngữ tiếng Anh được tạo riêng để sử dụng trong sách này và có thể có cách diễn đạt khác nhau trong phạm trù khác.
A LẠI DA (Tạng, kun
gzhi; Phạn, alaya): Nguyên nghĩa là nền tảng của mọi sự. Căn bản của tâm và của
hiện tượng thanh tịnh và bất tịnh. Từ này trong bối cảnh khác lại có nghĩa
khác, và nên hiểu một cách tương ứng. Đôi khi nó đồng nghĩa với Phật tánh hay
Pháp thân, đôi lúc nó ám chỉ một trạng thái trung tính của tâm nhị nguyên không
được gắn bó với sự tỉnh giác bẩm sinh.
AKANISTHA (‘og
min): Cõi trời cao nhất (Sắc Cứu Cánh) của pháp thân Phật Kim Cương Trì. Với
một bàn luận về nhiều dạng Akanistha, hãy xem bản dịch sắp xuất bản của Ngài
Gyurme Dorje về Ngài Longchen Rabjam phyogs bCu Mun Sel, dưới tựa đề Xua Tan
Bóng Tối Trong Mười Phương.
AMITABHA (snag
ba mtha’ yas): Phật A Di Đà, vị Phật chính của Liên Hoa Bộ, sự biểu lộ của trí
tuệ phân biệt (Diệu Quan Sát Trí).
An trú bình
đẳng trong hư không này của hai chân lý (nhị đế) bất khả phân.
ARHANT (dgra
bcom pa): “bậc tiêu diệt kẻ thù”, Tàu dịch “ứng cúng”, A La Hán, là bậc chiến
thắng bốn Mara và đạt quả thứ tư, quả cuối cùng của Tiểu Thừa.
ATI YOGA
(shin tu rnal ‘byor): Cái thứ ba của ba tantra nội. Tương tự như Dzogchen (Đại
Viên mãn).
BA BẬC
NGUYỆN (sdom pa gsum): Nguyện Tiểu Thừa của giải thoát cá nhân, tu hành Đại
Thừa của một bồ tát, và samaya của Kim Cương Thừa của một vidyadhara.
BA CẤP ĐỘ
GIÁC NGỘ (byang chub gsum): Sự đạt niết bàn của một A la hán, Bích chi Phật, và
toàn giác của một vị Phật.
BA CẢNH
GIỚI (kham gsum): Cõi luân hồi của dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
BA CÕI THẤP
(ngan song gsum): Thế giới của địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
BA GIA ĐÌNH
(rigs gsum): Kim cương bộ, Liên hoa bộ và Như lai bộ. Khi nhắc đến “chủ của ba
gia đình”, các Ngài là Văn Thù, Quán Tự Tại, và Kim Cương Thủ.
BA GỐC
(rtsa ba gsum): Guru, deity, và dakini (Đạo Sư, Bổn Tôn, và Không Hành Nữ).
Guru là gốc rễ của ân phước, Yidam là gốc rễ của thành tựu, và Dakini là gốc rễ
của hành động.
BA LÃNH VỰC
CỦA KHÁI NIỆM (‘khor gsum gyi dmigs pa): Chủ thể, đối tượng, và hành vi.
BA LÃNH VỰC
CỦA ĐỐI TƯỢNG (yul gsum): thân tướng của Bổn Tôn xuất hiện hoặc như một đối
tượng của tri giác, hoặc đối tượng của tâm thức hoặc đối tượng của giác quan của
một người nào đó (snang yul, dbang yul, kyi yul).
BA LOẠI TRI
KIẾN (shes grab gsum): Sự hiểu biết và thấu suốt kết quả từ việc học hỏi, quán
chiếu, và thực hành thiền định.
BA ĐỘC (dug
gsum): Tham, sân và ảo tưởng.
BA SAMADHI
(ting nge ‘dzin gsum): Đại định của chân như, đại định của quang minh, đại định
của chủng tử tự. Đại định của chân như là an trụ trong sự bình thản của tánh Không
vốn sẵn của mọi hiện tượng được chỉ ra bởi guru gốc của hành giả, hay đơn giản
chỉ quán tưởng mọi sự đều trống rỗng như hư không. Đại định của quang minh là
hãy để lòng bi xuất hiện tự nhiên như mặt trời chiếu sáng hư không, hay đơn
giản phát sinh lòng bi với mọi chúng sanh chưa nhận ra bản chất của sự vật. Đại
định của chủng tử tự là sự hợp nhất vốn sẵn của tánh Không và lòng bi biểu hiện
trong dạng một chủng tự, đó là “chủng tử” hoặc suối nguồn từ đó Bổn Tôn và toàn
bộ mandala sẽ xuất hiện trong lúc thực hành. Ba samadhi này là khuôn mẫu tuyệt
đối cần thiết cho giai đoạn phát triển của thực hành Kim Cương Thừa. Trong
Lamrim Yeshe Nyingpo của Ngài, Padmasambhava nói:
BA THÂN
(sku gsum): Pháp thân, Báo thân, và Hóa thân. Ba thân như nền tảng là: tinh
túy, bản chất và diễn tả; như con đường là: cực lạc, trong sáng và vô niệm; và
như kết quả là: ba thân của Phật quả.
BẤT SINH
(skye ba med pa): Trong phương diện của chân lý tuyệt đối, mọi hiện tượng đều
không có một độc lập, giống hệt nhau một cách cụ thể do vậy không có nền tảng
cho những thuộc tính như sinh, trụ, hay diệt.
BẠN HỮU
VAJRA (rdo rje gros po): Người bạn của hành giả, cùng chia sẻ sự liên kết tâm
linh, có cùng vị Thầy, thực hành, hay cùng nhận được giáo lý.
BARDO (bar
do; Phạn, antarabhava): Trạng thái trung gian, trung ấm. Thường để chỉ giai
đoạn giữa chết và tái sanh. về chi tiết của bốn bardo, hãy xem Sự Phản Ánh Của
Tánh Giác (Nhà xuất bản Shambhala, Boston, 1989).
BẢN CHẤT
CỦA HIỆN TƯỢNG (chos kyi bdag): Một thực thể độc lập hay sự hiện hữu đồng nhất
vốn sẵn trong hiện tượng.
BẢN NGÃ CÁ
NHÂN (gang zag gi bdag): Ý niệm sai lầm là có hiện hữu một “cái tôi”, đó là một
thực thể thường hằng, độc lập và đặc biệt.
BÁNH XE CỦA
SỰ TỤ HỘI (tshogs kyi ‘khor lo; Phạn, ganachakra): Thời xưa, một bữa tiệc tập
thể của dâng cúng có giá trị bằng số lượng vàng. Ngày nay tương đương với
bữa tiệc cúng dường (tshogs kyi mchod pa).
BẢY CHI
(yan lag bdun pa): Sự thực hành bảy chi: đảnh lễ Tam Bảo, sám hối hành động bất
thiện, cúng dường, hoan hỷ với công đức của người khác, khẩn thỉnh không nhập
niết bàn, và hồi hướng công đức cho sự giác ngộ của tất cả chúng sanh.
BHUMI (sa):
Cấp độ hay phạm vi hoạt động (địa) của Bồ Tát: mười giai đoạn của ba con đường
cuối của năm Bồ Tát đạo. Hãy xem thập địa (mười bhumi).
BIẾT MỘT
LIỀN GIẢI THOÁT ĐƯỢC TẤT CẢ (geig shes kun grol): Sự thấu suốt Phật tánh chính
mình, trạng thái căn bản trong mọi tư duy và cảm xúc, sẽ tự động giải thoát sự
quy chiếu về những gì xảy ra.
BINDU (thig
le): Trong phạm trù của du già Bổn Tôn, là một trái cầu thật nhỏ bằng ánh sáng,
thường bằng cỡ hạt đậu.
BÌNH THƯỜNG
(tha mal): Trạng thái tâm của một người bình thường không chấp vào sự từ bỏ hay
thấu suốt được sự vô ngã mà không phải bằng bồ đề tâm nguyện, nhận thức thanh tịnh
hoặc sự nhận biết của bản tâm. Trong trạng thái đó, suy nghĩ và cảm xúc của họ
khởi lên không nghi ngờ và tự động tích luỹ nghiệp cho những vòng luân hồi sau.
BỒ ĐỀ TÂM
HẠNH (‘jug pa’i byang chub kyi sems): Bao gồm chủ yếu là sáu ba la mật.
BỒ ĐỀ TÂM
KHÔNG RỜI TÁNH KHÔNG VÀ LÒNG BI (stong nyid snying rje dbyer med byang chub kyi
sems): Tương tự như bồ đề tâm tuyệt đối.
BỒ ĐỀ TÂM
NGUYỆN (smon pa’i byang chub kyi sems): Bao gồm chủ yếu tứ vô lượng tâm.
BỐI RỐI, LO
LẮNG (rgod pa): Trạng thái tâm bị khích động do tư duy và cảm xúc.
BỐN BA LA
MẬT (phar phin bzhi): Bốn cái cuối của mười ba la mật thiện xảo, phương tiện
sức mạnh khao khát, và trí tuệ.
BỐN BẬC
PHẠM TRÙ NHẬN THỨC (skye mehed mu bzhi): Tương tự như bốn cõi vô sắc. Bốn trạng
thái thiền định chưa giác ngộ của việc an trụ trên những niệm: hư không vô tận,
ý thức vô tận, hoàn toàn không, không hiện diện cũng không thiếu vắng nhận
thức..
BỐN BỘ
DAKINI (mkha’ ‘gro sde bzhi): Những dakini của bốn gia đình: kim cương, bảo
sanh, liên hoa và tác nghiệp. Các Ngài là những sinh linh tâm linh đem đến bốn
hoạt động tức tai, tăng ích, kính ái và hàng phục.
BỐN CẤP
VIDYADHARA (rig ‘dzin gyi sa):
BỐN CẤP
VIDYADHARA (trì minh vương – rig ‘dzin rnam pa bzhi): Bốn giai đoạn thành tựu
của bậc trì thủ trí tuệ, bậc thầy của bốn giai đoạn về con đường tantric
mahayoga. Bốn cấp vidyadhara là: hoàn toàn trưởng thành, làm chủ cuộc sống, mahamudra
(đại ấn), và hiện diện tự nhiên (rnam smin, tshe dbang, phyag chen, lhun grub).
BỐN HOẠT
ĐỘNG (las bzhi): Tức tai, tăng ích, kính ái và hàng phục.
BỐN HOẠT
ĐỘNG HÀNG NGÀY (spyod lam bzhi): Đi, đứng, nằm và ngồi.
BỐN NĂNG
LỰC HUYỀN DIỆU (rdzu ‘phrul bzhi): Trong những Thừa phổ thông được kể ra là mục
đích, quyết định, siêng năng, sáng suốt; bốn nguyên nhân để đạt được năng lực
của siêu trí tuệ. Trong Kim Cương Thừa, bốn phô diễn huyền diệu (cho ‘phrul
bzhi) được nói đến là samadhi (đại định), thánh hóa, ban quán đảnh, và cúng dường.
BỐN PHƯƠNG
DIỆN CỦA SỰ TIẾP CẬN VÀ THÀNH TỰU (bsnyen sgrub kyi yan lag bzhi): Tiếp cận,
hoàn toàn tiếp cận, thành tựu và đại thành tựu. Bốn phương diện quan trọng của
thực hành Kim Cương Thừa, nhất là giai đoạn tụng niệm của thực hành Bổn Tôn.
Tuy nhiên, bốn phương diện này có thể áp dụng vào bất cứ mức độ ý nghĩa nào
trong tantra. Sự tương tự truyền thống của chúng như mời người cai trị đất nước
đến, dâng tặng phẩm và yêu cầu một điều đặc biệt, đạt được sự cho phép của ông
ta để áp dụng vào mục đích của mình, và dùng thẩm quyền của mình hoàn thiện lợi
ích cho chính mình và người khác. Trong phạm vi thực hành tụng niệm, tiếp cận
là sự quán tưởng Bổn Tôn với mantra ở ngực Ngài, hoàn toàn tiếp cận là vòng
chủng tự mantra quay tròn chiếu ra ánh sáng cúng dường tất cả chư Phật trong
mười phương, thành tựu là nhận được ân phước của các Ngài làm tịnh hóa mọi che
chướng của hành giả, và đại thành tựu là chuyển hóa thế gian thành mandala của cõi
Phật, chúng sanh thành nam và nữ Bổn Tôn, âm thanh thành mantra, và mọi niệm
tưởng; cảm xúc thành sự phô diễn thanh tịnh của tánh giác bẩm sinh.
BỐN PHƯƠNG
TIỆN CỦA KÍNH ÁI (bsdu ba’i dngos po bzhi): Rộng lượng, nói lời tử tế, ban giáo
lý thích hợp, và giữ kiên định giữa lời nói và hành động. Đức Liên Hoa Sanh nói
trong Lamrim Yeshe Nyingpo:
Làm trưởng
thành chính con, tụ hội những người đi theo nhờ sự rộng lượng.
Làm vui
thích họ với lời lẽ dịu dàng, và an ủi họ bằng việc thích hợp.
Nhờ khuyên
bảo họ hành động đầy ý nghĩa, xây dựng họ một cách tạm thời và tối hậu.
Trong sự
hoàn toàn lợi ích huy hoàng và hạnh phúc. (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự).
BỐN QUÁN
ĐẢNH (dbang bzhi): Quán đảnh cái bình, bí mật, trí tuệ-tri kiến, và từ ngữ quý
báu. Đức Liên Hoa Sanh nói trong Lamrim Yeshe Nyingpo:
Quán đảnh
cái bình làm tịnh hóa thân và kinh mạch (nadi),
Là hạt
giống của Thân Kim Cương và Hóa Thân,
Quán đảnh
bí mật khiến tịnh hóa khẩu và khí (prana),
Là hạt
giống của Ngữ Kim Cương và Báo Thân,
Quán đảnh
trí tuệ làm tịnh hóa ý và giọt bồ đề tâm (bindu)
Là hạt
giống của Ý Kim Cương và Pháp Thân,
Quán đảnh
tối hậu khiến tịnh hóa những khuôn mẫu quen thuộc của A lại da thức,
Là hạt
giống của Trí Kim Cương và Đại Cực Lạc Thân (svabhavikakaya).
BỔN TÔN VỚI
NHỮNG THUỘC TÍNH (mtshan beas kyi lha): Bổn Tôn tối thượng là pháp thân chúng
ta. Để nhận ra trạng thái tự nhiên này, chúng ta sử dụng sự hỗ trợ của một đấng
giác ngộ với mặt, tay, chân, trang phục, v.v...
BỐN VÔ
LƯỢNG (tshad med bzhi): Từ, bi, hỷ, và xả.
BODHICITTA (byang
sems, byang chub kyi sems): Bồ đề tâm, [1] Sự khao khát đạt giác ngộ vì lợi ích
của mọi chúng sanh, [2] Trong phạm vi Dzogchen là sự tỉnh giác bẩm sinh của tâm
tỉnh thức.
BODHISATTVA
(byang chub sems dpa’): Bồ Tát, bậc đã phát triển bồ đề tâm, khao khát đạt giác
ngộ để làm lợi ích tất cả chúng sanh. Một hành giả của con đường Đại Thừa; nhất
là người đã đạt sơ địa.
BRAHMA (sangs
rgyas): Phạm Thiên, Thiên chủ của cõi trời sắc giới.
BUDDHA (sang
rgyas): Phật, đấng giác ngộ, bậc đã hoàn toàn xua tan mọi che chướng và viên
mãn mọi phẩm tính thiện. Một bồ tát viên mãn, sau khi đạt chân lý và toàn giác
được biết là một vị Phật. Thông thường, Phật dùng để chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, vị Phật của thời hiện nay, đã sống ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước
công nguyên. Đã có vô số chư Phật trong những kiếp quá khứ đã hiển lộ con đường
đến giác ngộ. Trong thời Hiền Kiếp này sẽ có một ngàn vị Phật, trong đó Phật
Thích Ca Mâu Ni là vị thứ tư.
CẢM XÚC
PHIỀN NÃO (nyon mongs pa): Năm độc chất của tham dục, sân hận, ảo tưởng, kiêu
mạn, và thù ghét làm mệt mỏi, rối loạn và hành hạ tâm thức hành giả.
CẢNH GIỚI
CAO (mtho ris): Ba cõi cao: người, bán thần (a tu la), và trời.
CHÂN NHƯ
(de bzhin nyid; Phạn, tattva): Đồng nghĩa với tánh Không hay bản chất của sự
vật, pháp tánh, cũng có thể dùng để mô tả sự hợp nhất của duyên sanh và tánh
Không.
CHẤP NGÃ
(bdag ‘dzin): Thói quen bám víu vào ý niệm sai lầm rằng cái “tôi” là một
phụ thuộc, nổi bật, và một thực thể thường hằng. Chấp ngã là nguồn gốc của cảm xúc
phiền não, và là nền tảng cho mọi hành động nghiệp bất thiện dẫn đến vòng luân
hồi vô tận.
CHẤT LIỆU
CỦA THÀNH TỰU (dngos grub kyi rdzas): Những vật phẩm thiêng liêng, như cam lồ,
torma (một loại bánh bằng bột), hưởng một phần vào sáng ngày cuối của thực hành
nhập thất.
CHE CHƯỚNG
(sgrib pa): Bức màn che phủ sự nhận biết trực tiếp của bản tâm hành giả. Trong
giáo lý đạo Phật phổ thông có vài loại được nhắc đến: sự che chướng của nghiệp ngăn
cản hành giả đi vào con đường giác ngộ, sự che chướng của cảm xúc phiền não
ngăn cản sự tiến bộ trên con đường, sự che chướng của tập khí ngăn cản sự biến
mất của nhầm lẫn, và che chướng cuối cùng của tri kiến nhị nguyên ngăn cản đạt
được toàn giác.
CHIM GARUDA
(bya khyung – kim xí điểu): Một con chim của thần thoại có thể bay từ cuối vũ
trụ này đến vũ trụ khác chỉ trong một lần vỗ cánh. Truyền thuyến nói rằng chim
mới nở đã hoàn toàn phát triển và sẵn sàng bay lên bầu trời. Trong giáo lý
Dzogchen, kim xí điểu biểu tượng sự thành tựu bẩm sinh của một thiền giả sự
hiện diện những phẩm tính tự nhiên của Phật tánh được biểu lộ hoàn toàn vào lúc
chết; sự đạt được Phật quả xảy ra cùng lúc rời bỏ thân xác.
CHIMPHU (chims
phu): Hang động ẩn tu trên Samye ở giữa Tây Tạng. Đức Guru Rinpoche đã nhập
thất vài năm tại đây.
CHÍN THỪA
TIỆM TIẾN (theg pa rim pa dgu): Thanh văn, Bích chi Phật, Bồ tát, kria, upa,
yoga, maha, anu, ati.
CHƯ PHẬT
HIỀN MINH VÀ PHẪN NỘ (zhi khro): Bốn mươi hai vị Phật hiền minh: Samantabhadra
và Samantabhadri [Phổ Hiền và phối ngẫu), năm vị Phật nam, nữ, tám Bồ tát nam
và nữ, sáu vị muni, và bốn vị giữ cổng nam và nữ; năm mươi tám vị Phật phẫn nộ:
năm vị Heruka nam và nữ, tám vị yogini, tám thiên nữ tramen, bốn người nữ giữ
cổng, hai mươi tám vị shvaris. Xem chi tiết trong quyển Tử Thư Tây Tạng: Giải
Thoát Trong Bardo Nhờ Sự Nghe, bản dịch của Francesca Fremantle và Chogyam Trungpa
(nhà xuất bản Shambala 1987).
CHỦ CỦA GIA
ĐÌNH (rigs kyi bdag po): Vị Phật chính của gia đình mà vị Bổn Tôn Yidam riêng
của hành giả thuộc về. Ví dụ, vị Phật trên đỉnh đầu Đức Avalokiteshvara (Quán
Tự Tại) là A Di Đà.
CHỦ NGHĨA HƯ
VÔ (chad lta): Nguyên nghĩa là “quan điểm gián đoạn”. Quan điểm cực đoan không
có gì cả: không tái sanh hay nghiệp quả, và không có sự hiện hữu của một tâm
sau khi chết.
CHỦ NGHĨA
VĨNH CỬU (thường kiến – rtag lta): Tin rằng mọi sự là thường hằng không do ai
tạo ra; đặc biệt, sự nhận dạng hay ý thức của người đó có tính chất cụ thể đó là
sự độc lập, vĩnh viễn và duy nhất.
Chú tâm một
điểm trong tâm và đem sự hiện diện sống động của nó vào hoàn thiện.
CHÚNG SANH
(sems can): Bất kỳ sinh linh nào sống trong sáu cõi chưa được giải thoát.
CHUYỂN LUÂN
VƯƠNG (Universal monarch, ‘khor los sgyur ba’i rgyal po; Phạn, chakravartine):
Bậc cai quản bốn châu lục của nhân loại. Ngài mang ba mươi hai hảo tướng của
một Bậc Vĩ đại, và với những cộng sự trợ giúp Ngài cai quản bằng bảy sở hữu quý
báu: Bánh xe báu, ngọc báu, hoàng hậu báu, bộ trưởng báu, voi báu, ngựa báu, và
tướng lĩnh báu.
CHUYỂN PHÁP
LUÂN (chos kyi ‘khor lo skor ba): thành ngữ biểu tượng cho việc ban Giáo Pháp.
CÔNG CHÚA
TSOGYAL (jo mo mtsho rgyal): Cũng được biết là Khandro (Dakini) Yeshe Tsogyal,
bà là đệ tử thân cận của Đức Guru Rinpoche và là người soạn thảo phần chính yếu
giáo lý của Ngài.
CÔNG CHÚA
XỨ KHARCHEN (mkhar chen bza’): Yeshe Tsoygal.
CÔNG ĐỨC
(bsod nams): Thiện nghiệp kết quả từ hành vi đạo đức.
CỰC LẠC,
TRONG SÁNG, VÀ VÔ NIỆM (bde gsal mi rtog pa): Ba kinh nghiệm tạm thời của thiền
định. Bám vào chúng là gieo trồng chủng tử tái sanh trong ba cõi. Không bám vào
chúng là sự trang hoàng của ba thân.
CON ĐƯỜNG
(lam): Năm con đường hay giai đoạn đến giác ngộ, con đường tích lũy, kết hợp,
thấy, trưởng dưỡng và không còn học. Chúng có thể được giải thích tùy theo mỗi
thừa.
CON ĐƯỜNG
CỦA CÁI THẤY (mthong lam): Cái thứ ba của năm con đường, đó là sự đạt được địa
thứ nhất (sơ địa), giải thoát khỏi luân hồi và nhận ra được chân lý của thực
tại.
CON ĐƯỜNG
HOÀN THIỆN (thar phyin pa’i lam): Cái thứ năm của năm con đường, và là trạng
thái hoàn tất, giác ngộ viên mãn.
CON ĐƯỜNG
TIẾP HỢP (sbyor lam): Cái thứ hai của năm con đường, trong đó hành giả tiến
triển thân cận và tiếp hợp với nhận thức chân lý của thực tại.
CON ĐƯỜNG
KHÔNG BỊ GIÁN ĐOẠN (bar chad med lam): “Con đường” hay “nền tảng” là phương
thuốc xóa trực tiếp nhiễm ô cần được từ bỏ trên con đường hiện tại của hành giả
và nhờ đó đảm bảo rằng không có sự gián đoạn nào có thể gây trở ngại cho việc
hiển lộ trí tuệ vốn là kết quả từ con đường đặc biệt của hành giả ấy.
CON ĐƯỜNG
TÍCH LŨY (tshogs lam): Cái đầu tiên của năm con đường, làm nền tảng cho cuộc
hành trình đến giải thoát và bao gồm sự tích lũy công đức to lớn hướng đến
thành tựu này. Trên con đường này, hành giả đạt trí tuệ, khái niệm hiểu biết về
vô ngã nhờ học hỏi và quán chiếu. Nhờ phương tiện trưởng dưỡng bốn áp dụng của
tỉnh thức, bốn chánh tinh tấn, và bốn chi của hành động kỳ diệu, hành giả thành
công trong việc loại bỏ những nhiễm ô thô nặng gây ra đau khổ luân hồi và đạt
được những phẩm tính thiện của siêu tri kiến và “đại định của dòng Pháp” dẫn
đến con đường tích lũy.
CON ĐƯỜNG
TRƯỞNG DƯỠNG (sgom lam): Cái thứ tư của năm con đường, trong đó hành giả trau
dồi và tu hành những thực hành cao hơn của một Bồ tát, đặc biệt là tám phương
diện của con đường các bậc tôn quý.
CON ĐƯỜNG
VÀ BHUMI (sa lam): năm con đường và thập địa bồ tát.
CÕI THẤP
(ngan song): Ba cõi: địa ngục, ngạ quỷ, và súc sinh.
CÕI THIỀN
CỦA CHƯ THIÊN (lha’i bsam gtan gyi ris): Một trạng thái thiền định của tâm tập
trung với sự quy chiếu không dẫn đến giải thoát mà tái sanh là một vị trời
trong cõi sắc giới, phát sinh qua những tập trung tâm thức như thế.
DẤU ẤN CHÍNH
VÀ PHỤ (mtshan dpe): Ba mươi hai hảo tướng chính và tám mươi vẻ đẹp phụ là sự
đặc tính hóa tối ưu của thân tướng viên mãn một hóa thân hay báo thân Phật. Một
đấng cai quản vũ trụ (chuyển luân thánh vương) cũng được nói là có những tướng
tương tự.
DAKA: Dũng
thức nam (giống như dakini)
DAKINI (mkha’
‘gro ma): Không hành nữ, một trong ba gốc, những bậc tâm linh đáp ứng những
hoạt động giác ngộ, những Bổn Tôn tantric nữ, bậc bảo vệ và phục vụ Giáo Pháp
Đức Phật và hành giả.
DHARMA (chos)
Giáo Pháp, giáo lý của Đức Phật; đôi khi dharma có nghĩa hiện tượng hay đối
tượng tâm linh, cũng như thuộc tính hay phẩm tính.
DHARMAPALA (chos
skyong): Những phi nhân nguyện bảo vệ và canh giữ giáo lý của Đức Phật và những
người đi theo Phật. Những Dharmapala có thể thuộc “thế gian” như những sinh
linh đạo đức của luân hồi, hoặc “những Hộ Pháp trí tuệ”, là những hóa thân lưu
xuất của chư Phật và Bồ tát.
DHARMATA (chos
nyid): Pháp tánh, bản tánh bẩm sinh của tâm và hiện tượng.
DÒNG TRUYỀN
NGHE (nyan brgyud): Dòng truyền giáo lý miệng từ vị Thầy đến đệ tử.
DZOGCHEN (rdzogs
pa chen po, rdzogchens; Phạn, mahasandhi, maha ati, Đại Viên Mãn):, là giáo lý
vượt lên những Thừa nguyên nhân, cao nhất trong những tanra nội của Phái
Nyingma (Mũ đỏ), được dạy đầu tiên trong thế giới loài người bởi bậc vidyadhara
vĩ đại Garab Dorje. Dzogchen là pháp tối thượng của tất cả tám vạn bốn ngàn
pháp môn uyên thâm. Nó là sự nhận biết của Đức Phật Phổ Hiền, chính xác như nó
là. Những khía cạnh của trí tuệ và phương tiện của Dzogchen được biết là
trekcho và thogal.
GIAI ĐOẠN
THÀNH TỰU (rdzogs rim): Giai đoạn thành tựu với những biểu hiện có nghĩa những
thực hành yoga như nội hỏa (tummo). Giai đoạn thành tựu không có biểu hiện là
sự thực hành của Dzogchen.
GIAI ĐOẠN
PHÁT TRIỂN (bskyed rim; Phạn, utpattikrama): Một trong hai phương diện của thực
hành Kim Cương Thừa đó là tạo ra một hình ảnh tâm linh thanh tịnh để tịnh hóa
tập khí. Tinh hoa của giai đoạn phát triển là “nhận thức thanh tịnh” hay “quan
điểm sùng kính”, có nghĩa nhận biết sắc tướng, âm thanh và niệm tưởng như Bổn
Tôn, mantra và trí tuệ.
GIÁC NGỘ
(byang chub, Phạn, bodhi): Thông thường như trạng thái Phật quả được đặc tính
hóa bằng sự viên mãn tích lũy công đức và trí tuệ, và nhờ tẩy trừ hai che
chướng, nhưng đôi lúc cũng chỉ cho sự giác ngộ của những phạm vi thấp như một A
la hán hay Bích chi Phật.
GIÁC NGỘ
RỐT RÁO (byang chub mchog, byang chub snying po): Như Phật quả.
GIÁC NGỘ VÔ
THƯỢNG (bla na med pa’i byang chub): Phật quả hoàn toàn viên mãn.
GIẢI THOÁT
(thar pa): Thoát khỏi luân hồi.
GIẢI THOÁT
CÁ NHÂN (so sor thar pa; Phạn, pratimoksha – biệt giải thoát): Bảy bộ giới luật
cho người thường, thọ nhận theo luật tạng của Hinayana. Giới nguyện cho cận sự
nam và nữ, giới nguyện cho sa di và sa di ni, thêm vào những giới nguyện thử
thách cho sa di ni như một bước tiến đến việc thọ cụ túc giới; giới luật của
một tỳ khưu ni (bhikshuni): cũng như của tỳ khưu. Có tám loại khi nhận
giới nguyện ăn kiêng chỉ ăn ngày một bữa. Giới luật của giải thoát cá nhân là
chuẩn mức đạo lý căn bản của đạo đức đó là nền tảng chung cho một thực hành của
đạo Phật.
GIÁO LÝ ĐẠI
THỪA (theg pa chen po’i chos): Giáo lý của Đức Phật được kết tập trong lần
chuyển pháp luân lần thứ hai và ba và những luận giảng về chúng của các đại học
giả Ấn Độ và Tây Tạng.
GIỌNG NÓI
PHẠM THIÊN (tshang pa’i dbyang): Giọng nói được phú cho những phẩm tính hoàn
thiện của Phạm Thiên, vị vua của chư thiên.
GỐC RỄ ĐẠO
ĐỨC (dge ba’i rtsa ba): Hành động thiện.
GURU (bla
ma): Vị thầy tâm linh.
GURU, YIDAM
VÀ DAKINI (bla ma yi dam mkha’ ‘gro): Ba gốc của thực hành Kim Cương Thừa: guru
là gốc của ân phước, yidam là gốc của thành tựu, dakini là gốc của hoạt động
HAI BẬC VÔ
NGÃ (bdag med gnyis): Không có tự tính trong bản ngã cá nhân cũng như trong mọi
hiện tượng.
HAI TÍCH
LUỸ (tshog gnyis): Sự tích luỹ công đức bằng khái niệm và trí tuệ vượt trên
khái niệm.
HÀNG TỈ TỈ
VŨ TRỤ (stong gsum ‘jig rten gyi khams): Phạm vi của một hóa thân siêu phàm
dung thông trong một tỉ Núi Tu Di, mà một Núi Tu Di được bao quanh bởi bốn châu
lục và những rặng núi.
HÀNH GIẢ
TANTRIC (sngags pa): Một người đã nhận quán đảnh, tiếp tục thực hành nghi quỹ
và giữ cam kết.
Hãy giữ
tinh túy trí tuệ bất biến này, xuất hiện trong hư không,
HỆ THỐNG
KẾT QUẢ CỦA KIM CƯƠNG THỪA (‘bras bu gsang sngags): Hệ thống Kim Cương Thừa
nhận kết quả là con đường nhờ xem Phật tánh là hiện diện vốn sẵn và con đường
là khai mở trạng thái nền tảng của hành giả. Điều này khác với “Thừa triết học
nguyên nhân” của Đại Thừa và Tiểu Thừa xem con đường là sự dẫn đến và tạo ra
trạng thái Phật quả. Một cách cơ bản, hai tiếp cận này không mâu thuẫn. Xem Kim
Cương Thừa.
HIỆN TƯỢNG
(chos, snang ba): Bất cứ những gì có thể kinh nghiệm, biết hay tư duy.
HINAYANA (theg
pa dman pa): Thừa chú tâm thiền quán về tứ điệu đế và thập nhị nhân duyên vì
mục đích giải thoát cá nhân.
Hư không
rỗng rang vĩ đại của chân như thanh tịnh như bầu trời.
HỘ PHÁP
(chos skyong): Vị bảo vệ giáo lý Đức Phật.
HỌC PHÁI
TRIẾT HỌC (grub mtha’): Bốn học phái hay tư duy Phật giáo là: Vaibhashika
(Thắng Luận Tông), Sautrantika (Kinh Lượng Bộ), Cittamatra (Duy Thức Luận), và
Madhyamaka (Trung Quán Luận). Hai cái trước thuộc Tiểu Thừa, và hai cái sau
thuộc Đại Thừa.
GIÁO HUẤN
KHẨU TRUYỀN TOÀN GIÁC (thams cad mkhyen pa): Đối nghịch với truyền thống triết
học kinh viện, những giáo huấn khẩu truyền của dòng truyền thực hành là ngắn
gọn và súc tích nên chúng luôn có thể giữ được trong tâm; đó là những lời giáo
huấn rất thực tế và vì thế chúng là những phương tiện hiệu quả giải quyết trực
tiếp với việc thực hành tịnh hoá những che chướng của hành giả và tập hợp hai
tích lũy.
HỎA (drod):
Cái đầu tiên trong bốn khía cạnh biết chắc trên con đường kết hợp. Thân cận với
trí tuệ như lửa của con đường thấy biết nhờ sở hữu sự tập trung đồng quy với
trí tuệ biện biệt.
INDRA (brgya
byin): Thiên chủ của cõi dục giới. Ngài ở trên đỉnh Núi Tu Di trong Cung Điện
Toàn Thắng và cũng được biết là Shakra, bậc cai quản chư thiên.
JAMPUVIPA (dzam
bu gling): Diêm phù đề, châu lục ở hướng nam Núi Tu Di, trung tâm của thế giới
trong vũ trụ học Phật giáo.
KAYA (sku):
Thân, trong ý nghĩa của một thân hay sự lưu xuất của vô số phẩm tính.
KẾT QUẢ CỦA
HAI THÂN (sku gnis kyi ‘bras bu): Trạng thái Phật quảhoàn tất và viên mãn bao
gốm pháp thân và sắc thân, trong đó sắc thân ám chỉ cả hai báo thân và
hóa thân.
Khiến tịnh
hóa cái chết, trung ấm và tái sanh;
KIẾN, THIỀN,
HÀNH (lta ba sgom pa spyod pa): Định hướng triết học, hành động phát triển thói
quen đó, thường ngồi thực hành và thực hành đầy đủ sự thấu suốt đó trong hoạt động
đời sống hàng ngày. Mỗi thừa của chín thừa có định nghĩa riêng về kiế, thiền,
hành.
KILAYA (phur
ba): Dao găm thiêng liêng sử dụng trong nghi lễ tantric.
KIM CƯƠNG
SƯ (rdo rje slob dpon): Một vị Thầy tantric tinh thông ý nghĩa và nghi lễ của
Kim Cương Thừa. Vị Thầy từ đó hành giả nhận được giáo lý tantric. Cũng có thể
chỉ vị Thầy chủ tọa một nghi lễ tantric.
KINH NGHIỆM
VÀ NHẬN BIẾT (nyams rtog): Một diễn tả dùng cho sự thấu suốt và tiến bộ trên
con đường. Kinh nghiệm ám chỉ kinh nghiệm tạm thời của thiền định, và nhận biết
để bất biến sự hiểu biết về bản chất của sự vật.
KLESHAS (nyon
mongs pa): Phiền não.
KỶ LUẬT
(tshul khrims): Hãy xem nguyện và giới luật.
Là chủng tử
nhân quả khiến sản sinh mọi sự.
Là hạt
giống cho thân kim cương và hóa thân,
Là hạt
giống của ngữ kim cương và báo thân,
Là hạt
giống của tâm kim cương và pháp thân,
Là hạt
giống của trí tuệ kim cương và svabhavikakaya (thân tinh túy).
Làm trưởng
thành chính con, tụ hội những người đi theo nhờ sự rộng lượng.
Làm vui
thích họ với lời lẽ dịu dàng, và an ủi họ bằng việc thích hợp.
LÃNH VỰC
NHẬN THỨC (skye mched): Ở đây ám chỉ trạng thái của tâm trong bốn cõi vô sắc.
Lưu xuất sự
huyền diệu của lòng bi, một tánh giác sáng soi như mây tỏa khắp.
MAHADEVA (lha
chen): Một dạng của Thần Shiva.
MAHAMUDRA (phyag
rgya chen po): Trong phạm vi sách này, hoặc mahamudra ám chỉ sự thành tựu tối
thượng của mahamudra (đại ấn), đồng nghĩa với toàn giác, hoặc thân mahamudra
của Bổn Tôn Yidam, đã nhắc đến ở trên.
MAHANIRVANA
(mya ngan las ‘das pa chen po): Đại niết bàn, trạng thái an trụ của Phật quả
cuối cùng không trong luân hồi và cũng không giống như trạng thái niết bàn thụ
động của một A la hán.
MAHASANDHI (Phạn,
rdzogs pa chen po): Đại Viên Mãn.
MAHAYANA (theg
pa chen po): Thừa của Bồ Tát nỗ lực đạt toàn giác vì mục đích giải thoát tất cả
chúng sanh. Đại Thừa có hai phương diện: kinh (sutra), nhấn mạnh đến giáo lý
sâu rộng và mantra, nhấn mạnh đến sự uyên thâm. Sự giải thích chi tiết về
sutrayana (hiển giáo), hãy xem quyển Abhisamayalamkara của Maitreya hoặc Viên
Ngọc Trang Hoàng Của Sự Giải Thoát của Ngài sGam.po.pa, do Hernert V. Guenther
phiên dịch (Nhà xuất bản Shambala, Boston, 1989).
MAHESHVARA (dbang
phyug chen po): Một trong những vị Thần chính của Ấn Độ giáo (Hindu).
MANDALA (dkyil
‘khor): Nghĩa đen là “trung tâm và chung quanh”, thông thường, một Bổn Tôn cùng
với những hoàn cảnh chung quanh. Mandala là một biểu tượng đại diện cõi của một
Bổn Tôn tantric, toàn thể vũ trụ được quán tưởng như một cúng dường, và cũng là
sự sắp xếp của sự cúng dường trong nghi lễ mật tông.
MANTRA (sngags):
[1] Đồng nghĩa với Kim Cương Thừa. [2] Một kết hợp đặc biệt của âm thanh biểu
tượng và liên thông với bản thể của một Bổn Tôn: ví dụ OM MANI PADME
HUNG. Có ba loại chủ yếu: guhya mantra, vidya mantra, và dharani mantra.
MANTRA BÍ
MẬT (gsang sngags; Phạn, Guhyamantra): Đồng nghĩa với Kim Cương Thừa hay giáo
lý tantric. Guhya có nghĩa bí mật, gồm cả hai sự che dấu và tự-bí mật. Mantra
trong phạm vi này có nghĩa xuất chúng, lỗi lạc hay lời nguyện tán thán quý giá.
MANTRA SHUNYATA
(shu nya ta’i sngags): Mantra của Tánh Không: OM SVABHAVA SHUDDHO SARVA DHARMA
SVABHAVA SHUDDHO HAM.
MANTRA VÀ
TRIẾT HỌC: Mantra có nghĩa Kim Cương Thừa, trong khi thừa triết học gồm Tiểu
thừa và Đại thừa.
MANTRADHARA
(sngags ‘chang): Người thành thạo về nghi lễ tantric.
MARA (bdud):
Ma vương hay ảnh hưởng ma quỷ gây che chướng cho thực hành và giác ngộ.
Thần thoại học nói Mara ngụ ở cõi cao nhất của dục giới, Mara là bậc thầy về ảo
giác đã cố gắng ngăn cản Đức Phật đạt giác ngộ tại Bồ Đề Đạo Tràng. Với hành
giả của Giáo Pháp, Mara biểu tượng hóa sự chấp ngã và bận tâm đến tám mối quan
tâm thế gian.
MARA CỦA
HÀNH ĐỘNG CÔNG ĐỨC (bsod nams kyi las kyi bdud): Khuynh hướng thu hút vào mục
tiêu thực hành tâm linh hướng đến việc kết thúc tính ích kỷ. Những hành vi đạo
đức không theo sự từ bỏ hay bồ đề tâm.
MONKHA SENGA
DZONG: Một hang động tại hướng đông Bumthang ở Bhutan được Đức Liên Hoa Sanh sử
dụng và sau này là Yeshe Tsogyal như một nơi thiêng liêng để thực hành nghi
quỹ.
MƯỜI BẤT
THIỆN (mi dge ba bcu): Hành động xấu của thân là sát sinh, trộm cướp, tà dâm.
Hành động xấu của khẩu là nói dối, nói chia rẽ, nói lời thô tục, và nói chuyện
phiếm. Hành động xấu của ý là tham, sân, và si (tà kiến).
MƯỜI BHUMI (sa
bcu): Thập địa, mười cấp độ phát triển của một bồ tát thành một vị Phật toàn
giác. Ở mỗi cấp bậc, nhiễm ô vi tế sẽ được tịnh hóa nhiều hơn và những phẩm tính
giác ngộ ở mức độ cao hơn sẽ xuất hiện: Hoan Hỉ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang
Địa, Diệm Huệ Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện
Tuệ Địa, Pháp Vân Địa.
MƯỜI HAI
GIÁC QUAN NỀN TẢNG (skye mched bcu gnyis): năm giác quan và giác thức, và năm
đối tượng của giác quan và đối tượng của giác thức.
MƯỜI PARAMITA
(phar phyin bcu): Sáu ba la mật thêm vào phương tiện, sức mạnh, ước nguyện và
trí tuệ.
MƯỜI TÁM
CẤU TẠO (khams bco brgyad): Sáu tích tụ của thức, sáu của căn, sáu
của trần (đối tượng của sáu căn).
Mudra đơn
giản trong cách của một chủng tự vi tế.
ĐẤNG CHIẾN
THẮNG (rgyal ba, jina): Tương tự như Đức Phật.
ĐẤNG GIÁC
NGỘ (sangs rgyas): Như chư Phật.
ĐẤNG TÔN
QUÝ (dkon mchog): Tương tự như Tam Bảo
ĐẤNG TÔN
QUÝ (skye mchog): Vị Thầy vĩ đại, Bồ tát, hay A la hán, bậc đã đạt được con
đường của cái thấy, cái thứ ba trong năm con đường.
NĂM CẢM XÚC
PHIỀN NÃO (nyon mongs pa lnga): Tham, sân, si (ảo tưởng), kiêu mạn, thù hận.
NĂM CON
ĐƯỜNG (lam lnga): Con đường tích lũy, kết hợp, kiến, trau dồi tu dưỡng, và con
đường không còn học nữa. Năm con đường bao phủ toàn bộ tiến trình từ lúc bắt
đầu thực hành Pháp cho đến khi hoàn toàn giác ngộ.
NĂM GIA
ĐÌNH (rigs lnga): Ngũ bộ, năm gia đình Phật: Như Lai bộ, Kim Cương bộ, Liên Hoa
bộ, Bảo Sanh bộ, và Tác Nghiệp bộ. Đại diện cho những phẩm tính bẩm sinh của
tinh hoa giác ngộ của chúng ta.
NĂM HÀNH
ĐỘNG CÓ KẾT QUẢ LẬP TỨC (mtshams med pa lnga): Năm nghiệp, tội lỗi, hay hành
động xấu có quả lập tức là giết cha, mẹ mình, giết một vị a la hán, gây chia rẽ
trong tăng đoàn, và làm chảy máu một vị Phật với ý định xấu. Năm hành động xấu
gần như hay sắp sửa (de dang nye ba lnga) cưỡng hiếp mẹ mình, một a la hán,
giết một bồ tát ở địa kiên cố (nivata bhumi), giết một bậc tôn quý trên con
đường rèn luyện (tức là chưa phải một a la hán), trộm cắp phương kế sinh nhai
của tăng đoàn, và hủy diệt một bảo tháp.
NĂM LOẠI
CÚNG DƯỜNG (nyer spyod lnga): Những vật chất ưa thích của năm giác quan.
NĂM SIÊU
TRÍ TUỆ (mngon shes lnga): Khả năng thực hiện những điều kỳ diệu, thiên nhãn
thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông và nhớ lại những kiếp sống trước.
NĂM SUY
HOẠI (snigs ma lnga): [1] Thoái hóa quan điểm do sự xuống cấp trong việc từ bỏ
đức hạnh có nghĩa là tà kiến. [2] Thoái hóa cảm xúc phiền não do sự xuống cấp
trong đạo đức của chủ thể có nghĩa bản chất thô lỗ của tâm, trong đó sự thô lỗ
ám chỉ phiền não (kleshas) mạnh mẽ và kéo dài. [3] Sự Thoái hóa thời gian do sự
suy giảm hưởng thụ có nghĩa sự suy giảm của Kiếp Xung Đột. [4] Sự Thoái hóa của
tuổi thọ do suy giảm sinh lực duy trì có nghĩa sự giảm thọ cho đến lúc còn mười
năm. [5] Thoái hóa của chúng sanh có nghĩa là sự suy hoại của thân do hình dạng
thấp kém và kích thước nhỏ, sự suy giảm công đức do ít năng lực và sự đặc biệt,
sự suy giảm của tâm do trí tuệ kém sắc bén, khả năng ghi nhớ giảm sút, và ít
chuyên cần đi. Do đó, sự thoái hóa của chúng sanh mà ba loại suy giảm cùng xảy
ra có nghĩa tâm của họ khó thuần phục.
NĂM THÂN
(sku lnga): Trong sách này năm thân hay những phương diện của Phật quả là Pháp
thân, Báo thân, Hóa thân, Cốt tủy thân và Đại Cực Lạc thân. Đã được định nghĩa
trong chương “Sự rèn luyện tâm của Kim Cương Thừa”.
NĂM TRÍ TUỆ
(ye shes lnga): Trí tuệ pháp giới, trí tuệ như gương, trí tuệ biện biệt, trí
tuệ bình đẳng, và trí tuệ viên mãn.
ĐỈNH (rtse
mo): Một trong bốn khía cạnh xác tín trên con đường kết hợp.
NAGA (klu):
Rồng, một sinh linh giống như rắn, sống trường thọ, hùng mạnh, cư trú ở dưới
nước và thường canh giữ những kho tàng vĩ đại. Chúng thuộc về nửa cõi người và
nửa cõi thần. Thường sống trong thân rắn, nhưng nhiều lúc có thể chuyển thành
thân người và thường được mô tả có thân người từ thắt lưng trở lên với một đuôi
rắn ở dưới. Chúng có nhiệm vụ kiểm soát thời tiết, nhất là mưa.
ĐẠI ĐỊNH
HUYỀN DIỆU (sgyu ma lta bu’i ting nge ‘dzin): Định thứ hai của ba tam ma đề
(samadhi – đại định), bản chất là lòng bi và quang minh, tự nhiên như ánh sáng
mặt trời chiếu vào không gian.
ĐẠI VÀ TIỂU
THỪA (theg pache chung): Mahayana và Hinayana. Mahayana (Đại Thừa) bao gồm
những thừa tantric. Hinayana bao gồm giáo lý cho thanh văn và duyên giác. Nghĩa
rộng của “đại” hay “tiểu” ám chỉ phạm vi ước nguyện, phương pháp áp dụng, và sự
sâu sắc của thấu suốt.
ĐẠI VIÊN
MÃN (rdzogs pa chen po): Cái thứ ba của tantra nội của phái Nyingma.
NAMO (phyag
‘tshal lo): Sự kính lễ hay lời chào.
NGẠ QUỶ
(yid dvags): Một trong sáu bộ chúng sanh. Những chúng sanh này bị hành hạ bởi
nghiệp quả của nhận thức bất tịnh gây đau khổ mãnh liệt vì thèm muốn, đói và
khát.
NGHIỆP TƯƠNG
TỤC CỦA THỰC HÀNH TRƯỚC (sngon sbyang kyi las phro): Sự liên tục của thực hành
Pháp từ kiếp sống trước.
NGƯỜI DỊ
GIÁO (mu stegs pa): Người chấp thủ tà kiến, hành động bất thiện là không quan
trọng, không tin kiếp trước, kiếp sau, không có kết quả từ việc thực hành con
đường, v.v..
NGŨ UẨN –
NĂM KẾT TẬP (phung po lnga): Năm phương diện bao gồm sự cấu tạo thân thể,
tinh thần của một chúng sanh: thân vật chất, các căn, quan niệm, sự hình thành
và ý thức.
NGUYỆN HỮU
TÌNH (dam tshig sems dpa’, dam tshig pa): Bổn Tôn được quán tưởng bởi hành giả.
NHẬN BIẾT
CAO (mngon par shes pa): Xem siêu trí tuệ.
NHẬN THỨC
BÌNH THƯỜNG (tha mal gyi snang ba): Cách thức một người bình thường kinh
nghiệm. Xem Bình thường.
NHẬN THỨC
THANH TỊNH (dag snang): Xem môi trường như cõi Phật, mình và người khác như Bổn
Tôn, âm thanh như mantra, và niệm tưởng như trí tuệ.
NHƯ THỊ (de
bzhin nyid): Bản chất của tâm và hiện tượng.
Nhờ khuyên
bảo họ hành động đầy ý nghĩa, xây dựng họ một cách tạm thời và tối hậu.
NHỮNG TRƯỜNG
PHÁI TRIẾT HỌC THẤP (grub mtha’ dman pa): Hai học phái chính của Hinayana,
Vaibhashika và Sautrantica. So sánh với Mahayana chúng được gọi là thấp vì
không thiết lập tánh Không của mọi hiện tượng.
NIẾT BÀN
(mya ngan las das pa): Sự hủy diệt nguyên nhân tạo ra luân hồi. Niết bàn thấp
ám chỉ việc đạt giải thoát khỏi luân hồi của một hành giả Tiểu Thừa. Khi liên
quan đến một vị Phật, niết bàn là một trạng thái giác ngộ vĩ đại phi an trụ
không rơi vào trạng thái cực đoan của luân hồi cũng như không rơi vào trạng
thái định thụ động của một A la hán.
NIRMANAKAYA
(sprul sku): Hóa thân, thân thứ ba của ba thân, khía cạnh giác ngộ được điều
phục và chúng sanh bình thường có thể nhận thức.
ĐỊA NGỤC VÔ
GIÁN (mnar med kyi dmyal ba; Phạn. Avichi): Địa ngục thấp nhất trong tám hỏa
ngục.
ĐỘC GIÁC
PHẬT (rang rgyal, rang sangs rgyas): Một vị giác ngộ đơn độc, một vị A la hán
đạt niết bàn chủ yếu nhờ thiền định về mối liên kết của thập nhị nhân duyên
theo thứ tự nghịch, không cần đến giáo lý trong đời đó, nhưng thiếu sự giác ngộ
viên mãn của một vị Phật và không thể làm lợi ích cho vô số chúng sanh như
một Đức Phật.
NÚI TU DI
(ri rab lhun po): Ngọn núi huyền thoại khổng lồ ở giữa hệ thống thế giới, nơi
hai bộ chư thiên thấp nhất của cõi dục giới sinh sống. Được bao quanh bởi một
chuỗi núi, hồ, châu lục và đại dương nhỏ hơn và được nói là cao hơn mực nước
biển 84.000 lý (một lý bằng 4,8km)
ORGYEN (orgyen: Phạn, Uddiyana): Còn được gọi là Uddiyano hoặc Odiyan, đây là nhà của
các dakini, nơi sinh của Đức Liên Hoa Sanh, được biết khu trú tại thung lũng
Swat ở hướng tây bắc Ấn độ, giáp biên giới với Afghanistan ngày nay. Thời tiền sử,
đức Hayagriva và Vajra Yogini hàng phục đại quỷ chấp ngã. Khi thân quỷ rơi
xuống đất, trái tim rớt vào xứ Uddiyana, tạo thành sự trùng hợp cát tường ngẫu
nhiên cho sự truyền bá giáo lý Kim Cương Thừa.
PADMAKARA (pad
ma ‘byung gnas): “Liên Hoa Sanh” giống như Guru Rinpoche. Danh hiệu Padmakara
và Padmasambhava được sử dụng luân phiên trong văn học Tây Tạng, đôi lúc trong
những bài kệ Tây Tạng, đôi khi trong Phạn ngữ.
PARAMITA (pha
rol tu phyin pa): “Tới bờ bên kia”. Khái niệm siêu vượt chủ thể, đối tượng và hành
vi. Xem sáu, mười ba la mật.
Phần chính
bắt đầu với samadhi bao la và uyên thâm
PHẬT QUẢ
(sangs rgyas): Sự toàn giác viên mãn của bậc không trụ trong luân hồi lẫn niết
bàn.
PHẬT QUẢ
TOÀN GIÁC (rnam mkhyen sangs rgyas kyi sgo’phang): Trạng thái của sự giác ngộ
hoàn toàn có trí tuệ viên mãn thấy biết sự vật như nó là và với trí tuệ nhận
biết mọi hiện hữu đó.
PHẬT TÁNH
(bde gshegs snying po): Như lai tạng, tinh hoa của chư Như Lai; khả năng giác
ngộ hay tánh giác ngộ vốn sẵn hiện diện trong mỗi chúng sanh. Để biết thêm chi
tiết hãy xem quyển Phật Tánh của Ngài Thrangu Rinpoche.
PHẬT, PHÁP,
VÀ TĂNG ĐOÀN (sangs ryas chos gde ‘dun): Tam Bảo. Những đối tượng quy y thật
sự. Để biết thêm chi tiết hãy xem quyển Phật Tánh của Ngài Thrangu Rinpoche
(Nhà xuất bản Rangjung Yeshe, 1988).
PHÁP GIỚI
(chos kyi dbying): Cõi hiện tượng, chân như trong đó tánh Không và phụ thuộc
nguyên thủy là bất khả phân. Bản tâm và hiện tượng nằm vượt lên sinh, trụ, và
diệt.
PHÁP THÂN
(chos sku): một trong ba thân, nó là tâm thức hay khía cạnh không biểu lộ. Có
thể hiểu một cách khác tùy theo bối cảnh của nền tảng, con đường, và kết quả.
Trong sách này, chủ yếu liên quan đến nhậnthức, hư không, và khía cạnh đơn giản
của tâm hành giả vào thời điểm của con đường. Hãy xem ba thân của kết quả.
PHÁT TRIỂN
VÀ THÀNH TỰU (bskyed rdzogs): Phương tiện và trí tuệ của thực hành Kim Cương
Thừa. Giai đoạn phát triển của tạo ra bởi tâm. Giai đoạn thành tựu có nghĩa an
trú trong trạng thái phi tạo tác của tâm.
PHI KHÁI
NIỆM HÓA CỦA BA LÃNH VỰC (‘khor gsumdmigs med): Không chấp vào những khái niệm
về đối tượng, chủ thể và hành vi.
PHI PHẬT
GIÁO (phyi pa, mu stegs pa; Phạn, tirthika): Những vị thầy chấp chặt vào triết
lý của quan điểm cực đoan như chủ nghĩa hư vô, vĩnh cửu (thường kiến và đoạn
kiến), đặc biệt là Ấn Độ Giáo, đạo Jana (jain), hay chủ nghĩa duy vật.
PHI PHÁP
(chos min): Bất kỳ hành động hay thuộc tính nào mâu thuẫn với Giáo Pháp, nhất
là tám mối quan tâm thế gian.
PHI THIỀN
ĐỊNH (sgom med): Trạng thái không giữ sự tập trung vào một đối tượng hoặc chủ
thể thiền định. Cũng ám chỉ trạng thái thứ tư của Mahamudra, trong đó không cần
phải thiền định hay trau dồi.
PHƯƠNG PHÁP
YOGIC (rtul shugs): Những thực hành thêm vào cho một tantrika để rèn luyện
trong việc thực hiện đầy đủ quan điểm của Kim Cương Thừa trong hoạt động hàng
ngày, ví dụ, bữa tiệc cúng dường.
PHƯƠNG TIỆN
(thabs; Phạn, upaya): Phương pháp hay phương tiện thiện xảo, đó là sự áp dụng
thực tiễn của giáo lý Đạo Phật. Cũng có thể chỉ cái thứ bảy của mười ba la mật.
PHƯƠNG TIỆN
VÀ TRÍ TUỆ (thabs dang shes rab; Phạn, upaya và prajna): Phật quả đạt được
nhờ hợp nhất trí tuệ và phương tiện; trong Đại thừa, chúng là lòng bi và
tánh Không, bồ đề tâm tương đối và tuyệt đối. Trong Kim Cương Thừa, trí tuệ và
phương tiện là giai đoạn phát triển và hoàn thiện. Theo học phái Kagyu (Mũ
đen), phương tiện ám chỉ một cách đặc biệt về “con đường phương tiện”, sáu giáo
pháp của Naropa, và trí tuệ là “con đường giải thoát”, thực hành thực tế của
Mahamudra. Theo Dzogchen, trí tuệ là kiến thanh tịnh nguyên sơ, sự thực hành
trekcho nhận ra tâm yếu của giác ngộ trong hiện tiền, trong khi phương tiện là
sự thiền định của hiện diện tự nhiên, sự thực hành thogal làm cạn kiệt nhiễm ô
và định kiến nhờ đó đạt được thân cầu vồng chỉ trong một kiếp.
PHÓNG ĐẠI VÀ
CHỈ TRÍCH (sgro btag + skur ‘deb): Chấp vào sự hiện hữu hay thuộc tính của điều
gì mà nó không có và đánh giá thấp sự hiện hữu hay thuộc tính của cái gì đó mà nó
thực sự có.
PRAJNAPARAMITA
(shes rab kyi pha rol tu phyin pa): Trí tuệ siêu phàm. Giáo lý Đại Thừa về sự
thấu suốt tánh Không, siêu vượt định kiến về chủ thể, đối tượng, và hành vi.
Kết hợp với lần chuyển pháp luân thứ hai.
PRANA (Phạn:
rlung): Năng lượng lưu thông trong thân.
QUAN ĐIỂM
(lta ba): Cái thấy (kiến), một hiểu biết và định hướng đặc biệt đạt căn bản
trên việc học tập nghiên cứu triết học. Trong lãnh vực của mahamudra và
trekcho, quan điểm ám chỉ trạng thái của bình thường tâm hay giác tánh tự hiện
hữu thoát khỏi bất kỳ khái niệm nào, ngay cả sự thấu suốt triết học.
QUANG MINH
(‘od gsal): Nguyên nghĩa là “thoát khỏi bóng tối của vô minh và được phú cho
khả năng nhận biết”. Hai phương diện là quang minh hư không, giống như bầu trời
rộng mở trong sáng, và quang minh biểu hiện, như ánh sáng ngũ sắc, hình ảnh,
v..v... Quang minh là bản tánh hiện diện không pha trộn khắp luân hồi và niết
bàn.
QUANG MINH
CỦA PHÁP TÁNH (chos nyid ‘od gsal): Tánh giác bẩm sinh, đó là bản tâm của tất
cả chúng sanh.
QUÁN ĐẢNH
(dbang): Sự trao quyền hay cho phép thực hành giáo lý của Kim Cương Thừa, cửa
vào không thể thiếu được để thực hành Mật thừa.
Quán đảnh
bí mật tịnh hóa ngữ và prana (khí lực)
Quán đảnh
cái bình làm tịnh hóa thân và nadis (kinh mạch)
QUÁN ĐẢNH
GIÁC TÁNH PHÔ DIỄN (rig pa’i rtsal gyi dbang): Sự quán đảnh để thực hành
Dzogchen. Đôi khi ám chỉ việc đạt giác ngộ nhờ thực hành Dzogchen.
Quán đảnh
tối hậu làm tịnh hóa những khuôn mẫu tập khí của thức a lại da
Quán đảnh
trí tuệ làm tịnh hóa ý và bindu (giọt ánh sáng)
QUY CHIẾU
(‘dzin pa): Hoạt động tâm linh chấp vào một đối tượng vật chất, kinh nghiệm,
khái niệm, hay tập hợp những ý niệm triết học.
QUY CHIẾU
NHỊ NGUYÊN (gnyis ‘dzin): Kinh nghiệm được hình thành do “người nhận thức” và
“đối tượng được nhận thức”.
QUY CHIẾU
VỀ SỰ CỤ THỂ (dngos ‘dzin): Tập khí chấp ngã và những đối tượng bên ngoài là có
thật, bền vững và lâu dài.
RAKSHAS (srinpo):
La sát, một sinh linh hay ma quỷ xấu ác.
RASAYANA (bcud
len): Xem trích tinh chất.
RUDRAS (ru
dra): [1] Một loại nửa thần nửa quỷ ngang bướng, [2] ma quỷ chấp ngã.
RUPAKAYA (gzugs
kyi sku): Sắc thân, một thuật ngữ tổng hợp của hóa thân và báo thân.
SADHANA (sgrub
thabs): Nghi quỹ, phương tiện thành tựu. Nghi thức và thủ tục Tantric để thực
hành thường nhấn mạnh giai đoạn phát triển.
SẮC GIỚI
(gzugs khams; Phạn, rupa-dhatu): Mười bảy cõi trời của luân hồi bao gồm ba lần
bốn cõi thiền, và năm cõi thanh tịnh. Một trạng thái thiêng liêng vi tế của luân
hồi giữa dục giới và vô sắc giới, ở đó không có giác quan ngửi, không có giác
quan nếm vị và bộ phận sinh dục. Những sinh linh ở đây có thân ánh sáng, trường
thọ và không có cảm giác đau khổ. Tâm thức không lành mạnh như bám luyến không thể
khởi lên.
SẮC THÂN
(gzugs sku): Báo thân và Hoá thân là tướng có thể nhận biết đối nghịch với Pháp
thân vô tướng.
SẮC THÂN
MAHAMUDRA (phyag rgya chen po’i sku): Ám chỉ thân cầu vồng của Bổn Tôn hành
giả. Hãy xem chương bốn cấp độ vidyadhara, “Vị Kim Cương Sư và Bổn Tôn Yidam”.
SAHA (Phạn,
mi mjed): Tên của hệ thống thế giới hiện nay của chúng ta. Nó có nghĩa “lâu
dài” vì chúng sanh ở đây chịu đựng đau khổ không kham nổi.
SAMADHI (ting
nge ‘dzin): Gắn liền với sự liên tục. Thường được dịch là sự tập trung hay nhập
định (đại định).
SAMADHI CỦA
CHÂN NHƯ (de bzhin nyid kyi ring nge ‘dzin): Đại định đầu tiên của ba tam ma đề
(samadhi).
SAMADHI NHƯ
KIM CƯƠNG (rdo rje lta bu’i ting nge dzin): (Kim cương định) Giai đoạn cuối của
địa thứ mười, là kết quả của Phật quả.
SAMANTABHADRA
(kuntuzangpo): Phật Phổ Hiền [1] pháp thân Phật nguyên sơ. [2] Bồ tát Phổ
Hiền được dùng như ví dụ cho sự hoàn thiện của tăng trưởng một cúng dường vô
tận.
SAMAYA (dam
tshig): [1] Nguyện thiêng liêng, giới luật hay cam kết của thực hành Kim Cương
Thừa. Nhiều chi tiết vẫn tồn tại, nhưng bản chất của samaya bao gồm về bên
ngoài là duy trì mối quan hệ hài hòa với vị Kim cương sư, với Pháp hữu, và bên
trong không đi lạc khỏi sự tương tục của thực hành. [2] Ở cuối chương, một chữ
samaya là một lời thề những gì được trình bày đều là sự thật.
SAMBOGAKAYA
(longs spyod rdzogs pa’i sku): Báo Thân, thân của hỷ lạc viên mãn. Về năm thân
của kết quả, đây là tướng bán-biểu hiện của chư Phật được phú cho năm
hoàn thiện: vị Thầy, quyến thuộc, nơi chốn, giáo lý, và thời gian, chỉ có Bồ
Tát trên thập địa mới có thể thấy.
SAMSARA (‘khor
ba): Luân hồi, vòng lẩn quẩn của sinh, tử và tái sanh trong sáu cõi, được đặc
tính hóa bởi sự đau khổ, vô thường và vô minh. Trạng thái của một chúng sanh
bình thường bị giam hãm bởi vô minh, nhận thức nhị nguyên, nghiệp và cảm xúc
phiền não. Thực tại thông thường; một chu trình vô tận của thất bại và đau khổ
phát sinh như kết quả của nghiệp.
SAMYE (bsam
yas): Tu viện được xây dựng bởi Vua Trisong Detsen và Đức Guru Rinpoche thánh
hóa. Vị trí ở giữa Tây Tạng gần Lhasa.
SAMYE QUANG
VINH TẠI HỒNG THẠCH (brag dmar dpal gyi bsam yas): Một quần thể tu viện xưa cũ
của Samye ở giữa Tây Tạng được Vua Trisong Detsen (790-844) xây dựng. Sườn núi
phía sau Samye có màu đỏ sáng.
SANGHA (dge
‘dun): Tăng Đoàn, một tập hội những hành giả. Trong “thọ quy y nơi sangha tôn
quý”, có nghĩa người đạt được cái thấy thuộc năm con đường và do vậy đã giải
thoát khỏi luân hồi.
SÁU GIÁC
QUAN (dbang po drug): Lục thức, năm giác thức và ý thức.
SÁU LOẠI
CHÚNG SANH (‘gro ba rigs drug): Thiên, bán thiên, người, súc sinh, ngạ quỷ, và
địa ngục.
SÁU PARAMITA
(phar phyin drug): Sáu hành động siêu phàm: Sự rộng lượng (bố thí), trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ biện biệt.
SÁU SIÊU
TRÍ TUỆ (mngon par shes pa): Khả năng thực hiện phép màu, thiên nhãn thông,
thiên nhĩ thông, tha tâm thông, nhớ lại những kiếp trước, và tri thức của hết
nhiễm ô (lậu tận thông).
SHAKYAMUNI (sha
kya thub jpa): Người uyên bác của dòng tộc Shakya (Thích ca), Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, vị Phật lịch sử của chúng ta.
SHAMATHA (zhi
gnas): An định (thiền chỉ) hay an trụ trong tĩnh lặng sau khi đã điều phục
những hoạt động của niệm tưởng; hay thực hành thiền định làm yên lặng tâm để
ngơi nghỉ thoát khỏi sự quấy rối của niệm tưởng.
SHRAVAKA (nyan
thos): Thanh văn hay người lắng nghe. Hành giả Tiểu Thừa của lúc Phật chuyển
Pháp luân lần thứ nhất, giới thiệu Tứ Diệu Đế, người nhận ra đau khổ vốn sẵn
trong luân hồi và chú tâm để hiểu rằng không có tự tánh. Do chiến thắng những
cảm xúc khuấy động nên tự giải thoát, đạt được nhập lưu vào con đường của cái
thấy, chỉ còn tái sanh lại một lần và bất lai (không còn trở lại) luân hồi. Mục
tiêu cuối cùng là trở thành một A la hán.
SIDDHA (grub
thob, grub pa): Bậc viên mãn, bậc giác ngộ, người thấu suốt đã đạt thành tựu.
SIDDHI (dngos
grub): (tất địa), Sự thành tựu. Việc đạt được kết quả từ thực hành Pháp,
thường để chỉ tất địa tối thượng của giác ngộ viên mãn. Nó cũng có nghĩa là tất
địa thông thường, tám thành tựu thế gian như tiên tri, nghe thấu suốt, bay trên
bầu trời, vô hình, luôn trẻ trung, hay năng lực biến hóa, khả năng kiểm soát
thân thể và thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, sự thành tựu xuất sắc nhất trên con
đường là sự từ bỏ, lòng bi mẫn, niềm tin bất thoái chuyển, và sự nhận biết của
chánh kiến.
SIDDHI CỦA
MAHAMUDRA (phyag rgya chen po’i dngos grub): Tương tự như giác ngộ. Trong phạm
vi của Mahayoga Tantra, nó cũng có thể ám chỉ sự thành tựu vidyadhara cấp thứ
ba, trong đó mahamudra có nghĩa thân siêu phàm của Bổn Tôn Yidam.
SIÊU TRÍ
TUỆ (mngon par shes pa): Thưởng chỉ sáu nhận thức cao, bao gồm thấu thị, biết
được tâm người khác, v.v..
SỰ CHE
CHƯỚNG CỦA TRI KIẾN NHỊ NGUYÊN (shes bya’i sgrib pa): Sự che chướng vi tế của
việc chấp vào khái niệm chủ thể, đối tượng, và hành vi.
SỰ CHẤP
NHẬN (bzod pa): Một trong số bốn phương diện tin chắc đạt được trên con
đường kết hợp.
SỰ CÔNG
NHẬN CỦA GIÁO PHÁP UYÊN THÂM (zab mo’i chos la bzod pa): Sự chấp nhận của tánh
Không, rằng Giáo Pháp là bất sinh.
SỰ THU
NHAËT TÍCH LŨY (tshogs bsags pa): Sự thực hành đạo đức của việc viên mãn hai
tíc lũy công đức và trí tuệ.
SỰ TIẾP CẬN
(bsnyen pa): Hãy xem bốn phương diện của sự tiếp cận và thành tựu.
SỰ TIẾP CẬN
VÀ THÀNH TỰU (bsnyen sgrub): Hai phương diện của thực hành nghi quỹ. Nhất là
những thời kỳ trong giai đoạn tụng niệm theo Mahayoga Tantra.
SỰ XUẤT
HIỆN VÀ HIỆN HỮU (snang srid): Bất cứ những gì có thể kinh nghiệm (năm nguyên
tố) và có thể hiện hữu (ngũ uẩn). Thuật ngữ này dùng để chỉ thế gian và chúng
sanh.
SUGATA (bde
bar gshegs pa): Như lai, tương tự như một vị Phật.
SUTRA (mdo):
Kinh điển, bài giảng hay giáo lý của Đức Phật. Cũng chỉ mọi giáo lý nhân quả
liên quan đến con đường như nguyên nhân của giác ngộ. So sánh với Mantra.
TÂM BÌNH
THƯỜNG (tha mal gyi shes pa): Tâm trong trạng thái tự nhiên phi tạo tác. Một
yếu tố quan trọng trong thực hành Kim Cương Thừa.
TÂM CHÚ
(snying po’i sngags): Dạng vắn tắt của mantra một Bổn Tôn Yidam như một đối lại
với mantra dài; ví dụ om mani padme hung.
TÂM GIÁC
NGỘ QUÝ BÁU (byang chub kyi sems rin po che): xem bồ đề tâm.
TÂM KHÁI
NIỆM (blo): Trong bối cảnh này, hành vi của trí thông minh chúng ta nhận thức
và phân biệt hiện tượng là một che chướng cho trạng thái không che đậy của tâm
tỉnh giác, mà trạng thái của tâm tỉnh giác này hoạt động vô chướng ngại không
cần nhận thức.
TÂM PRANA
(rlung sems): Prana ở đây nghĩa là “gió nghiệp” và tâm là ý thức nhị nguyên của
một người chưa giác ngộ. Hai thứ này liên hệ mật thiết.
TÂM YẾU
(sems nyid): Bản tâm của hành giả, đồng nhất với tinh hoa của tất cả bậc giác
ngộ, như lai tạng (sugatagarbha). Phải phân biệt với tâm (sems), ám chỉ những
suy nghĩ lan man bình thường dựa trên bản chất tư duy của vô minh.
TẬP KHÍ
(bag chags): Những khuynh hướng vi tế ghi dấu trong thức a lại da.
TẬP TRUNG
(dmigs pa): Giữ một khái niệm đối tượng trong tâm hay hành động biết như một
đối tượng. Sự thực hành gọi là “tích lũy công đức” liên quan đến việc giữ trong
tâm và trau dồi một tập trung đức hạnh, trong khi “sự tích lũy trí tuệ” được
trau dồi nhờ duy trì sự tỉnh giác hoàn toàn thoát khỏi bất cứ chấp giữ tập
trung dựa trên khái niệm hoặc bất kỳ những điểm tham khảo liên quan nào.
TĂNG ĐOÀN
TÔN QUÝ (‘phag pa’i dge ‘dun): Tập hội những hành giả đã đạt được con đường của
cái thấy, cái thứ ba trong năm con đường.
TAM BẢO
(dkon mchog gsum): Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.
TANTRA (rgyud):
Giáo lý Kim Cương Thừa được Đức Phật ban trong dạng báo thân của Ngài. Nguyên
nghĩa là “sự tương tục”, tantra có nghĩa Phật tánh, “tantra của sự diễn đạt ý
nghĩa”. Nói chung, những kinh điển tantric phi thường cao quý hơn sutra, “tantra
diễn đạt ngôn từ”. Cũng có thể ám chỉ tổng hợp của tất cả mọi giáo lý nhận kết
quả như toàn bộ con đường.
TANTRIC SAMAYA
CỦA CÁC BẬC VIDYADHARA (rig ‘dzin sngags kyi dam tshig): Sự cam kết của một
hành giả Kim Cương Thừa.
TANTRIKA (sngags
pa): Như hành giả tantric.
TATHAGATAS VÀ
CÁC CON CỦA NGÀI (de gshegs sras bcas): Chư Phật đã đi vào trạng thái của chân
như pháp tánh (tatha). Các con Ngài là những bồ tát ở mười địa.
TÁM BỘ QUỶ
THẦN (lha srin sde brgyad): Đó là những diễn tả khác nhau nhưng phổ thông nhất
là: thiên (deva), long (naga), dạ xoa (yaksha), a tu la (atula), càn thát bà
(gandhara), kim xí điểu (garuda), khẩn na la (kindara) và ma hầu la già
(mahoraga). Tất cả họ đều có thể tiếp nhận và thực hành giáo lý của Đức Phật.
Tám bộ này cũng có thể ám chỉ nhiều loại tinh linh thế gian khác nhau có thể
giúp đỡ hay gây hại.
TÁM CHI
(yan lag brgyad): Bảy chi thêm vào chi phát bồ đề tâm. Xem thêm bảy chi
TÁM MỘ ĐỊA
(dur khrod brgyad): [1] Rừng Lạnh Sitavana (bsil ba tshal) ở hướng đông, [2]
Viên mãn trong Thân ở hướng nam, [3] Đồi Liên Hoa (pad ma brtsegs) ở hướng tây,
[4] Đồi Lanka (lan ka brtsegs) ở hướng bắc; [5] Đồi Thành tựu Tự nhiên (lhun grub
brtsegs) ở hướng đông nam; [6] Phô diễn Đại Bí mật (gsang chen rol pa) ở
hướng tây nam; [7] Đại Hỷ lạc Tỏa khắp (he chen brdal pa) ở hướng tây bắc; [8]
Đồi Thế gian (‘jig rten brtsegs) ở hướng đông bắc. Cũng có nhiều liệt kê
mộ địa khác.
TÁM MỐI
QUAN TÂM THẾ GIAN (‘jig rten chos brgyad): Bám luyến sự thành đạt, khoái lạc
tình dục, tán dương, và nổi tiếng, không thích mất mát, đau khổ, khiển trách và
tiếng xấu.
TÁM TÍCH TỤ
CỦA Ý THỨC (rnam shegs tshogs brgyad): A lại da thức (thức nền tảng), tâm thức,
tâm thức nhiễm ô, và năm thức giác quan khác (A lại da thức, Mạt na thức,
Ý thức, nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân thức).
TÁM VẠN BỐN
NGÀN CỬA VÀO GIÁO PHÁP (chos kyi sgo mo brgyad khri bzhi stong): Hai mươi mốt
ngàn giáo lý cho mỗi kinh, luật, luận, và sự kết hợp của chúng, đôi khi ám chỉ
Kim Cương Thừa. Mục tiêu là loại bỏ tám vạn bốn ngàn loại cảm xúc phiền não
khác nhau tiềm tàng trong tâm con người.
TÁNH KHÔNG
(stong pa nyid): Sự kiện hiện tượng và bản ngã là sự trống rỗng hay không hiện
hữu độc lập thật sự.
TERMA (gter
ma): Kho tàng, sự trao truyền qua những kho tàng chôn dấu chủ yếu được Đức Guru
Rinpoche và Yeshe Tsogyal chôn dấu, được khai mở vào một thời điểm thích hợp
bởi một vị terton, một vị khai mật tạng vì lợi ích của những đệ tử tương lai.
THÂN CẦU
VỒNG (ja lus):Vào lúc chết của một hành giả đã đạt được việc tiêu hao mọi bám
chấp và định kiến nhờ thực hành thogal của Dzogchen, năm mguyên tố thô cấu tạo
nên thân vật chất hòa tan lại vào tinh túy của chúng, ánh sáng ngũ sắc. Đôi khi
còn để lại tóc và móng tay, chân.
THÂN MAHAMUDRA
CỦA BỔN TÔN YIDAM (yidam lha’i phyag chen kyi lus): Sự thành tựu, chủ yếu nhờ
Mahayoga Tantra, của huyễn thân trí tuệ trên vidyadhara cấp độ mahamudra, tương
ứng với con đường trưởng dưỡng. Nó là một thân thiêng liêng của một Bổn Tôn
được phú cho những hảo tướng chính và phụ và qua đó hành giả yogi có thể làm
lợi ích chúng sanh trong phạm vi tương đương với báo thân.
THÂN ĐẠI
CỰC LẠC (bde ba chen po’i sku; Phạn, mahasukhakaya): Thuộc năm thân, phẩm tính
đơn giản của sự bất biến.
THÂN TINH
TÚY (ngo bo nyid kyi sku, Phạn, svabhavikakaya): Đôi lúc được tính là bốn thân,
là sự hợp nhất của ba thân, Ngài Jamgon Kongtrul định nghĩa nó là khía cạnh của
pháp thân, đó là “bản chất của mọi hiện tượng, rỗng rang không tạo tác và được
phú cho đặc tính thanh tịnh tự nhiên”.
THẬP THIỆN
HẠNH (dge ba bcu): Nói chung, kềm chế mười hành động bất thiện. Nói riêng, thực
hiện đối nghịch lại chúng, ví dụ phóng sinh, bố thí v..v...
THẬT NGHĨA
(nges don): Ý nghĩa dứt khoát đối lại với cách hay ý nghĩa tương đối. Giáo lý
của Prajnaparamita và Trung Đạo. Trong quyển Kho Tàng Của Trí Tuệ, Ngài Jamgon
Kongtrul Vĩ Đại định rõ sự thật (chân lý), ý nghĩa xác quyết theo cách sau:
những bài dạy dành cho các đệ tử đặc biệt rằng bản chất của mọi hiện tượng là
tánh không sâu thẳm phi tạo tác như sinh và diệt, rằng hoàn cảnh thực sự bẩm sinh
của sự vật là bởi bản chất tỉnh thức quang minh vượt lên trên ngôn từ, tư duy
và mọi sự mô tả. Hơn nữa, đây là những lời Đức Phật giải thích chi tiết ý nghĩa
cũng như luân giải về chúng.
THÀNH TỰU
[1] (dngos grub, siddhi): Xem thành tựu [2] (sgrub pa): Xem bốn khía cạnh của
tiếp cận và thành tựu.
THÀNH TỰU
TỐI THƯỢNG CỦA MAHAMUDRA (phyag rgya chen po mchog gi dngos grub): [1] giác ngộ
rốt ráo, [2] cái thứ ba của bốn cấp vidyadhara.
THÁNH HÓA
VÀ QUÁN ĐẢNH (byin brlab dbang bskur): Một thời kỳ trong giai đoạn phát triển
vào lúc cuối của sự quán tưởng Bổn Tôn bao gồm việc thánh hóa ba luân xa của
hành giả với thân, khẩu, ý giác ngộ cũng như quán đảnh của Bổn Tôn với năm gia
đình Phật trên đỉnh đầu.
THIỀN GIẢ(sgom
chen): Người dành mọi thời gian để thực hành thiền định, thường nhập thất trong
núi. Nghĩa rộng dành riêng cho người thực hành suốt ngày của một tâm bình
thường hay tâm tự nhiên phi tạo tác.
THOGAL (thod
rgal): Vượt qua trực tiếp hay vượt lên trên, Dzogchen (Đại Viên Mãn),
mahasandhi, có hai phần: trekcho và thogal. Trekcho nhấn mạnh sự thanh tịnh
nguyên sơ (ka dag) và thogal là sự hiện diện tự nhiên (lhun grub).
THỌ QUY Y
(skyab ‘gro): Đặt niềm tin của một người vào Tam Bảo.
THỰC HÀNH
ĐẠI THÀNH TỰU (sgrub chen): Một thực hành nghi quỹ được một nhóm người đảm nhận
liên tục trong bảy ngày.
THỰC SỰ CAO
(mngon mtho): Chỉ sự tái sinh vào ba cõi cao của luân hồi: người, a tu la và
trời.
THỪA (theg
pa): Sự thực hành của một bộ giáo lý đem hành giả đến cấp dộ kết quả.
THỪA NỘI VÀ
NGOẠI (phyi nang gi theg pa): Đại thừa và Tiểu thừa.
THỪA THẤP
(theg pa ‘og ma): So sánh với Kim Cương Thừa, những thừa thấp hơn là của các
Thanh Văn, Bích Chi Phật, và Bồ Tát.
THỪA TRIẾT
HỌC (mtshan nyid kyi theg pa): Một danh hiệu chung cho Tiểu Thừa và Đại Thừa.
THỜI ĐẠI
ĐEN TỐI CỦA SỰ SUY HOẠI (snyigs ma’i dug): Thời đại hiện nay, khi năm suy hoại
không kềm chế được – đó là tuổi thọ, thời gian, con người, quan điểm, và cảm
xúc phiền não. Hãy xem năm suy hoại.
THUỘC TÍNH
XUẤT THẾ GIAN (‘jig rten chos mchog): Cái thứ tư của bốn khía cạnh xác tín trên
con đường kết hợp. Sự thành tựu tâm linh cao nhất trong luân hồi.
TÍCH LŨY
(tshogs): Sự dự trữ để làm một cuộc hành trình trên con đường giác ngộ. Xem hai
tích lũy.
TÍCH LŨY
CÔNG ĐỨC (bsod nams kyi tshogs): Hành động đạo đức có tác ý.
TÍCH LŨY
TẠM THỜI (‘jig tshogs): Aùm chỉ sự tương tục của ngũ uẩn.
TÍCH LŨY
TRÍ TUỆ (ye shes kyi thsogs): Hành động đạo đức gắn bó với trí tuệ phân biệt
(shes rab) thấu suốt về tánh Không.
TINH TÚY
SUGATA (bde gshegs snying po): Một tên khác của Phật tánh, tinh túy giác ngộ
sẵn có trong chúng sanh.
TƯ THẾ
THIỀN ĐỊNH BẢY ĐIỂM (sgom tshulgyi gnad bdun): Chân trong thế kiết già, xương
sống thẳng, vai duỗi, cổ hơi cúi xuống, tay kết định ấn, đầu lưỡi chạm vòm
miệng, và mắt nhìn vào hướng mũi.
TOÀN GIÁC
(rnam mkhyen thams cad mkhyen pa): Tương tự như sự giác ngộ hoàn toàn hay Phật
quả.
TỰ DO VÀ
PHONG PHÚ (dal ‘byor): Những điều kiện người ta có thể thực hành Giáo Pháp
thiêng liêng trong một thân người.
TỰ NHẬN
BIẾT PHI KHÁI NIỆM (rtog med rang gsal): Trạng thái nền tảng của tâm được vị
guru khai mở, thoát khỏi niệm tưởng và vẫn nhận biết tự nhiên bất cứ những gì
hiện diện.
TỰ TÁNH
(rang bzhin): Một hiện hữu vốn sẵn và bản chất độc lập của bản ngã cá nhân hay
của hiện tượng. Là điều gì đó có thể phục vụ như một nền tảng vững chắc cho những
thuộc tính cá nhân.
TỰ TỒN TẠI
(rang bzin): Một hiện hữu vốn sẵn và tồn tại độc lập của bản ngã cá nhân hoặc
của hiện tượng.
TỊNH HÓA
CHE CHƯỚNG (sgrib sbyong): Thực hành tâm linhxua tan những gì che chướng như
lai tạng; ví dụ thiền định và tụng niệm về Đức Vajrasattva theo những chuẩn bị đặc
biệt.
TORMA (gtor
ma): Một phương tiện sử dụng trong nghi lễ tantric. Cũng có thể chỉ cúng dường
thực phẩm cho Hộ Pháp hay những tinh linh bất hạnh.
TRẠNG THÁI
ĐỊNH CỦA SHRAVAKA (zhi gnas ‘gog pa): Trong bối cảnh của thực hành Tiểu Thừa và
Đại Thừa, trạng thái này được dùng trong ý nghĩa làm giảm và được biết như một
lề đường xấu của con đường giác ngộ của chư Phật. Sự lỗi lầm xuất phát từ xem
thực hành thiền định như hoạt động trưởng dưỡng và quy chiếu trên trạng thái
trong đó cảm giác và niệm tưởng đều không có.
TRAMENA (phra
men): Thiên nữ có thân người và đầu thú. Tramen có nghĩa lai ghép hay pha trộn.
TREKCHO (khregs
chod): “Cắt đứt” dòng chảy của ảo tưởng, niệm tưởng của ba thời nhờ bộc lộ giác
tánh không che đậy không quy chiếu nhị nguyên. Nhận ra quan điểm này nhờ giáo huấn
khẩu truyền của vị Thầy hành giả và duy trì nó không gián đoạn khắp mọi phương
diện của đời sống là tinh túy thật sự của thực hành Dzogchen.
TRÌ THỦ
VAJRA (rdo rje ‘dzin pa): [1] Danh hiệu tôn kính cho một vị Thầy thành tựu, [2]
Trạng thái giác ngộ.
TRÍ TUỆ BỔN
TÔN (ye shes sems dpa’, ye shes pa, ye shes kyi lha): Bổn Tôn thật sự an
trụ trong pháp giới.
TRÍ TUỆ CỦA
HÀNH ĐỘNG KIÊN TRÌ (bya ba tan gyi ye shes): Tương đương với “trí tuệ toả khắp”
(bya ba grub pa;i yeshes).
TRÍ TUỆ
ĐỒNG HIỆN (lhan cig skyes pa’i yeshes): Khả năng tỉnh giác bẩm sinh hiện diện
trong mọi chúng sanh. Trí tuệ ở đây có nghĩa sự tỉnh giác nguyên sơ không dối
gạt.
TRÍCH TINH
TÚY (bcud len; Phạn, rasayana): Một thực hành yoga lấy tinh chất của thảo dược,
khoáng vật, và năng lượng của nguyên tố để tịnh hóa thân, tăng sự tập trung và
tránh sự xao lãng đi tìm những thực phẩm vật chất thông thường.
TRISONG DETSEN
(khri srong de’u btsan): 790-844. Pháp Vương vĩ đại thứ hai của Tây Tạng, người
đã thỉnh Guru Rinpoche, Shantarakshita, Vimalamitra, và nhiều vị Thầy Phật giáo
khác bao gồm Jinamitra và Danasila đến Tây Tạng. Ngài xây dựng Samye, tu viện
vĩ đại và trung tâm giảng dạy kiểu mẫu sau Odantaputi, và thiết lập đạo Phật
như quốc giáo của Tây Tạng. Trong triều đại của Ngài, những tu sĩ được thọ cụ
túc giới đầu tiên. Những học giả và lotsawa đã dịch nhiều kinh văn, và một số
lớn những trung tâm thực hành được xây dựng.
TRUNG ĐẠO
(dbu ma; Phạn, madyamika): Phái cao nhất của bốn học phái triết học Phật giáo.
Trung đạo có nghĩa không chấp giữ bất kỳ quan điểm cực đoan nào, nhất là quan
điểm hư vô và vĩnh cửu.
TSA-TSA (tshva
tshva): một tượng phật nhỏ bằng đất sét đúc từ một khuôn.
TỤNG NIỆM
(bzlas pa): Nhiệm vụ của thực hành nghi quỹ gồm việc tụng niệm một mantra.
UDDIYANA (u
rgyan, o rgyan): Xứ sở phía tây bắc của Ấn Độ thời xưa nơi Guru Rinpoche sinh
ra trên một hoa sen. Xem Orgyen.
VAIROCANA (Phạn,
vai ro ca na): Dịch giả vĩ đại của Tây Tạng vào thời Vua Trisong Detsen. Được
Đức Padmakara nhận ra là một hóa thân của một học giả Ấn Độ, Ngài là một trong
bảy vị tu sĩ được gởi tới Ấn Độ để học với Ngài Shri Singha. Ngài cũng là một
trong ba vị Thầy chính mang giáo lý Dzogchen vào Tây Tạng, hai vị khác là
Padmakara và Vimalamitra.
VAJRA (rdo
rje): Nghĩa đen là kim cương, vua của mọi loại đá. Như một tính từ nó có nghĩa
bất hoại, cứng chắc, bất bại, v.v.. Có vajra tuyệt đối của tánh Không, vajra
tương đối của chất liệu vật chất với những thuộc tính, và biểu tượng thấy rõ
hoặc dán nhãn vajra cho danh hiệu.
VAJRADHARA (rdo
rje ‘chang): Kim Cương Trì. Pháp thân Phật của học phái Sarma. Cũng có thể chỉ
vị thầy riêng của một người của Kim Cương Thừa.
VAJRAYANA (rdo
rje theg pa): Kim Cương Thừa. Sự thực hành nhận kết quả là con đường. Tương tự
như Mantra Bí mật và Tantrayana.
VIDYADHARA (rig
pa dzin pa): Trì Minh Vương. Bậc nắm giữ hay mang (dhara) trí tuệ (vidya) của
mantra. Một vị Thầy giác ngộ một trong bốn giai đoạn của con đường tantric của
mahayoga, tương đương với mười sáu địa.
Vidyadhara cấp
hiện diện tự nhiên (lhun grub rig ‘dzin)
Vidyadhara cấp
làm chủ cuộc sống (tshe dbang rig ‘dzin)
Vidyadhara cấp
mahamudra (phyagchen rig ‘dzin)
Vidyadhara cấp
trưởng thành (rnam smin rig ‘dzin)
VIPASHYANA (lhag
mthong): (thiền quán – thiền minh sát), nhìn thấy rộng hơn và sáng suốt. Thường
để chỉ sự thấu suốt vào tánh Không. Một trong khía cạnh chính của thực hành
thiền định, cái kia là shamatha (chỉ).
VISHNU (khyab
‘jug): “Bậc thâm nhập khắp”, bậc duy trì vũ trụ, thân tướng Ngài là một trong
ba tam giác của chư thiên, với Brahma bậc sáng tạo và Shiva bậc hủy diệt.
VỊ THẦY
(bla ma, slob dpon): Danh hiệu ban cho một vị Thầy tâm linh và học giả nghiên
cứu. Trong sách này, vị Thầy ám chỉ Guru Rinpoche (Ngài Liên Hoa Sanh).
VỊ THẦY HÓA
THÂN (slob dpon sprul pa’i sku): Một cách bày tỏ tôn kính với Guru Rinpoche
rằng Ngài là thân lưu xuất của một đấng giác ngộ.
VỊ THẦY ĐỦ
PHẨM TÍNH (bla ma mtshan nyid dang ldan pa): Người có chánh kiến và lòng bi
chân thật.
VÔ NGÃ
(bdag med): Sự thiếu vắng bẩm sinh của một tự tồn tại trong bản ngã cá nhân
cũng như trong vật chất và tâm thức.
VÔ NGÃ
(bdag med): Sự thiếu vắng hay không có sự tự tồn tại trong cá nhân con người
cũng như trong vật chất và tâm. Vô ngã không phải là một sự đạt được mà là
trạng thái tự nhiên của sự vật. Những hành giả của Tiểu Thừa, thanh văn và độc
giác đạt một phần giác ngộ của sự vô Ngài, mà chỉ là một bồ tát nhờ thực
hành sáu ba la mật mà phát hiện thực tại như nó là.
VÔ NIỆM (mi
rtog): Một trạng thái không có suy nghĩ dựa trên khái niệm. Có thể ám chỉ sự
tỉnh giác phi khái niệm, nhưng thường nó là một trong ba kinh nghiệm thiền định
tạm thời: cực lạc, trong sáng, và vô niệm.
VÔ SẮC GIỚI
(gzus med khams; Phạn, arupya-dhatu): Trạng thái vi tế nhất của luân hồi, hoàn
toàn không có bất kỳ thân vật chất nào ngay cả những khoái lạc tinh thần. Nơi
an trụ của sinh linh chưa giác ngộ đã thực hành bốn thể nhập. Những sinh linh
này trụ trong sự bình đẳng bất biến trong một thời gian dài, sau đó họ đi xuống
những trạng thái thấp hơn của luân hồi.
VÒNG ĐƠN
CỦA DHARMAKAYA (chos sku thig le nyag sig): Tất cả chư Phật đều là một trong hư
không vô tận của pháp thân, nó là vòng tròn trong ý nghĩa của người vượt lên
“những góc cạnh” của niệm tưởng tạo tác.
YAKSHA (gnod
sbyin): Dạ Xoa, một bộ sinh linh bán thiên, thường làm lợi ích nhưng đôi khi
làm điều ác. Phần lớn là những vị thần ở miền quê, thường ở trên những cây
thiêng và canh giữ những kho tàng gần đó. Một số khác sống trên Núi Tu Di, canh
giữ cho cõi thiên. Họ được Kuvera cai quản, vị thần của tài bảo và canh giữ một
phần tư của hướng bắc.
YANGDAG (yang
dag; Phạn, vishuddha): Một trong tám Heruka của học phái Nyingma (Mũ đỏ). Bổn
Tôn phẫn nộ của tâm kim cương.
YERPA (g.yer
pa): Một ngọn núi ẩn tu gần Lhasa ở giữa Tây Tạng.
YIDAM (yi
dam): Bổn Tôn riêng của hành giả, và là gốc rễ thành tựu của ba gốc.
YOGA SADHANA
(rnal ‘byor gyi sgrub thabs): Thực hành truyền thống chính sau giai đoạn chuẩn
bị. Bao gồm hai giai đoạn phát triển và hoàn thiện và là bước tốt nhất cho sự
tiếp cận những thực hành tinh tế hơn của Mahamudra và Dzogchen.
YOGI (rnal
‘byor pa): Hành giả Kim Cương Thừa.
CƯỚC CHÚ
01 Còn gọi
là Vòng hoa Lam Ngọc Quý báu
02 Cùng
năm với Ngài Phadampa viên tịch
03 Một
“hóa thân điều phục chúng sanh” xuất hiện trong sáu cõi luân hồi thì ngược lại
với một thân lưu xuất trong hóa thân tự nhiên như cõi tịnh độ của Phật A Di Đà.
04 Bồ Tát
Khenpo thường được biết bằng tên Shantarakshita, vị tổ Ấn Độ đầu tiên đã thọ
giới cho những tu sĩ Tây Tạng.
05 Lần
tái sinh thứ mười ba này là khai mật tạng đại pháp vương Chokgyur Lingpa.
06 Ngài
Jamgon Kongtrul là tái sinh của dịch giả Vairochana. Ngài có nhiều linh kiến về
Guru Rinpoche và cũng là một vị khai mật tạng.
07 Những
giới luật hành giả đã thọ trong bất kỳ thừa nào của ba thừa.
08 Bồ tát
nguyện và giới luật quy y, cái sau cũng bao gồm những giới nguyện cho giải
thoát cá nhân. Xem thuật ngữ.
09 Hình
tướng và hiện hữu, ám chỉ vũ trụ và tất cả chúng sanh.
10 Từ
khác để chỉ giáo huấn của Đại Thừa hay thừa ba la mật (độ thoát)
11 Ám chỉ
tính liên tục của năm uẩn
12 Vào
lúc này nói tên thường gọi của mình
13 Ám chỉ
thân cầu vồng của Bổn Tôn hành giả. Hãy xem chương bốn cấp độ Trì minh vương
“Sự tu hành tâm theo Kim Cương Thừa”
14 “Mantra”
có nghĩa Kim Cương Thừa, và Thừa Triết học bao gồm Tiểu Thừa và Đại Thừa.
15 Samaya
ở cuối một chương có nghĩa xin thề rằng đã ghi chép lại đúng sự thật.
16 Thực
hành bảy chi là đảnh lễ Tam Bảo, sám hối hành vi bất thiện, cúng dường, hoan hỷ
với công đức của người khác, thỉnh chuyển Pháp luân, khẩn cầu không nhập niết bàn,
và hồi hướng công đức cho sự giác ngộ của tất cả chúng sanh.
17 Giải
thoát những chúng sanh ở ba cõi thấp đến một trạng thái ở đó họ có thể thực
hành Giáo Pháp; giúp đỡ chúng sanh ở những cõi cao vượt qua biển luân hồi và
đạt giải thoát; giúp nguyện bồ tát bằng sự đạt được các địa bồ tát.
18 Một
pháp tu khổ hạnh của Ấn Độ Giáo bằng cách bắt chước hành vi của loài vật.
19 Thuật
ngữ “thật sự cao cả” đơn giản ám chỉ đến một tái sanh trong ba cõi cao của luân
hồi: người, a tu la và trời.
20 Ba
phạm vi là chủ thể, đối tượng, và hành vi
21 Điều
này ám chỉ hai khía cạnh chính của thực hành Dzogchen: sự thuần tịnh nguyên sơ
của trekcho và sự hiện diện tự nhiên của thogal. Hai thực hành này phải được
học qua hướng dẫn miệng của một vị Thầy Dzogchen.
22 Dòng
cuối bản dịch của Lama Gongdue bao gồm những giáo huấn về quy y và bồ đề tâm
thành một, đọc:
Những khai
thị về quy y và bồ đề tâm này được biết như nền tảng quý báu vô giá của mọi
thực hành Giáo Pháp. Chúng hòa hợp với mọi hành giả và là những hướng dẫn đặc biệt được mọi người quý báu.
Theo những
hướng dẫn khẩu truyền được Đức Padmakara ban, vị tổ của Uddiyana vì lợi ích của
những chúng sanh trong thế hệ tương lai. Ta, công chúa xứ Kharchen viết, trao
truyền và cất dấu chúng như một kho tàng quý báu. Cầu mong chúng gặp được những
người xứng đáng trong tương lai. SAMAYA
23 Quyết
định sự lựa chọn
24 tâm
thức
25 Điều
này ám chỉ “bà mẹ của tánh sáng” (ma’i ‘od gsal) tánh sáng nền tảng của
trạng thái tự nhiên vốn sẵn, là bản chất giác ngộ của tất cả chúng sanh.
26 Trong
nguyên bản thiếu mất ba hoàn cảnh có lợi
27 Ám chỉ
lý thế gian
28 Sự dụ
dỗ hướng sự tu hành tâm linh vào mục đích vị kỷ; những hành vi đức hạnh không
có tâm xả bỏ hay Bồ đề tâm
29 (rasayana),
một thực hành yoga sống bằng những tinh túy của cây thuốc, khoáng sản và năng
lực của năm đại.
30 mức độ
thứ hai trong bốn mức độ Vidyadhara
31 Nói
chung, từ này (bsnyen pa) chỉ có nghĩa là “trì tụng”, nhưng nói riêng là cái
đầu tiên của “bốn phương diện của sự tiếp cận và thành tựu.
32 Trong
văn mạch này, đại ấn (mahamudra) có nghĩa là “sắc tướng thân thể thiêng
liêng”của một Bổn Tôn (chú thích của dịch giả tiếng Anh). Theo chú thích của
dịch giả tiếng Việt, sắc tướng đại ấn thiêng liệng của Bổn Tôn là sự hợp nhất
vị của Sắc và Không, của Tướng và Tánh, hay cụ thể hơn, đó là thân không (hay
thân huyễn), cấp độ thứ tư trong sáu cấp độ của tantra yaga tối thượng.
33 Bảy
chi là đảnh lễ, sám hối, cúng dường, hoan hỷ công đức của người khác, thỉnh
chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế và hồi hướng công đức.
34 Bya ba
nan tan gyi ye she. Thông thường, nó là “trí tuệ viên mãn” (bya grub ye she)
35 Nghĩa
đen là “chấp nhận gian khổ” kỷ luật tự thân ở đây không có nghĩa tiêu cực của
sự ăn năn hay tự hành xác; nó có nghĩa giữ một phong cách sống đơn giản nơi
vắng vẻ trong khi quyết chịu “gian khổ” của việc tránh mưu cầu việc thế gian và
sự an nhàn
36 Những
phẩm vật của bữa tiệc cúng dường được thực hiện vào buổi sáng của ngày cuối
thực hành nhập thất.
37 Một
bữa tiệc cúng dường (ganachakra) có giá trị đo lường bằng vàng
38 Năm ở
đây được tính theo cách thời cổ là một mùa hè và mùa đông làm một năm.