Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tinh yếu của thiền

16 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 11465)
Tinh yếu của thiền


TINH YẾU CỦA THIỀN
Tuệ Thiện


tinhyeucuathien-tuethienCó rất nhiều phương pháp thiền. Mỗi vị thiền sư lưu truyền một phương pháp cho các đệ tử; đến phiên các vị này, mỗi vị lại thêm thắt biến đổi một ít tùy theo sự hiểu biếtkinh nghiệm đạt đạo của mình. Thành ra có bao nhiêu thiền sư là có bấy nhiêu phương pháp. Vậy thì làm cách nào để đánh giá một phương pháp thiền? Chúng ta phải qui chiếu vào kinh điểndựa trên phương pháp của Đức Phật, nếu chúng ta vẫn coi Ngài là vị Thiền Sư đầu tiên đã tìm ra được phương pháp dẫn tới sự giác ngộ. Còn vị thiền sư nào hơn Đức Phật? Có vị tổ sư thiền nào để lại cho chúng ta hơn một cuốn sách dạy về thiền đâu? Nhất là những vị đã chủ trương "bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền". Một vị thiền sư phải có ít nhất một vị đệ tử đạt đạo giống như mình. Điều này chứng tỏ phương pháp của mình là khả thi và hiệu quả dẫn tới cùng một mục đích. Nếu mục đích là thấy Niết Bàn, thì người đệ tử cũng phải thấy rõ Niết Bàn. Nếu mục đích là đắc thần thông, thì người đệ tử cũng phải đắc thần thông như vị thầy. Đức Phật sau khi đắc đạo, đã nghĩ tới những người bạn cùng tu khổ hạnh với mình thuở trước. Bài pháp "Chuyển pháp luân" đầu tiên của Ngài đã khai quang tuệ giác cho 5 đạo sĩ khổ hạnh nầy và đã đưa 5 ông đến đạo quả A La Hán, ngang hàng với Đức Phật về hiệu quả chứng đắc: thấy Niết Bànchấm dứt luân hồi. Năm vị thuộc nhóm Kiều Trần Như là một bằng chứng cụ thể đầu tiên cho thấy Niết Bàn là một sự thậtphương pháp của Đức Phậthiệu nghiệm huyền diệu. Từ đó đến nay không biết bao nhiêu thế hệ Thiền Sư - Đệ Tử, Đệ Tử - Thiền Sư thực hành theo phương pháp của Ngài đã giác ngộ Niết Bàn.

Đức Phật đã giảng dạy hai phương pháp thiền: Chỉ Tịnh (Samatha) và Tuệ Quán (Vipassanâ). Đúng ra phương pháp Chỉ Tịnh đã có từ trước thời Đức Phật, nhưng Ngài vẫn tiếp tục truyền dạy vì thấy lợi ích của nó và đồng thời Ngài có cách để đưa nó vào con đường dẫn tới sự giải thoát. Phương pháp Tuệ Quán do chính Ngài phát hiện ra và được Ngài phẩm định là một "con đường duy nhất (Ekâyânomaggo) để chúng sinh tự thanh lọc để diệt trừ đau khổ, để thành đạt trí tuệchứng ngộ Niết Bàn" (Kinh Niệm Xứ ‘Satipaṭṭhâna Sutta’, Trung Bộ Kinh số 10).

Bài này xin đề cập đến tinh yếu của loại thiền thứ hai này và thử đi tìm chỗ giao thoa giữa 2 phương pháp.

-ooOoo-

Những Phương Tiện

Chúng ta từ sáng tới tối, từ sinh ra cho tới chết đi, lúc nào cũng bị ngoại cảnh lôi cuốn. Từ sự nghe, thấy, ngửi, nếm, đụng, cho tới suy nghĩ cũng đều từ cái thế giới bên ngoài. Chưa lúc nào chúng ta có dịp ngồi lại nhìn cái thế giới nội tại. Thiền chính là lúc chúng ta làm công việc này. Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện: sự cố gắng, sự ghi nhận và sự giác tỉnh. Đây là 3 khả năng của tâm thứcnếu không phát triển dùi mài, làm cho điêu luyện thì không thể nào thấy được thực tướng của sự vật và con tâm.

Khi chúng ta làm việc gì với sự cố gắng, chúng ta đều biết nó khác với lúc chúng ta làm với sự thờ ơ chểnh mảng; chúng ta cảm thấy có một nhiệt tình, một hăng hái nào đó trong tâm. Sự cố gắng nầy Phật Giáo gọi là TINH TẤN (Viriya), là một yếu tố rất quan trọng cho sự giác ngộ. Trong thiền tinh tấn không phải là ráng ngồi bất động càng lâu càng tốt, mà là cố gắng duy trì sự chú ý - ghi nhận (trên) các đề mục thiền và cũng không quên ghi nhận sự thay đổi hay biến mất của các đề mục này. Do đó ta có thể thay đổi tư thế từ ngồi sang đứng, sang đi hay sang nằm hoặc làm việc, ăn uống, tiêu tiểu, miễn là không đánh mất sự ghi nhận.

Sự ghi nhận là một khả năng khác của tâm, nó còn được gọi là NIỆM (Sati), là ý thức, nhận biết, nắm bắt đối tượng xuyên qua 6 cửa ngỏ của tâm. Năm cửa giúp chúng ta giao tiếp với thế giới bên ngoài ngay trong giây phút hiện tại và một cửa (ý) giúp ta nắm bắt các đối tượng nội tại ở trong cả 3 thời quá khứ, hiện tại, vị lai và cả những ý niệm trừu tượng, như ý niệm KHÔNG chẳng hạn hay những đối tượng vượt ngoài thời giankhông gian, như NIẾT BÀN chẳng hạn. Thể tánh của sự ghi nhậnCHÚ TÂM (attention). Nó là trụ cốt của thiền. Không có GHI NHẬN - CHÚ TÂM không có thiền. Sự ghi nhận giúp cho ta gom tâm vào đối tượng và sàng lọc những gì đối với tâm là quan trọng nhất lúc bấy giờ. Có lúc tâm chỉ phát hiện những gì mình ưa thích. Có lúc lại thấy nổi lên những gì mình ghét nhất dù rằng một cách vô thức. Bởi thế mà THAM và SÂN được có dịp để phát triển và tác hại. Nếu chúng ta biết khôn khéo tác ý đối tượng (Yonisomalasikara = như lý tác ý), thì công dụng của sự ghi nhận là ngăn chận bảo vệ tâm thoát khỏi hai lưỡng cực tham và sân. Đây là công dụng tích cực của thiền nhằm bảo vệrèn luyện tâm.

Trong Thiền Quán đối tượng không gì khác hơn là thân và tâm (hay các hiện tượng vật chấttinh thần) đang diễn biến không ngừng bên trong ta. Khi những vọng tưởng trở nên thưa dần, những ba động từ bên ngoài được sàng sẩy, thì thân và tâm xuất hiện ngày càng rõ rệt. Lúc đó ghi nhận - chú tâm giúp cho ta thấy rõ, hiểu rõ bản chất của THÂN TÂM. Những đặc tướng VÔ THƯỜNG, KHỔ và VÔ NGÃ không còn là những danh từ vô nghĩachúng hiện ra dưới con mắt bàng hoàng của kẻ quan sát.

Sự ghi nhận - chú tâm giữ một vai trò quan trọng trong sự rèn luyệnkiểm soát tâm. Trong một bài kinh, Đức Phật dạy một vị Tỳ Khưu: "Khi nghe hãy dừng lại ở sự nghe; khi thấy dừng lại ở sự thấy; khi ngửi, nếm, đụng, dừng lại ở ngửi, nếm, đụng". Việc này chỉ có thể làm được nhờ sự ghi nhận - chú tâm. Thật vậy, sự chú tâm soi sáng giai đoạn chuyển tiếp từ tư tưởng sang hành động, có thể giúp ngăn chận những hành động hay lời nói làm hại đến chính mình hay làm đau khổ thiệt hại đến người khác. Theo tâm lý học Phật giáo không bao giờ có hiện tượng "khẩu xà tâm Phật" vì trước khi lời nói ác độc được thốt ra, nó đã được hình thành trong tâm tư rồi dù rất nhanh lẹ.

Trong giai đoạn thực tập, nó có thể làm chậm lại sự hành động, nhưng một khi đã trở thành thói quen thuần thục, nó giúp cho ta ngăn chận một cách hiệu quảquyết định mau lẹ rời bỏ những tư tưởng và hành động xấu xa. Trong thực hành muốn dừng lại ở sự nghe, sự thấy, sự ngửi nếm đụng không phải dễ, điều này có nghĩa là dùng chánh niệm để ghi nhân sự thấy (nhãn thức) ngay khi nó xuất hiện do sự tiếp xúc của nhãn căn với nhãn trần lúc này đối tượng vẫn còn là chân đế, tâm vẫn còn thọ xả cho dù đối tượng có tốt hay xấu, nó chưa bị ô nhiễm hay phiền não chen vào. Nó chưa bị tâm hành chi phối, tâm hành là đã có sự phân biêt chọn lựa, thương hay ghét. Một trong những "phương pháp" của Thiền Sư Thích Thanh Từ là: "Đối cảnh không sinh tâm", nếu không nhờ chú tâm chánh niệm thì làm sao có thể không sinh tâm được? Tâm đây chính là tâm hành, một thành phần của ngũ uẩn.

Làm sao chỉ một công việc đơn giảnCHÚ TÂM - GHI NHẬN có thể giải thoát con người khỏi vòng sinh tử luân hồi? Như chúng ta đã biết định luật "Thập Nhị Nhân Duyên" trói buộc con người trong vòng sanh tử bằng 12 móc xích: VÔ MINH => HÀNH => THỨC => DANH SẮC=> LỤC NHẬP=> XÚC=> THỌ=> ÁI=> THỦ=> HỮU=> SINH=> LÃO TỬ... (--> vô minh). Chính nhờ sự CHÚ TÂM can thiệp, cắt đứt gạch nối giữa hai móc xích THỌ -/-> ÁI mà con người mới được giải thoát khỏi vòng sinh tử khổ đau. Như chúng ta đã biết, thọ có 3 loại: lạc, khổ và xả. THỌ LẠC đưa tới ái dục, ưa thích, dính mắc. THỌ KHỔ đưa tới sân ưu, thù hận, ghét bỏ. Cả hai đều đưa tới sự chấp thủ (THỦ), tạo nghiệp (HỮU) Một đàng tạo nghiệp THAM, một đàng tạo nghiệp SÂN. Cả hai đàng đều dẫn vào luân hồi. Sự chú tâm, nhờ được rèn luyện tinh tế, sẽ giúp ngăn chận hữu hiệu sự tạo nghiệp xấu này. Đức Phât có giảng rõ điều này trong bài kinh "Thế Giới'" (Tương Ưng bộ kinh IV, Thích Minh Châu, trang 94) "...Và này các tỳ kheo, thế nào là thế giới đoạn diệt? Do duyên Mắt và các Sắc khởi lên nhãn thức. Do ba cái hợp lại (căn, trần, thức) nên có XÚC. Do duyên xúc nên có THỌ. Do duyên thọ nên có ÁI . Do sự đoạn diệt ly tham ái ấy một cách hoàn toàn nên THỦ diệt, Do thủ diệt nên HỮU diệt, Do hữu diệt nên SANH diệt, Do sanh diệt nên GIÀ, CHẾT, SẦU, BI, KHỔ, ƯU NÃO diệt. Như vây toàn bộ ngũ uẩn này đoạn diệt. Này các tỳ kheo, đây là thế giới đoạn diệt.

Bởi thế một tinh yếu khác của thiền là phải ghi nhận cho được cảm thọ trong mọi hoàn cảnh. Mỗi khi có sự tiếp xúc giữa giác quan (lục căn) và cảnh trần (lục trần), phải cố gắng ghi nhận cho được cảm thọ. Cảm thọ của thân và cảm thọ của tâm: từ dễ chịu cho tới khó chịu, từ hỷ lạc cho tới đau đớn, khổ sở cùng tột. Cảm thọ nào rồi cũng đi qua. Những cảm giác sung sướng, khoái lạc đi qua rất nhanh, chỉ còn lại một cảm giác đại đồng, âm ỉ, bao trùm: KHỔ. Khi sung sướng, hạnh phúc, muốn kéo dài không được cũng khổ. Cây muốn lặng mà gió không ngừng cũng khổ. Tâm xao động, bứt rứt; ý tưởng thù hận hay ăn năn, hối tiếc cứ nổi dậy quay cuồng trong tâm, đôi khi phải dùng cái chết mới chấm dứt được. Cái khổ xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng. Bao giờ chúng ta thấy tất cả các khía cạnh của khổ trong sự tỉnh giác hoàn toàn từ KHỔ THỌ, KHỔ HÀNH, KHỔ TƯỚNG, cho tới cuối cùngKHỔ ĐẾ thì NIẾT BÀN sẽ hiện ra ở ngưỡng cửa cuối cùng.

Một bí quyết để đi tới sự thật cùng tột là duy trì sự liên tục của chú niệm. Muốn như thế phải có sự cố gắng như đã nói ở trên, và phải liên tục ghi nhận THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP. Đằng sau thân là thọ, đằng sau tâm là thọ, đằng sau pháp là thọ và đằng sau thọ ẩn nấp THAM và SÂN, cũng như ẩn nấp VÔ THƯỜNG, KHỔ, và VÔ NGÃ.

Đi chung với sự chú tâm - ghi nhận là sự GIÁC TỈNH (Sampajañña: claire compréhension). Dĩ nhiên, khi có sự chú tâm thì trí não sẽ hiểu rõ những gì đang xảy ra bên trong và xung quanh ta. Công việc nầy, khoa học tâm thần (neuroscience) gọi là xử lý các dữ kiện (traitement des informations) là một nhiệm vụ quan trọng của tâm. Đây chính là yếu tố trí tuệ trong Phật Giáo; nó có 4 chi:

1) Hiểu biết rõ ràng về mụ̣c đích (Sâtthaka Sampajañña): trong đời sống có người không biết sống để làm gì? khi làm một việc gì đó, không biết làm để làm gì? Thiền cũng vậy, không biết với mục đích gì? Thấy người khác làm thì bắt chước vì thấy hay hay. Cho nên trong khi làm, nếu có một cái gì đó có vẻ thích thú hơn thì người đó chạy theo cái thích thú mới và cứ như thế tiếp tục cho đến hết cuộc đời. Mục đích của thiền rất rõ ràng là thiêu đốt phiền não, tiêu diệt THAM, SÂN, SI. Có môn phái thiền cho rằng thiền không nhằm mục đích gì cả. Thật ra, đó chỉ là một cách nói để cho thiền sinh đừng vọng móng, nếu không họ thiền để làm gì?

2) Hiểu biết rõ ràng những điều kiện (Sappâya Sampajañña) thích hợp về thời gian, không gianphương tiện để thực hiện mục đích trên. Một hành động, cử chỉ hay lời nói đều nhằm một mục đích nào đó, nếu khôngtrở thành vô ích. Trong thiền ta đã biết rõ mục đích, vậy thì bất cứ điều gì cần cho mục đích ấy hay cần cho sự liên tục của pháp hành thì cứ làm. Ngoài ra đều nên tránh. Đức Phật dạy rằng nếu điều kiện nơi chốn thuận tiện, thức ăn thích hợphành giả vẫn không thấy pháp thì tốt hơn nên rời bỏ nơi ấy. Ngược lại, nếu nơi chốn không tốt, thức ăn không thích hợphành giả hành thấy pháp thì nên tiếp tục ở lại kiên trì. Điều này có nghĩa là những điều kiện vật chất không đáng kể bằng những điều kiện tinh thần như giới đức, một vị thầy, một phương pháp thiền...

3) Hiểu biết rõ ràng về lãnh vực quán niệm (Gocara Sampajañña). Điều này có thể được hiểu là biết rõ lúc nào chúng ta đang ở trong thiền và lúc nào đã xuất thiền. Ở trong thiền có nghĩa là chúng ta không xa rời đề mục. Xuất thiền là chúng ta đã ra ngoài đề mục và ra ngoài mục đích. Nếu đề mục là thân và tâm, chúng ta đã ra khỏi thân tâm. Nếu mục đíchdiệt trừ phiền não, thì chúng ta đã ra khỏi mục đích này. Trên thực tế nếu hành TỨ NIỆM XỨ thì lúc nào chúng ta cũng có thể ở trong thiền được; vì những lãnh vực của thiền tứ niệm xứ bao gồm tất cả những sinh hoạt của đời sống. Càng luyện tập thì những lãnh vực của thiền càng ngày càng mở rộng để bao trùm tất cả mọi sinh hoạt. Đến khi thuần thục thì chúng ta có thể "sống thiền" liên tục, trừ lúc ngủ. Hành thiền Chỉ Tịnh thì không thể được như vậy; vì càng luyện tập thì lãnh vực của thiền càng chuyên sâu, đến độ phải đóng kín cả 5 cửa của giác quan để chỉ giữ một cửa ý. Do đó càng ngày càng phải xa lánh đời sống thế tục ồn ào để ẩn cư nơi chốn sơn lâm tĩnh mịch.

4) Hiểu biết rõ ràng về thực tại (Asammoha Sampajañña): hiểu rõ có đúng sự thật hay những gì mình thấy, mình cảm nhận chỉ là một ảo giác, ảo tưởng; tức là hiểu biết sự vật đúng như nó là như vậy, không thêm không bớt, không qua lăng kính ngã chấp, không theo nhãn quan tình cảm: Một cái nhìn "chánh kiến".

Sự Quân Bình Giữa Ngũ Căn

Tinh yếu sau cùng của thiền TỨ NIỆM XỨ là sự giữ quân bình giữa ngũ căn: TÍN, TẤN, NIỆM, ĐỊNH và TUỆ. Khi ngũ căn quân bình với nhau, thì niệm sẽ làm việc một cách tự nhiên không cố gắng, khi ấy tuệ sẽ phát.

Vào thời Đức Phật, có Đại Đức SONA KOLIVISA rất là tinh tấn, ngài cố gắng quá sức cả thân và tâm trong khi hành thiền nhưng vẫn không có kết quả. Ngày kia ngài có ý định từ bỏ cuộc sống phạm hạnh để trở về với gia đình. Đức Phật biết được ý định của ông, bèn xuất hiện dạy dỗ: "Có phải khi còn là cư sĩ, con rất giỏi về nhạc khí không? Con nghĩ thế nào, này SONA, khi cây đàn của con lên dây cao quá mức, con có thể đàn đúng âm điệu không? Và con nghĩ thế nào, này SONA, khi cây đàn của con lên dây thấp quá, con có thể đàn đúng âm điệu không?" - "Bạch Ngài, không" - "Cũng như thế ấy, này SONA, cố gắng quá mức làm cho thân tâm căng thẳng và không đủ cố gắng sẽ sinh ra dã dượi, lười biếng. Thấu hiểu sự quân bình của các căn, con sẽ thành đạt mục tiêu bằng cách kiên trìđều đặn tinh tấn". Theo lời chỉ dạy của Đức Phật, về sau Đại Đức SONA KOLIVISA đắc quả A La Hán (Vinaya text II, Anguttara 55).

TÍN là niềm tin của hành giả nơi Phật, Pháp, Tăng:

- Phật là sự giác ngộ, sự giải thoát.

Tin nơi Phật, hành giả tin rằng sự giác ngộgiải thoát là có thật và mục đích của hành thiền là đi đến sự giác ngộ để thấy rõ bản chất BẤT TỊNH, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ của thân tâm này, đi đến sự giải thoát khỏi THAM, SÂN, SI. Vì là một cái gì còn ở ngoài tầm tay người hành thiền, nên họ chỉ phải tin. Đây không phải là một niềm tin mù quáng, vô căn cứ, mà nó được xác nhận bởi Đức Phậtvô số các thế hệ thiền sư chứng đắc.

- Pháp là con đường, là phương pháp dẫn tới sự giác ngộ.

Tin nơi Pháp, hành giả tin rằng phương pháp mình đang theo phù hợp với những giáo huấn của Đức Phật. Hành giả có thể kiểm chứng qua kinh điển do Đức Phật truyền lại rải rác trong Tam Tạng Pháp Bảo và đã được sao lục bởi các học giả Phật Giáo.

- Tăng là tập thể những người cùng hành đạo, bao gồm các vị thiền sư tu sĩcư sĩ. Tuệ Trung Thượng Sĩ, thầy của vua Trần Nhân Tông (Trúc Lâm đệ nhất tổ) là một cư sĩ. Goenka, một thiền sư hiện đại nổi tiếng, đệ tử của thiền sư U BA KHIN, cả hai đều là cư sĩ. Bà ACHAAN NAEB, thầy của vô số tăng ni phật tử Thái Lan và Việt Nam, là một cư sĩ đã chứng đắc.

Tin nơi Tăng, hành giả tin ở sự hiểu biếtkinh nghiệm của người thầy hướng dẫn mình, có thể giúp mình vượt qua những khó khăn trở ngại trên con đường tu tập. Đồng thời cũng tin tưởng nơi những bạn đạo đồng hành. Đôi khi những kinh nghiệm ngu dốt của họ lại là những ngu dốt của ta. Những trao đổi kinh nghiệm giữa các thiền sinh đôi khi hiệu quả hơn lời chỉ dạy của ông thầy (học thầy không tày học bạn).

TÍN ngoài ra còn là một niềm tin nơi khả năng của chính mình có thể đi hết con đường còn lại từ đây cho tới khi nhắm mắt. Con đường dù còn dài, con đường dù còn nhiều chông gai, sức ta còn, hơi ta chưa cạn, ta còn có thể cải thiện thân tâm này. Cũng như sự tích một nhà sư bị cọp vồ trong lúc đang hành thiền TỨ NIỆM XỨ. Mỗi một cú ngoạm xé của cọp vào da thịt của ngài là một lần để ngài tiếp tục hành thọ quán niệm xứ, cho đến khi thành đạo quả trước giây phút trút hơi thở cuối cùng trong miệng cọp.

Bốn yếu tố TÍN, TẤN, NIỆM, TUỆ (giác tỉnh) đã được đề cập tới, bây giờ xin đề cập đến yếu tố ĐỊNH.

Yếu tố ĐỊNH rất quan trọng để phân biệt hai loại thiền: Chỉ Tịnh (Samatha) và Tuệ Quán (Vipassanâ):

- Mục tiêu của thiền Chỉ Tịnh là đi đến TOÀN ĐỊNH (= An Chỉ Định: Apana Samâdhi), rồi từ đó có thể tiến đạt đến các tầng thiền sắc giớivô sắc giới, hoặc có thể phát triển các loại thần thông. Khi tâm ở trong trạng thái toàn định, nó cũng ngăn ngừa được các ác pháp THAM SÂN không cho sinh khởi. Nhưng khi ra khỏi trạng thái này, tâm vẫn bị ô nhiễm như cũ.

- Trước khi đến Toàn Định, tâm phải trải qua trạng thái CẬN ĐỊNH (Upacara Samâdhi). Cận Định là một trạng thái tâm an trụ khá vững chắc, mặc dù không sâu mạnh bằng tâm Toàn Định nhưng cũng có khả năng ngăn giữ những ô nhiễm ở bên ngoài tâm. Tâm Cận Định có thể an trụ trên đối tượng trong một thời gian khá lâu. Gọi là Cận Định bởi vì nó xảy ra trước tâm Toàn Định và chỉ có một đối tượng duy nhất không thay đổi, tùy theo hành giả đã chọn lựa trước hoặc do vị thầy đã ấn định trước khi vào thiền.

- Thiền Tuệ Quán không dùng hai loại ĐỊNH này, mà chỉ sử dụng CHẬP ĐỊNH (hay còn gọi là SÁT NA ĐỊNH: Khanika Samâdhi). Chập Định cũng có khả năng ngăn giữ những ô nhiễm ở ngoài tâm và cũng có khả năng an trụ trên đối tượng một cách lâu dài, nhưng khác một điều là đối tượng ở đây có thể thay đổi tùy theo tâm bắt được đối tượng nào trong 4 đối tượng THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP, ở giây phút hiện tại. Mục tiêu của thiền Tuệ Quán là thiêu đốt tận gốc phiền não, chí đến những phiền não ngủ ngầm trong tiềm thức. Một điều khác nữa, là khi một phiền não nào đã bị thiêu đốt thì nó bị triệt tiêu vĩnh viễn trong tâm, cũng giống như một khoảng nào đó của tâm được thắp sáng thì không có một bóng tối chen vào nữa. Theo một số thiền sư, CẬN ĐỊNH và CHẬP ĐỊNH có hiệu quả ngang nhau. Rất tiếc môn Thần Kinh Thần học (neurothéologie, môn khoa học mới, nghiên cứu những căn bản khoa học của các khả năng tâm linh) chưa đủ phát triển để kiểm nhận điều này, khiến cho một số thiền gia hoang mang, không biết mình có hành đúng phương pháp Thiền Tuệ không? Riêng tôi thiển nghĩ trong các mức độ Định, có một mức độ ngưỡng cửa (seuil) không nên vượt qua. Nếu vượt qua, tâm sẽ nhập thẳng vào TOÀN ĐỊNH, lúc đó tâm sẽ mất khả năng linh hoạt quan sát (tuệ) và hành giả rơi vào loại thiền Chỉ Tịnh. Đức Phật và những thiền sư chứng đắc cả hai loại thiền, nắm giữ bí quyết về điểm giao thoa giữa 2 phương pháp. Từ điểm này có thể tách ra để đi vào một trong 2 phương pháp CHỈ TỊNH hay TUỆ QUÁN. Trong Tạng Kinh, có những bài kinh Đức Phật nói về Thiền Chỉ Tịnh, có lẽ để giảng dạy các tỳ khưu đã chứng đắc, giúp các ngài gìn giữ sức khỏe, bảo tồn sinh khí mỗi khi đau yếu. Có những bài nói về thiền Tuệ Quán để giảng dạy cho tất cả những ai chưa chứng đắc. Điều này cần phải được nghiên cứu thêm.

Kết Luận

Tinh yếu của thiền trước hết là cố gắng thiết lập sự chú tâm ghi nhận trên một đề mục căn bản tùy theo phương pháp thiền trong chủ đích tiêu diệt tận gốc phiền não. Khi hội đủ 3 yếu tố cố gắng, ghi nhậngiác tỉnh thì ta gọi là có chánh niệm, một trong tám chi của Bát Chánh Đạo. Mỗi phương pháp có một đề mục căn bản:

- phương pháp Mahasi lấy sự Phồng Xẹp của bụng,
- phương pháp Goenka lấy Cảm Thọ,
- phương pháp Achaan Naeb lấy Tứ Oai Nghi,
- phương pháp Shwe-Oo-Min và
phương pháp của Thiền Tông lấy Tâm,
- phương pháp Zen lấy tư thế Ngồi (Zazen)...

Sau đó, duy trì sự liên tục của chánh niệm trên 4 đối tượng THÂN THỌ TÂM PHÁP, tùy theo đối tượng nào xuất hiện rõ ràng nhất trong giây phút hiện tại.

Cuối cùng, giữ trạng thái quân bình giữa 5 yếu tố TÍN, TẤN, NIỆM, ĐỊNH, TUỆ, để cho niệm làm việc một cách tự nhiên. Chánh niệm quan sát thân tâm, sự tác động giữa thân và tâm, giữa thân tâm với môi trường bên ngoài một cách khách quan cho đến khi phát hiện những sự thật. Những sự thật này chính là những tuệ giác. Theo kinh sách Nguyên Thủy, hành giả phải trải qua 16 cái tuệ mới có thể bước vào giòng thánh (Nhập Lưu) tương ứng với 7 giai đoạn thanh lọc của sách "Thanh Tịnh Đạo" (Visuddhimagga, Buddhaghosa). Lúc đó, vị này đã thanh lọc được 3 kiết sử (ô nhiễm): thân kiến, hoài nghigiới cấm thủ, và chỉ còn tái sinh lại 7 kiếp để hoàn thành công việc thanh lọc những kiết sử còn lại. Vị này chắc chắn không tái sinh vào 4 khổ cảnh và có thể tái sinh vào một cõi thiên giới hữu học nếu hội đủ những phước báu hữu lậu.

Phương pháp là như thế. Bây giờ chỉ còn chờ đợi sự chín muồi của Ba La Mật (công đức tu tập tích lũy từ muôn kiếp trước).

Nên nhớ rằng sự giải thoát tùy thuộc 3 điều kiện:

- hạnh nguyện giải thoát;
- sự quyết tâmkiên trì thực hiện hạnh nguyện này;
- đầy đủ Ba La Mật.

Nếu chúng ta cảm thấy công đức chưa đầy đủ, thì cố gắng tiếp tục bồi đắp thêm. Chỉ có thế thôi.

TUỆ THIỆN, 2003 

sửa chữa 27/05/2013

Nguồn: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22991)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14030)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12950)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55079)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9131)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14409)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14145)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14175)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13869)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36274)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19855)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18150)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19183)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19106)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20267)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17618)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31510)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15903)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14973)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14663)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46147)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35894)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21019)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21577)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23365)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34349)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19465)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18924)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22909)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20153)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18330)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19822)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19512)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33384)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34448)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54481)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37677)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21113)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17859)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63610)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17355)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49621)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27399)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20248)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22998)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18879)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16312)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17895)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20926)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17338)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14451)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16840)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16357)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15984)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17453)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21954)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15089)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13479)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14353)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15365)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14964)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12676)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13328)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27371)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12486)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13170)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14465)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16204)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12379)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15382)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12857)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12180)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21622)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11270)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22684)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15045)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14921)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46170)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22410)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14544)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12604)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18887)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14711)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43837)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56930)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13816)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47449)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13642)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14552)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28978)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33274)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38347)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15385)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31195)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12515)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40367)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43391)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46629)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14397)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant