Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đức Phật Báo Ân Cha Mẹ

22 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 12697)
Đức Phật Báo Ân Cha Mẹ

ĐỨC PHẬT
BÁO ÂN CHA MẸ

Toàn Không

(Lược Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)

tuong_nho_cha_me 

1)- NHÂN DUYÊN:

 Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật. Lại có vô số Thiên Long Bát Bộ. Tất cả đều vây quanh Phật từ trên không trung cho đến dưới đất, cung kính cúng dàng, tôn trọng khen ngợi đức Như Lai.

 Khi ấy, vào nửa buổi sáng, Tôn Giả A Nan Đà, Thị Giả của đức Thế Tôn vào thành Vương Xá theo thứ lớp đi khất thực. Đang khi khất thực, Tôn Giả thấy có hai mẹ con Bà La Môngia cảnh suy sút gia tài chánh kiệt nên phải đi ăn xin và cũng theo thứ lớp đi từng nhà xin bố thí thức ăn. Tôn giả để ý thấy mỗi khi nhận được món ăn ngon hay trái cây tươi người con dâng cho người mẹ, còn khi nhận được thức ăn không ngon hay quả héo thì người con ăn. Tôn Giả A Nan Đà thấy thế lòng sinh vui mừngtán thán khen ngợi rằng:

- Quý hóa thay! Quý hóa thay: Thiện nam tử cúng dàng cha mẹ, người con có hiếu với cha mẹ như thế rất là hiếm có, thực khó có người sánh kịp.

 Lúc đó, có một Phạm Chí nghe lời nói ấy, người này thuộc ngoại đạotà kiến khi có cơ hội thường hay ghen tỵ hủy báng Phật Pháp Tỳ Kheo Tăng, nên khi nghe những lời khen ngợi của Tôn Giả, người ấy liền nói với Tôn Giả rằng:

- Thầy của anh là Cù Đàm và những người trong dòng họ Thích tự cho là hay là giỏi, có những công đức lớn lao, chẳng qua cũng chỉ là có danh mà không có thực (hữu danh vô thực); Thầy Cù Đàm của anh mới là người bạc phước nếu không như vậy, tại sao người mẹ vừa mới sinh ra ông ta được có bảy ngày thì chết để ông ta phải côi cút, như thế chẳng phải là người bạc phúc là gì? v.v...

 Tôn Giả A Nan Đà nghe mấy lời như thế, im lặng không trả lời. Khi khất thực xong trở về chỗ Phật, sau khi lễ, Tôn Giả chắp tay bạch Phật:

- Thưa đức Thế Tôn, trong Phật pháp có sự hiếu dưỡng cha mẹ không? Kính xin Thế Tôn cho con được biết.

 Đức Phật hỏi:

- A Nan! Ai nói: khiến ông hỏi Ta điều ấy, hay ông tự đem trí lực của mình để hỏi Như Lai?

- Thưa Thế Tôn, đó là vừa rồi lúc đi khất thực ở giữa đường, con gặp ngoại đạo Tát Gia Ni Kiền Tử đem lời chê bai nhục mạ.

 Rồi Tôn Giả thuật hết những gì Tát Gia Ni Kiền Tử đã nói, khi nghe xong, đức Thế Tôn mỉm cười; từ giữa trán Ngài phóng ra hào quang năm màu (ngũ sắc) chiếu qua vô lượng cõi Phật (vô số giải Ngân Hà) về phương Đông tới thế giới Thắng Thượng có đức Phật hiệu Hỷ Vương tại nước Nghiêm Tịnh. Khi ấy có vô số Bồ Tát vây quanh thấy hào quang lạ chiếu soi đến làm cho tâm ý mọi người đều an lạc, nên đều đồng thanh bạch với Phật Hỷ Vương:

- Kính xin đức Thế Tôn chỉ dạy vì nhân duyên gì có hào quang chiếu soi này? 

 Đức Hỷ Vương nói:

- Ở về phương Tây cách đây vô lượng nghìn muôn cõi Phật, có một thế giới gọi là Sa Bà (có sách ghi là Ta Bà), có đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, hiện đang có vô số Bồ Tát, Nhân, Thiên Long Bát Bộ vây quanh. Nay Phật Thích Ca muốn vì đại chúng ấy nói Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, vì Phật Thích Ca muốn làm lợi ích chúng sinh, muốn nhổ tà nghi, muốn cho đại chúng phát Bồ Đề tâm kiên cố, muốn tất cả chúng sinh nhớ nghĩ trọng ân, vượt qua bể khổ, muốn tất cả chúng sanh hiếu dưỡng phụ mẫu v.v..., nên Phật Thích Ca phóng hào quang này.

 Bấy giờ một vạn (mười ngàn) Bồ Tátcõi Phật Hỷ Vương đứng dậy chắp tay bạch Phật xin được qua cõi Sa Bà để cúng dường chiêm bái Phật Thích Ca và để được nghe Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân. Phật Hỷ Vương bảo các Bồ Tát phải sinh lòng cung kính cúng dàng, nghĩ tưởng khó gặp, vì Phật Thích Ca đã từng ở trong vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp làm những việc khó làm và đã phát đại bi nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật sẽ ở cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai góc, chúng sinh ở cõi đó có đủ mọi phiền não ngũ nghịch, thập ác, tôi sẽ tu thành Phật ở đó để làm lợi ích, đoạn trừ phiền não cho họ, khiến tất cả chúng sanh đều được an vui...”, lời của Phật Thích Ca là như thế, các ông tới cõi ấy cũng như ở đây vậy.

 Khi ấy một vạn Bồ Tát đem theo vô số chúng Bồ Tát quyến thuộc, trước sau vây quanh mà đi, biến mất khỏi cõi Thắng Thượng. Khi đoàn Bồ Tát ấy đi ngang qua các cõi Phật khác, các thế giới ấy đều rung động (động đất) và nhạc trời vang khắp cõi ấy. Khi đoàn Bồ Tát đến chỗ Phật Thích Ca ngự tại núi Kỳ Xà Quật, tất cả đồng loạt lễ Phật, đi nhiễu ba vòng, rồi lui qua một phía ngồi.

 Đức Thế Tôn sau khi phóng hào quang về hướng Đông, Ngài quay hào quang qua hướng Nam qua tám mươi vạn ức cõi Phậtthế giới trang nghiêm Quảng ĐứcPhật hiệu Tu Di Tướng nơi nước Thiện Tịnh, cõi này vô cùng đẹp đẽ v.v.....

 Rồi đức Phật quay hào quang qua hướng Tây qua trăm vạn cõi Phật nơi có thế giới đẹp đẽ Tịnh Trụ của Phật Nhật Nguyệt Đăng Quang tại nước Diệu Hỷ, có đất bằng phẳng có bảy báu v.v...

 Sau nữa đức Như Lai quay phóng hào quang qua hướng Bắc qua năm trăm vạn ức na do tha (vô số) cõi Phật nơi có thế giới trang nghiêm Tự Tại Xưng Vương của Phật hiệu Hồng Liên Hoa Quang nơi nước Ly Cấu. Nơi này cũng giống như hai cõi trên, rất đẹp đẽ v.v....

 Cho đến phương Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương Trên (Thượng), phương Dưới (Hạ), tất cả mười phương, đức Thích Ca đều lần lượt phóng hào quang tới các cõi Phật trang nghiêm đẹp đẽ. Cả mười cõi đều có vô số Bồ Tát xin Phật ở cõi ấy được đi chiêm bái cúng dàng Phật Thích Ca và đều muốn được nghe Kinh Phật Báo Ân, như thế vô lượng Bồ Tátquyến thuộc Bồ Tát mười phương đồng loạt trước sau chỉ trong vòng khoảng chốc lát (một phút đồng hồ) đến cõi Sa Bà.

 Khi mười phương vô lượng Bồ Tát đến vây quanh rồi, thì mặt đất cõi Sa Bà này biến thành bằng phẳng, thanh tịnh, các chúng sinh nhận được hào quang, được thấy Phật nên sinh tâm vui mừng, chắp tay kính lễ.

 Sau khi vô lượng Chư Bồ Tát mười phương an vị đâu đó, đức Phật thu nhiếp hào quang ấy trở lại nhiễu quanh thân Ngài bảy vòng, rồi hào quang trở lại nơi đỉnh đầu của Ngài.

 Tôn Giả A Nan vì lợi ích chúng sinh nên đứng lên lễ Phật rồi Bạch:

- Mỗi khi Phật mỉm cười là có nguyên nhân, xin Thế Tôn chỉ dạy sự mỉm cười vừa rồi để trừ mối nghi cho đại chúng.

 Bấy giờ trước đức Phật tự nhiên có một hoa sen lớn bảy báu tự đất hóa sinh ra, rồi đức Phật Thích Ca từ tòa ngồi đứng dậy đi tới bước lên hoa sen và ngồi trên đài hoa sen ấy . Vừa ngồi xong Ngài hiện năm thân mỗi thân một phía, rồi từ mỗi thân kết hợp bởi vô số thân nhỏ, mỗi vô số thân nhỏ lại hợp bởi vô lượng thân nhỏ hơn nữa, mỗi vô lưọng thân nhỏ hơn nữa lại hợp bởi vô lương thân li ti như hạt cát hạt bụi.

 Sau khi hiện ra vô lượng thân như thế, đức Phật bảo đại chúng:

- Này Thiện nam tử, Như Lai khắp biết chân chính, tuyên nói lời chân thực rằng: “Pháp (mọi sự việc) vốn không ngôn thuyết (không thể nói được), Như Lai dùng phương tiện nhiệm mầu, dùng pháp không danh tướng mà nói danh tướng. Như Lai khi còn ở trong đường sinh tử, ở trong tất cả các loài chúng sanh, cũng đã chịu khổ đủ mọi thứ thân hình nhiều như cát bụi, vì phải chịu nhiều thân như thế, cho nên tất cả chúng sinh đã từng là cha mẹ của Như Lai, Như Lai cũng làm cha mẹ của chúng sanh. Vì cha mẹ nên Như Lai đã làm khổ hạnh khó làm, bỏ những sự khó bỏ như tay chân, mắt mũi, tủy não, thịt da, đầu mặt, quốc thành (đất nước thành quách), vợ con, cho đến voi ngựa, bảy báu, kiệu cáng, xe cộ, quần áo, thức ăn, thuốc thang, vật dụng, v.v..., cấp cho tất cả.

 Như Lai siêng tu trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ v.v..., cho đến đầy đủ vạn hạnh, thường không dừng nghỉ, tâm không mệt mỏi hiếu dưỡng cha mẹ, biết ơn đền trả, nên mới mau thành chính quả. Bởi chính chúng sinh là trọng ân của Như Lai nên Như Lai không thể bỏ chúng sinh. Như Lai đem tâm đại bi để cứu độ chúng sinh trong ba cõi (Trời, Thần, Người) mà không nghĩ đến công lao của mình. Như Lai tu học mọi phương tiện, thường tu hành từ bi bình đẳng, không chấp không cũng chẳng chấp có nên thấu suốt tất cả đều là huyển cho nên thấu suốt được thực tướng của mọi pháp, nên không thoái mất đại nguyện, không bỏ chúng sinh chìm đắm trong bể khổ.

 Như Lai tùy căn cơ của chúng sinh nói pháp, trước sau có khác, nhưng chúng sanh do bị ái dục che đậy, bị mê lầm làm chìm trong bể khổ, vì sao? Vì bốn thứ điên đảo: Đối với thân mình là vô ngã (không có cái ta), vô thường, khổ, bất tịnh (không sạch), chúng sinh lại cho là có cái ta, thường, vui, sạch sẽ thơm tho. Sinh già bệnh chết, thay đổi biệt ly, mỗi giây phút đổi khác, bị năm triền cái che đậy (Ngũ cái gồm: Tham ái, sân giận, hôn trầm, phóng dật, nghi ngờ) làm cho chìm đắm trong bể khổ luân hồi sinh tử như bánh xe quay không ngưng nghỉ.

 Do đó, Như Lai nói ba Tạng mười hai bộ Kinh, tùy theo nông cạn của chúng sanh, khiến cho chúng sinh có thể liễu ngộ được thực tướng của các pháp mà chứng Niết Bàn giải thoát. Bởi thế Như Lai chiêu tập tất cả chúng sinh hữu duyên trong mười phương hôm nay hội tụ trong đại chúng này, diễn nói chỉ bày chỉ dẫn những lời dạy bảo muôn đời lưu truyền khiến chúng sanh được đại an lạc, được giác ngộ giải thoát. Như Lai đã làm vô số việc không thể nghĩ bàn như từ cõi trời Đâu Xuất thị hiện xuống trần nơi cõi Diêm Phù Đề, nói ra vũ trụ vô biên, thế giới nhiều hơn cát sông Hằng, nói ra nghiệp báo nhân quả, chúng sinh vô lượng v.v...,tất cả đều là không thể nghĩ bàn.

 Này A Nan! nay ông phát ra được lời hỏi ấy, thực là do lòng đại bi thương xót chúng sanh, ông hãy nghe cho kỹ, Ta sẽ vì ông, các đại Bồ Tát, và tất cả đại chúng, mà lược nói về nhân duyên hiếu dưỡng cha mẹ:

2)- BÁO ÂN CHA MẸ:

 Về thời lâu xa, bấy giờ có một nước nọ tên là Ba Na Lại, trong nước đó có Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai (Cách nay 91 kiếp về trước = khoảng 6.5 tỷ năm). Khi đức Phật ấy nhập Niết Bàn đến thời tượng pháp, có một ông Vua tên là La Xà có rất nhiều đại thần, thống lãnh 16 nước phụ thuộc. Vua có ba người con đều làm Vua ở các nước phụ thuộc, Đại Vương La Xà dùng luật lệ nhân đức phân minh, không làm việc gì hại nước hại dân, nên được mưa thuận gió hòa, hoa mầu tốt tươi, nhân dân no ấm thanh bình.

 Bấy giờ, có một người đại Thần tên là La Hầu mưu phản, khởi nghịch dấy binh giết chết Vua La Xà, sau đem quân đến đánh các nước nhỏ giết chết người con lớn, kế đó bắt giết người con thứ hai.

 Khi ấy, người con út thứ ba đang làm Vua tại một nước nhỏ, Vua có thân hình đẹp đẽ, tính tình hiền lành phúc hậu, Vua dùng luật lệ nhân đức phân minh, cõi nước được thịnh vượng, nhân dân an lạc, Vua sinh được một Thái tử tên là Tu Xà Đềthân hình đẹp đẽ, mặt mũi nhân hậu sáng láng, tuấn tú thông minh, lúc ấy đã 17 tuổi, Vua cha mến yêu vô cùng.

 Bấy giờ Vua nằm mơ, mộng nghe có tiếng mách bảo việc Đại Thần La Hầu làm phản giết hại Đại Vương vua cha La Xà, La Hầu đã đem quân đi bắt giết hai người anh đang làm Vua ở hai nước kia, hiện tại La Hầu đang trên đường tiến tới để hại Vua. Trong mộng Vua hỏi: “Ông là ai mà sao chỉ nghe tiếng nói mà không thấy người?” thì có tiếng đáp rằng: “Tôi là Thần coi cung điện, Vua là người nhân đức nên tôi mới báo để mà liệu bề đối phó, nếu chậm sẽ không kịp nữa”.

 Sau khi Vua tỉnh dậy tự nghĩ: “Đây là sự thực, ta nên cấp thời lánh nạn qua nước láng giềng”. Lại tự nghĩ: “Đến nước láng giềng kia có hai đường đi, một lối phải mất 14 ngày, một lối chỉ mất có 7 ngày, ta nên đi một mình theo lối gần 7 ngày cho mau chóng”; nghĩ rồi, Vua ra lệnh cho làm một cách bí mật mau chóng cho mang lương thực cho đủ Vua ăn trong 7 ngày đến để ở một nơi ngoài thành cẩn thận.

 Khi chuẩn bị xong xuôi, nhà Vua trở vào trong hậu cung gọi Thái tử tới rồi ôm vào lòng, rồi đứng dậy, rồi ngồi xuống, có vẻ bối rối không yên, Phu nhân thấy Vua không an như thể có điều gì lo sợ, bà liền tới hỏi:

- Đại Vương hôm nay hình như có điều gì lo sợ nên đứng ngồi không yên, mặt mũi bơ phờ, tựa như giặc đến, xin Đại Vương cho thần thiếp biết.

 Vua bảo:

- Tôi có việc hệ trọng, nhưng không phải là việc phu nhân có thể biết được.

 Phu nhân nói:

- Thiếp cùng với Bệ hạ khác nào như hình với bóng, như chim với hai cánh, như thân thể với chân tay, như đầu với mắt. Hôm nay có việc hệ trọng như thế mà Bệ hạ lại không muốn cho thần thiếp được dự biết!?

 Vua nói:

- Phu nhân có biết chăng? Đại Thần La Hầu làm phản đã giết hại phụ Vương, lại đem quân đi bắt giết cả hai anh ta, nay bọn chúng đang cử binh mã đến đây bắt giết ta, nay ta muốn trốn tránh khỏi tai họa này. Vua nói rồi liền tức tốc nắm tay Thái tử kéo chạy đi. Phu nhân thấy thế cũng chay theo sau.

 Bấy giờ vì tâm thần hoảng hốt, vội vàng, Vua quên không lấy thêm thực phẩm; mới đi được ba ngày đã hết thực phẩm mang theo, vì lúc dự trù chỉ có một người ăn trong 7 ngày, lúc đó có tới ba người nên lương thực mau hết.

 Hai bên đường, cây cối trơ trụi, không một bóng người qua lại, đường đi gập ghềnh hiểm trở, ruồi muỗi nóng nực, lúc đó Vua và Phu nhân cất tiếng than khóc: “Thật là xót xa đau đớn, chúng ta từ khi sinh ra cho đến ngày nay chưa bao giờ bị khổ như thế này, tại sao thế hỡi trời?!, giờ đây đã đến lúc cùng đường, họa sắp tới nơi rồi!, biết làm sao đây? Than khóc rồi tự đấm ngực vỗ đầu, vật mình xuống đất tự trách: “Lũ chúng tôi kiếp trước gây nên nghiệp ác gì? Hay là đã giết cha mẹ, chân nhân? Hay là hủy báng bậc thượng tôn thánh hiền? Hay là đã làm nghề săn bắn chài lưới giết hại chúng sinh? Hay là giết người cướp đoạt của cải, v.v..., làm sao phải chịu họa này? Muốn dừng nghỉ một chút lại sợ oán gia ập tới, nếu để chúng bắt được sẽ bị chết, không còn nghi ngờ gì nữa! Nếu tiến bước chạy trốn, lại bị đói khát bức bách, tính mạng như chỉ treo mành!

 Vua và Phu nhân suy nghĩ những nỗi khổ não, buồn rầu than khóc đến phát xỉu ngã lăn xuống đất bất tỉnh, hồi lâu mới tỉnh lại. Vua tự nghĩ: “Nếu không lập kế sẽ không thoát khỏi nạn này”, rồi bảo Phu nhân: “Nếu không lập kế để sống còn thì không kịp nữa, cả ba đều chết”. Hai người bàn một lúc rồi Vua và Phu nhân đều thỏa thuận rằng: “Vua sẽ giết Phu nhân để lấy thịt cho Vua và Thái Tử ăn để bảo toàn tính mạng cho hai người, xong rồi, Vua tuốt gươm để giết Phu nhân. Thái Tử Tu Xà Đề thấy cử chỉ của Vua như vậy, vội vàng giữ tay nhà Vua lại mà hỏi: “Phụ Vương định làm gì thế? Vua buồn rầu vừa khóc vừa nói: “Ta định giết mẹ con để lấy thịt nuôi sống cha và con, nếu không giết mẹ con thì cả ba người đều chết mất thôi, vì không còn cách nào khác nữa!” Thái tử nói: “Nếu cha giết mẹ con, con thà chết đói chứ không bao giờ con ăn, vì chưa bao giờ có người con nào ăn thịt mẹ mình. Đã chẳng dám ăn thì con cũng sẽ chết mà thôi, vậy cha hãy giết con đi để cứu mạng cho mẹ”. Vua nghe nói vậy thì sầu não nói rằng: “Con cũng như con mắt của ta, chưa bao giờ có ai tự khoét mắt của mình để rồi lại tự ăn vậy, ta sẽ không bao giờ giết con để nuôi sống tính mạng của ta cả.

 Lúc ấy, Thái tử thưa với Vua và Phu nhân: “Con xin nguyện đem thân này để cúng dàng cha mẹ, chỉ xin cha mẹ chấp thuận cho con một điều”. Vua bảo: “Cha mẹ không làm trái ý con, con muốn điều gì cứ nói ra”. Thái tử thưa: “Cha mẹ đừng giết con mà chỉ mỗi ngày xẻo đủ thịt chia cho ba người ăn, hai phần dâng cha mẹ, một phần con ăn để tự nuôi sống”.

 Bấy giờ, Vua theo ý nguyện của Thái tử mà làm như vậy, nhưng sau ba ngày thì thịt ở thân thể Thái tử đã gần hết, chỉ còn chút ít thịt dính với xương. Vì quá kiệt sức, Thái tử ngã lăn ra đất bất tỉnh, Vua và Phu nhân ôm con kêu khóc mà nói: “Cha mẹ thật là người vô dụng, ăn cả thịt con, khiến con phải đau đớn đến chết đi như thế này, biết làm sao bây giờ? Nay đường còn chưa tới, thật là khổ sở trăm bề, chắc phải bỏ thân xác con lại đây thôi!”, hồi lâu, Thái tử tỉnh lại nói trong yếu ớt: “Thưa cha mẹ, con dâng thịt cúng dường cha mẹ đã đi được đến đây, tính ra chỉ còn một ngày nữa là tới nơi an toàn, mà thân con không còn cử động được nữa, chắc con bỏ mạng tại nơi đây, con không thể theo cha mẹ được nữa, xin cha mẹ đừng nghĩ ngợi theo thói thường tình, để rồi chết cả ở đây! Con kính xin cha mẹ một điều không nên trái lòng con, xin cha hãy cắt hết nốt những chỗ thịt còn lại dùng cho cha mẹ đủ sống trong một ngày nữa mà đi đến chỗ thoát nạn.”

 Bấy giờ vua cùng Phu nhân ôm Thái tử khóc nức nở không ngớt, nhưng rồi cũng phải nghe lời con đành lòng phải cắt nốt những thịt còn lại, rồi chia làm ba như trước, ăn rồi, nhà Vua và Phu nhân từ biệt con trong khóc than đau khổ mà đi, trong khi Thái tử nhỏm người lên nhìn cha mẹ xa dần cho đến khuất bóng, rồi ngã lăn ra bất tỉnh.

 Các loài côn trùng ruồi nhặng kiến v.v... đến bâu lại khắp thân thể để châm chích cắn ăn, khó chịu vô cùng, không thể nói cho xiết được. Tỉnh lại, Thái tử thấy thế liền lập lời thệ nguyện: “Nguyện đời trước có điều gì oán ác, từ đây sẽ trừ sạch hết, và từ nay trở đi sẽ không bao giờ làm ác nữa. Nay tôi đem thân này để cúng dàng cha mẹ, nguyện cha mẹ thường được mười một điều phúc đức, đó là:

01 – Khi ngủ được an vui.

02 – Khi thức được yên vui.

03 – Không thấy ác mộng.

04 – Chư vị Trời thường ủng hộ.

05 – Mọi người đều ái kính.

06 – Không gặp các tranh tụng.

07 – Không bị trộm cướp.

08 – Không bị giặc giã.

09 – Không bị mưu hại.

10 – Không bị tiêu diệt.

11 – Gặp mọi điều lành.

 Và còn bao nhiêu máu thịt còn lại tôi nguyện bố thí cho ruồi nhặng muỗi kiến và các côn trùng được no đủ, khiến đời sau tôi được thành Phật, rồi đem thức ăn bằng giáo pháp trừ trọng bệnh sinh tử đau khổ cho chúng sinh tất cả.”

 Khi Thái tử Tu Xà Đề phát nguyện như thế rồi, mặt đất sáu lần rung động, các loài cầm thú kêu vang chạy tứ tán, biển lớn nổi sóng dữ dội, núi Tu Di giao động rung chuyển.

 Bấy giờ Vua Trời Đạo Lợi, Thích Đề Hoàn Nhân đem chư Thiên xuống, giả làm hùm beo sư tử chó sói, gầm rống nhảy tới chỗ Thái tử như để bắt ăn thịt. Thái tử thấy thế mới nói: “Nếu các ngưoi muốn ăn thịt ta thì cứ ăn, sao lại làm ta sợ hãi như vậy?” Vua Đế Thích liền biến ra hình người và nói: “Ta không phải là thú dữ đâu, mà là Đế Thiên Thích đến đây để thử Thái tử mà thôi, Thái tử thấy Đế Thích nói như vậy thì vui mừng, Đế Thích hỏi Thái tử?

- Nhà ngươi bỏ được việc khó bỏ. Ngươi đem hết thịt cúng dàng cha mẹ, có công đức như thế để nguyện sinh làm Phạm Vương, Thiên Ma Vương, Thiên Vương, Chuyển Nhân Thánh Vương, hay Nhân Vương?

 Thái tử Tu Xà Đề trả lời:

- Tôi nay chẳng nguyện làm những thứ ấy, mà chỉ muốn cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề để cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau mà thôi.

 Vua Trời nói:

- Ngươi thật là đại ngôn, đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chánh Giác phải chịu cần khổ rất lâu dài, rồi sau mới thành được, làm sao Ngươi có thể chịu nổi những cần khổ ấy?

 Tu Xà Đề trả lời:

- Giả thử vòng sắt nung đỏ để trên đầu, nhưng không vì thế làm cho tôi thoái đạo Vô Thượng.

 Thiên Đế nói:

- Ngươi chỉ nói cho cố, nói suông, làm sao tin được?

 Bấy giờ Tu Xà Đề liền lập thệ nguyện:

- Nếu tôi nói dối Thiên Đế thì thân tôi sẽ mãi mãi bị chia lìa, còn không như vậy thì sẽ bình phục lại.

 Thái tử vừa thệ nguyện xong, thân thể từ từ lành lặn bình phục lại, Vua Trời thấy thế khen ngợi:

- Quý hóa thay! Ta không thể theo kịp Ngươi, Ngươi sẽ đạt đạo Vô Thượng theo ý nguyện, khi ấy nhớ độ cho ta.

 Bấy giờ Vua và Phu nhân đi đến nước kia được Vua nước kia tiếp đón ân cầncung cấp đầy đủ các thứ cần dùng xứng ý. Rồi Vua và Phu nhân thuật hết sự tình về việc nghịch thần gian ác, và việc chạy trốn xảy đến việc Thái tử tình nguyện chịu cắt thịt cứu cha mẹ đến phải hy sinh tính mạng.

 Vì cảm mến đức hạnh từ hiếu ấy mà Vua nước kia khởi lòng muốn giúp đỡ, khởi binh chính nghĩa đi đánh nghịch thần La Hầu gian ác. Thuận đường đi cùng đại quân, Vua và Phu nhân đi ngang qua chỗ Thái tử, nơi cha con, mẹ con từ biệt với ý nghĩ: “Con ta đã chết rồi, ta nên thu lượm xương cốt của con đem về quê hương.” Vì lòng thương con vô bờ bến, nên vừa đi tìm kiếm vừa kêu gào khóc than rất là thảm thiết. Nhưng bỗng xa trông thấy con còn sống, vội chạy đến ôm con vào lòng, vừa thương vừa mừng vừa khóc nức nở mà hỏi con rằng: “Con ơi! Con vẫn còn sống ư, làm thế nào con qua khỏi nạn này, thật là ngoài sức tưởng tượng của cha mẹ!?!”

 Thái tử liền kể hết sự việc cho Vua và Phu nhân nghe, nghe xong, Vua và Phu nhân hết sức vui mừng, rồi cùng nhau trở về nước, Thái tửphúc đức rất lớn như thế, nên chẳng bao lâu lấy lại được nước, Vua cha bèn lập Thái tử lên làm Vua trị vì thiên hạ.

 Bấy giờ đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà:

- A Nan nên biết, phụ Vương La Xà lúc bấy giờ, nay là cha Ta, Duyệt Đầu Đàn phu nhân lúc ấy, nay là mẹ ta, Ma Da phu nhân, còn Thái tử Tu Xà Đề, nay chính là Ta, Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Lại nữa, Vua Trời Đế Thích lúc ấy, nay là Ông Kiều Trần Như ngày nay, được Ta độ trước nhất vậy.

 

LỜI BÀN:

 Đọc Kinh trên, chúng ta nhận thấy:

1 – Khởi đầu của Kinh, chúng ta đã thấy đức Phật lúc đó là Thái tử Tu Xà Đề. Người được sinh vào làm con Vua và là Thái tử, tất phải là người đời trước đã làm được nhiều phúc đức mới được như thế.

2 – Sự báo hiếu của đức Phật đối với bậc cha mẹ thật là hiếm có trên đời, nếu không phải lúc ấy đức Phật đang hành hạnh Bồ Tát rồi thì không thể làm được việc chịu đựng đau đớn khủng khiếp như thế, một việc làm chỉ có bậc Bồ Tát mới làm được mà thôi.

3 – Một điểm cần nêu ra, đó là khi cắt thịt Thái tử vẫn còn đi được, và khi cắt hết thịt rồi mà vẫn còn sống được, nhất là sau đó tự nhiên lành lại, đó là một điều khó tin, tại sao? Vì khi cắt thịt, máu chảy ra hết là phải chết, thiết tưởng, trong trường hợp này chỉ có thể giải thích bằng sự mầu nhiệm nào đó, khiến Thái tử Tu Xà Đề không bị mất máu nhiều, đủ sức chịu đựng sự đau đớn, và sau là lành lại. Ở đây, chúng ta lại thấy trái với khoa học, nhưng nếu chúng ta chấp nhận những gì gọi là huyền bí mầu nhiệm do Chư Thiên làm, thì chúng ta phải chấp nhận trường hợp này.

4 – Từ thời đức Phật Tỳ Bà Thi (91 kiếp về trước = khoảng 6.5 tỷ năm)) đến thời đức Phật Thích Ca đã trải qua một thời gian quá lâu dài, điều này chứng tỏ đức Phật Thích Ca đã hành đạo Bồ Tát rất lâu dài mới đạt quả Phật.

5 – Trong bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển 2, Phẩm Lực, từ trang 533, đức Phật nói: “Do công đức che lọng cho Thần tự (chỗ thờ) của Bích Chi Phật mà được lưu chuyển trong Trời Người và làm Vua hoặc Đại Phạm Thiên Vương, hoặc Đế Thiên Thích, hoặc Chuyển Luân Thánh Vương (Đại Vương) mấy trăm nghìn lần; chúng ta thấy công đức cúng dàng Chư Phật, Bích Chi Phật, và A La Hán Thánh Hiềnvô lượng phúc đức vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25567)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37833)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19513)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18592)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14181)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20061)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9470)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14328)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35485)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10614)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19642)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23160)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13336)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10714)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20159)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10569)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9921)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14839)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17587)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17540)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13132)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31086)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25664)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13941)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17462)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10931)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12252)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10435)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12235)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11730)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9593)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12307)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9151)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8454)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9921)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9732)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11998)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14368)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9880)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11179)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8269)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10945)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14028)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9873)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15149)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12994)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23033)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23894)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12520)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15389)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17730)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14993)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16503)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16007)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17543)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11561)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11593)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17777)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10727)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10496)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11280)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12042)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11010)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36361)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8935)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9625)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34663)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17225)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10208)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10430)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12157)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13575)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14595)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9123)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24752)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11609)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10289)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15891)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15525)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14476)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12966)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12409)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14526)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18307)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9549)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18485)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18538)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18982)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18775)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11781)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13291)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47941)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11021)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13514)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13005)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11042)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12523)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11035)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31727)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11641)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant