Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Báo Ân Cha Mẹ

22 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 12724)
Đức Phật Báo Ân Cha Mẹ

ĐỨC PHẬT
BÁO ÂN CHA MẸ

Toàn Không

(Lược Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)

tuong_nho_cha_me 

1)- NHÂN DUYÊN:

 Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật. Lại có vô số Thiên Long Bát Bộ. Tất cả đều vây quanh Phật từ trên không trung cho đến dưới đất, cung kính cúng dàng, tôn trọng khen ngợi đức Như Lai.

 Khi ấy, vào nửa buổi sáng, Tôn Giả A Nan Đà, Thị Giả của đức Thế Tôn vào thành Vương Xá theo thứ lớp đi khất thực. Đang khi khất thực, Tôn Giả thấy có hai mẹ con Bà La Môngia cảnh suy sút gia tài chánh kiệt nên phải đi ăn xin và cũng theo thứ lớp đi từng nhà xin bố thí thức ăn. Tôn giả để ý thấy mỗi khi nhận được món ăn ngon hay trái cây tươi người con dâng cho người mẹ, còn khi nhận được thức ăn không ngon hay quả héo thì người con ăn. Tôn Giả A Nan Đà thấy thế lòng sinh vui mừngtán thán khen ngợi rằng:

- Quý hóa thay! Quý hóa thay: Thiện nam tử cúng dàng cha mẹ, người con có hiếu với cha mẹ như thế rất là hiếm có, thực khó có người sánh kịp.

 Lúc đó, có một Phạm Chí nghe lời nói ấy, người này thuộc ngoại đạotà kiến khi có cơ hội thường hay ghen tỵ hủy báng Phật Pháp Tỳ Kheo Tăng, nên khi nghe những lời khen ngợi của Tôn Giả, người ấy liền nói với Tôn Giả rằng:

- Thầy của anh là Cù Đàm và những người trong dòng họ Thích tự cho là hay là giỏi, có những công đức lớn lao, chẳng qua cũng chỉ là có danh mà không có thực (hữu danh vô thực); Thầy Cù Đàm của anh mới là người bạc phước nếu không như vậy, tại sao người mẹ vừa mới sinh ra ông ta được có bảy ngày thì chết để ông ta phải côi cút, như thế chẳng phải là người bạc phúc là gì? v.v...

 Tôn Giả A Nan Đà nghe mấy lời như thế, im lặng không trả lời. Khi khất thực xong trở về chỗ Phật, sau khi lễ, Tôn Giả chắp tay bạch Phật:

- Thưa đức Thế Tôn, trong Phật pháp có sự hiếu dưỡng cha mẹ không? Kính xin Thế Tôn cho con được biết.

 Đức Phật hỏi:

- A Nan! Ai nói: khiến ông hỏi Ta điều ấy, hay ông tự đem trí lực của mình để hỏi Như Lai?

- Thưa Thế Tôn, đó là vừa rồi lúc đi khất thực ở giữa đường, con gặp ngoại đạo Tát Gia Ni Kiền Tử đem lời chê bai nhục mạ.

 Rồi Tôn Giả thuật hết những gì Tát Gia Ni Kiền Tử đã nói, khi nghe xong, đức Thế Tôn mỉm cười; từ giữa trán Ngài phóng ra hào quang năm màu (ngũ sắc) chiếu qua vô lượng cõi Phật (vô số giải Ngân Hà) về phương Đông tới thế giới Thắng Thượng có đức Phật hiệu Hỷ Vương tại nước Nghiêm Tịnh. Khi ấy có vô số Bồ Tát vây quanh thấy hào quang lạ chiếu soi đến làm cho tâm ý mọi người đều an lạc, nên đều đồng thanh bạch với Phật Hỷ Vương:

- Kính xin đức Thế Tôn chỉ dạy vì nhân duyên gì có hào quang chiếu soi này? 

 Đức Hỷ Vương nói:

- Ở về phương Tây cách đây vô lượng nghìn muôn cõi Phật, có một thế giới gọi là Sa Bà (có sách ghi là Ta Bà), có đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, hiện đang có vô số Bồ Tát, Nhân, Thiên Long Bát Bộ vây quanh. Nay Phật Thích Ca muốn vì đại chúng ấy nói Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, vì Phật Thích Ca muốn làm lợi ích chúng sinh, muốn nhổ tà nghi, muốn cho đại chúng phát Bồ Đề tâm kiên cố, muốn tất cả chúng sinh nhớ nghĩ trọng ân, vượt qua bể khổ, muốn tất cả chúng sanh hiếu dưỡng phụ mẫu v.v..., nên Phật Thích Ca phóng hào quang này.

 Bấy giờ một vạn (mười ngàn) Bồ Tátcõi Phật Hỷ Vương đứng dậy chắp tay bạch Phật xin được qua cõi Sa Bà để cúng dường chiêm bái Phật Thích Ca và để được nghe Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân. Phật Hỷ Vương bảo các Bồ Tát phải sinh lòng cung kính cúng dàng, nghĩ tưởng khó gặp, vì Phật Thích Ca đã từng ở trong vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp làm những việc khó làm và đã phát đại bi nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật sẽ ở cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai góc, chúng sinh ở cõi đó có đủ mọi phiền não ngũ nghịch, thập ác, tôi sẽ tu thành Phật ở đó để làm lợi ích, đoạn trừ phiền não cho họ, khiến tất cả chúng sanh đều được an vui...”, lời của Phật Thích Ca là như thế, các ông tới cõi ấy cũng như ở đây vậy.

 Khi ấy một vạn Bồ Tát đem theo vô số chúng Bồ Tát quyến thuộc, trước sau vây quanh mà đi, biến mất khỏi cõi Thắng Thượng. Khi đoàn Bồ Tát ấy đi ngang qua các cõi Phật khác, các thế giới ấy đều rung động (động đất) và nhạc trời vang khắp cõi ấy. Khi đoàn Bồ Tát đến chỗ Phật Thích Ca ngự tại núi Kỳ Xà Quật, tất cả đồng loạt lễ Phật, đi nhiễu ba vòng, rồi lui qua một phía ngồi.

 Đức Thế Tôn sau khi phóng hào quang về hướng Đông, Ngài quay hào quang qua hướng Nam qua tám mươi vạn ức cõi Phậtthế giới trang nghiêm Quảng ĐứcPhật hiệu Tu Di Tướng nơi nước Thiện Tịnh, cõi này vô cùng đẹp đẽ v.v.....

 Rồi đức Phật quay hào quang qua hướng Tây qua trăm vạn cõi Phật nơi có thế giới đẹp đẽ Tịnh Trụ của Phật Nhật Nguyệt Đăng Quang tại nước Diệu Hỷ, có đất bằng phẳng có bảy báu v.v...

 Sau nữa đức Như Lai quay phóng hào quang qua hướng Bắc qua năm trăm vạn ức na do tha (vô số) cõi Phật nơi có thế giới trang nghiêm Tự Tại Xưng Vương của Phật hiệu Hồng Liên Hoa Quang nơi nước Ly Cấu. Nơi này cũng giống như hai cõi trên, rất đẹp đẽ v.v....

 Cho đến phương Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương Trên (Thượng), phương Dưới (Hạ), tất cả mười phương, đức Thích Ca đều lần lượt phóng hào quang tới các cõi Phật trang nghiêm đẹp đẽ. Cả mười cõi đều có vô số Bồ Tát xin Phật ở cõi ấy được đi chiêm bái cúng dàng Phật Thích Ca và đều muốn được nghe Kinh Phật Báo Ân, như thế vô lượng Bồ Tátquyến thuộc Bồ Tát mười phương đồng loạt trước sau chỉ trong vòng khoảng chốc lát (một phút đồng hồ) đến cõi Sa Bà.

 Khi mười phương vô lượng Bồ Tát đến vây quanh rồi, thì mặt đất cõi Sa Bà này biến thành bằng phẳng, thanh tịnh, các chúng sinh nhận được hào quang, được thấy Phật nên sinh tâm vui mừng, chắp tay kính lễ.

 Sau khi vô lượng Chư Bồ Tát mười phương an vị đâu đó, đức Phật thu nhiếp hào quang ấy trở lại nhiễu quanh thân Ngài bảy vòng, rồi hào quang trở lại nơi đỉnh đầu của Ngài.

 Tôn Giả A Nan vì lợi ích chúng sinh nên đứng lên lễ Phật rồi Bạch:

- Mỗi khi Phật mỉm cười là có nguyên nhân, xin Thế Tôn chỉ dạy sự mỉm cười vừa rồi để trừ mối nghi cho đại chúng.

 Bấy giờ trước đức Phật tự nhiên có một hoa sen lớn bảy báu tự đất hóa sinh ra, rồi đức Phật Thích Ca từ tòa ngồi đứng dậy đi tới bước lên hoa sen và ngồi trên đài hoa sen ấy . Vừa ngồi xong Ngài hiện năm thân mỗi thân một phía, rồi từ mỗi thân kết hợp bởi vô số thân nhỏ, mỗi vô số thân nhỏ lại hợp bởi vô lượng thân nhỏ hơn nữa, mỗi vô lưọng thân nhỏ hơn nữa lại hợp bởi vô lương thân li ti như hạt cát hạt bụi.

 Sau khi hiện ra vô lượng thân như thế, đức Phật bảo đại chúng:

- Này Thiện nam tử, Như Lai khắp biết chân chính, tuyên nói lời chân thực rằng: “Pháp (mọi sự việc) vốn không ngôn thuyết (không thể nói được), Như Lai dùng phương tiện nhiệm mầu, dùng pháp không danh tướng mà nói danh tướng. Như Lai khi còn ở trong đường sinh tử, ở trong tất cả các loài chúng sanh, cũng đã chịu khổ đủ mọi thứ thân hình nhiều như cát bụi, vì phải chịu nhiều thân như thế, cho nên tất cả chúng sinh đã từng là cha mẹ của Như Lai, Như Lai cũng làm cha mẹ của chúng sanh. Vì cha mẹ nên Như Lai đã làm khổ hạnh khó làm, bỏ những sự khó bỏ như tay chân, mắt mũi, tủy não, thịt da, đầu mặt, quốc thành (đất nước thành quách), vợ con, cho đến voi ngựa, bảy báu, kiệu cáng, xe cộ, quần áo, thức ăn, thuốc thang, vật dụng, v.v..., cấp cho tất cả.

 Như Lai siêng tu trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ v.v..., cho đến đầy đủ vạn hạnh, thường không dừng nghỉ, tâm không mệt mỏi hiếu dưỡng cha mẹ, biết ơn đền trả, nên mới mau thành chính quả. Bởi chính chúng sinh là trọng ân của Như Lai nên Như Lai không thể bỏ chúng sinh. Như Lai đem tâm đại bi để cứu độ chúng sinh trong ba cõi (Trời, Thần, Người) mà không nghĩ đến công lao của mình. Như Lai tu học mọi phương tiện, thường tu hành từ bi bình đẳng, không chấp không cũng chẳng chấp có nên thấu suốt tất cả đều là huyển cho nên thấu suốt được thực tướng của mọi pháp, nên không thoái mất đại nguyện, không bỏ chúng sinh chìm đắm trong bể khổ.

 Như Lai tùy căn cơ của chúng sinh nói pháp, trước sau có khác, nhưng chúng sanh do bị ái dục che đậy, bị mê lầm làm chìm trong bể khổ, vì sao? Vì bốn thứ điên đảo: Đối với thân mình là vô ngã (không có cái ta), vô thường, khổ, bất tịnh (không sạch), chúng sinh lại cho là có cái ta, thường, vui, sạch sẽ thơm tho. Sinh già bệnh chết, thay đổi biệt ly, mỗi giây phút đổi khác, bị năm triền cái che đậy (Ngũ cái gồm: Tham ái, sân giận, hôn trầm, phóng dật, nghi ngờ) làm cho chìm đắm trong bể khổ luân hồi sinh tử như bánh xe quay không ngưng nghỉ.

 Do đó, Như Lai nói ba Tạng mười hai bộ Kinh, tùy theo nông cạn của chúng sanh, khiến cho chúng sinh có thể liễu ngộ được thực tướng của các pháp mà chứng Niết Bàn giải thoát. Bởi thế Như Lai chiêu tập tất cả chúng sinh hữu duyên trong mười phương hôm nay hội tụ trong đại chúng này, diễn nói chỉ bày chỉ dẫn những lời dạy bảo muôn đời lưu truyền khiến chúng sanh được đại an lạc, được giác ngộ giải thoát. Như Lai đã làm vô số việc không thể nghĩ bàn như từ cõi trời Đâu Xuất thị hiện xuống trần nơi cõi Diêm Phù Đề, nói ra vũ trụ vô biên, thế giới nhiều hơn cát sông Hằng, nói ra nghiệp báo nhân quả, chúng sinh vô lượng v.v...,tất cả đều là không thể nghĩ bàn.

 Này A Nan! nay ông phát ra được lời hỏi ấy, thực là do lòng đại bi thương xót chúng sanh, ông hãy nghe cho kỹ, Ta sẽ vì ông, các đại Bồ Tát, và tất cả đại chúng, mà lược nói về nhân duyên hiếu dưỡng cha mẹ:

2)- BÁO ÂN CHA MẸ:

 Về thời lâu xa, bấy giờ có một nước nọ tên là Ba Na Lại, trong nước đó có Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai (Cách nay 91 kiếp về trước = khoảng 6.5 tỷ năm). Khi đức Phật ấy nhập Niết Bàn đến thời tượng pháp, có một ông Vua tên là La Xà có rất nhiều đại thần, thống lãnh 16 nước phụ thuộc. Vua có ba người con đều làm Vua ở các nước phụ thuộc, Đại Vương La Xà dùng luật lệ nhân đức phân minh, không làm việc gì hại nước hại dân, nên được mưa thuận gió hòa, hoa mầu tốt tươi, nhân dân no ấm thanh bình.

 Bấy giờ, có một người đại Thần tên là La Hầu mưu phản, khởi nghịch dấy binh giết chết Vua La Xà, sau đem quân đến đánh các nước nhỏ giết chết người con lớn, kế đó bắt giết người con thứ hai.

 Khi ấy, người con út thứ ba đang làm Vua tại một nước nhỏ, Vua có thân hình đẹp đẽ, tính tình hiền lành phúc hậu, Vua dùng luật lệ nhân đức phân minh, cõi nước được thịnh vượng, nhân dân an lạc, Vua sinh được một Thái tử tên là Tu Xà Đềthân hình đẹp đẽ, mặt mũi nhân hậu sáng láng, tuấn tú thông minh, lúc ấy đã 17 tuổi, Vua cha mến yêu vô cùng.

 Bấy giờ Vua nằm mơ, mộng nghe có tiếng mách bảo việc Đại Thần La Hầu làm phản giết hại Đại Vương vua cha La Xà, La Hầu đã đem quân đi bắt giết hai người anh đang làm Vua ở hai nước kia, hiện tại La Hầu đang trên đường tiến tới để hại Vua. Trong mộng Vua hỏi: “Ông là ai mà sao chỉ nghe tiếng nói mà không thấy người?” thì có tiếng đáp rằng: “Tôi là Thần coi cung điện, Vua là người nhân đức nên tôi mới báo để mà liệu bề đối phó, nếu chậm sẽ không kịp nữa”.

 Sau khi Vua tỉnh dậy tự nghĩ: “Đây là sự thực, ta nên cấp thời lánh nạn qua nước láng giềng”. Lại tự nghĩ: “Đến nước láng giềng kia có hai đường đi, một lối phải mất 14 ngày, một lối chỉ mất có 7 ngày, ta nên đi một mình theo lối gần 7 ngày cho mau chóng”; nghĩ rồi, Vua ra lệnh cho làm một cách bí mật mau chóng cho mang lương thực cho đủ Vua ăn trong 7 ngày đến để ở một nơi ngoài thành cẩn thận.

 Khi chuẩn bị xong xuôi, nhà Vua trở vào trong hậu cung gọi Thái tử tới rồi ôm vào lòng, rồi đứng dậy, rồi ngồi xuống, có vẻ bối rối không yên, Phu nhân thấy Vua không an như thể có điều gì lo sợ, bà liền tới hỏi:

- Đại Vương hôm nay hình như có điều gì lo sợ nên đứng ngồi không yên, mặt mũi bơ phờ, tựa như giặc đến, xin Đại Vương cho thần thiếp biết.

 Vua bảo:

- Tôi có việc hệ trọng, nhưng không phải là việc phu nhân có thể biết được.

 Phu nhân nói:

- Thiếp cùng với Bệ hạ khác nào như hình với bóng, như chim với hai cánh, như thân thể với chân tay, như đầu với mắt. Hôm nay có việc hệ trọng như thế mà Bệ hạ lại không muốn cho thần thiếp được dự biết!?

 Vua nói:

- Phu nhân có biết chăng? Đại Thần La Hầu làm phản đã giết hại phụ Vương, lại đem quân đi bắt giết cả hai anh ta, nay bọn chúng đang cử binh mã đến đây bắt giết ta, nay ta muốn trốn tránh khỏi tai họa này. Vua nói rồi liền tức tốc nắm tay Thái tử kéo chạy đi. Phu nhân thấy thế cũng chay theo sau.

 Bấy giờ vì tâm thần hoảng hốt, vội vàng, Vua quên không lấy thêm thực phẩm; mới đi được ba ngày đã hết thực phẩm mang theo, vì lúc dự trù chỉ có một người ăn trong 7 ngày, lúc đó có tới ba người nên lương thực mau hết.

 Hai bên đường, cây cối trơ trụi, không một bóng người qua lại, đường đi gập ghềnh hiểm trở, ruồi muỗi nóng nực, lúc đó Vua và Phu nhân cất tiếng than khóc: “Thật là xót xa đau đớn, chúng ta từ khi sinh ra cho đến ngày nay chưa bao giờ bị khổ như thế này, tại sao thế hỡi trời?!, giờ đây đã đến lúc cùng đường, họa sắp tới nơi rồi!, biết làm sao đây? Than khóc rồi tự đấm ngực vỗ đầu, vật mình xuống đất tự trách: “Lũ chúng tôi kiếp trước gây nên nghiệp ác gì? Hay là đã giết cha mẹ, chân nhân? Hay là hủy báng bậc thượng tôn thánh hiền? Hay là đã làm nghề săn bắn chài lưới giết hại chúng sinh? Hay là giết người cướp đoạt của cải, v.v..., làm sao phải chịu họa này? Muốn dừng nghỉ một chút lại sợ oán gia ập tới, nếu để chúng bắt được sẽ bị chết, không còn nghi ngờ gì nữa! Nếu tiến bước chạy trốn, lại bị đói khát bức bách, tính mạng như chỉ treo mành!

 Vua và Phu nhân suy nghĩ những nỗi khổ não, buồn rầu than khóc đến phát xỉu ngã lăn xuống đất bất tỉnh, hồi lâu mới tỉnh lại. Vua tự nghĩ: “Nếu không lập kế sẽ không thoát khỏi nạn này”, rồi bảo Phu nhân: “Nếu không lập kế để sống còn thì không kịp nữa, cả ba đều chết”. Hai người bàn một lúc rồi Vua và Phu nhân đều thỏa thuận rằng: “Vua sẽ giết Phu nhân để lấy thịt cho Vua và Thái Tử ăn để bảo toàn tính mạng cho hai người, xong rồi, Vua tuốt gươm để giết Phu nhân. Thái Tử Tu Xà Đề thấy cử chỉ của Vua như vậy, vội vàng giữ tay nhà Vua lại mà hỏi: “Phụ Vương định làm gì thế? Vua buồn rầu vừa khóc vừa nói: “Ta định giết mẹ con để lấy thịt nuôi sống cha và con, nếu không giết mẹ con thì cả ba người đều chết mất thôi, vì không còn cách nào khác nữa!” Thái tử nói: “Nếu cha giết mẹ con, con thà chết đói chứ không bao giờ con ăn, vì chưa bao giờ có người con nào ăn thịt mẹ mình. Đã chẳng dám ăn thì con cũng sẽ chết mà thôi, vậy cha hãy giết con đi để cứu mạng cho mẹ”. Vua nghe nói vậy thì sầu não nói rằng: “Con cũng như con mắt của ta, chưa bao giờ có ai tự khoét mắt của mình để rồi lại tự ăn vậy, ta sẽ không bao giờ giết con để nuôi sống tính mạng của ta cả.

 Lúc ấy, Thái tử thưa với Vua và Phu nhân: “Con xin nguyện đem thân này để cúng dàng cha mẹ, chỉ xin cha mẹ chấp thuận cho con một điều”. Vua bảo: “Cha mẹ không làm trái ý con, con muốn điều gì cứ nói ra”. Thái tử thưa: “Cha mẹ đừng giết con mà chỉ mỗi ngày xẻo đủ thịt chia cho ba người ăn, hai phần dâng cha mẹ, một phần con ăn để tự nuôi sống”.

 Bấy giờ, Vua theo ý nguyện của Thái tử mà làm như vậy, nhưng sau ba ngày thì thịt ở thân thể Thái tử đã gần hết, chỉ còn chút ít thịt dính với xương. Vì quá kiệt sức, Thái tử ngã lăn ra đất bất tỉnh, Vua và Phu nhân ôm con kêu khóc mà nói: “Cha mẹ thật là người vô dụng, ăn cả thịt con, khiến con phải đau đớn đến chết đi như thế này, biết làm sao bây giờ? Nay đường còn chưa tới, thật là khổ sở trăm bề, chắc phải bỏ thân xác con lại đây thôi!”, hồi lâu, Thái tử tỉnh lại nói trong yếu ớt: “Thưa cha mẹ, con dâng thịt cúng dường cha mẹ đã đi được đến đây, tính ra chỉ còn một ngày nữa là tới nơi an toàn, mà thân con không còn cử động được nữa, chắc con bỏ mạng tại nơi đây, con không thể theo cha mẹ được nữa, xin cha mẹ đừng nghĩ ngợi theo thói thường tình, để rồi chết cả ở đây! Con kính xin cha mẹ một điều không nên trái lòng con, xin cha hãy cắt hết nốt những chỗ thịt còn lại dùng cho cha mẹ đủ sống trong một ngày nữa mà đi đến chỗ thoát nạn.”

 Bấy giờ vua cùng Phu nhân ôm Thái tử khóc nức nở không ngớt, nhưng rồi cũng phải nghe lời con đành lòng phải cắt nốt những thịt còn lại, rồi chia làm ba như trước, ăn rồi, nhà Vua và Phu nhân từ biệt con trong khóc than đau khổ mà đi, trong khi Thái tử nhỏm người lên nhìn cha mẹ xa dần cho đến khuất bóng, rồi ngã lăn ra bất tỉnh.

 Các loài côn trùng ruồi nhặng kiến v.v... đến bâu lại khắp thân thể để châm chích cắn ăn, khó chịu vô cùng, không thể nói cho xiết được. Tỉnh lại, Thái tử thấy thế liền lập lời thệ nguyện: “Nguyện đời trước có điều gì oán ác, từ đây sẽ trừ sạch hết, và từ nay trở đi sẽ không bao giờ làm ác nữa. Nay tôi đem thân này để cúng dàng cha mẹ, nguyện cha mẹ thường được mười một điều phúc đức, đó là:

01 – Khi ngủ được an vui.

02 – Khi thức được yên vui.

03 – Không thấy ác mộng.

04 – Chư vị Trời thường ủng hộ.

05 – Mọi người đều ái kính.

06 – Không gặp các tranh tụng.

07 – Không bị trộm cướp.

08 – Không bị giặc giã.

09 – Không bị mưu hại.

10 – Không bị tiêu diệt.

11 – Gặp mọi điều lành.

 Và còn bao nhiêu máu thịt còn lại tôi nguyện bố thí cho ruồi nhặng muỗi kiến và các côn trùng được no đủ, khiến đời sau tôi được thành Phật, rồi đem thức ăn bằng giáo pháp trừ trọng bệnh sinh tử đau khổ cho chúng sinh tất cả.”

 Khi Thái tử Tu Xà Đề phát nguyện như thế rồi, mặt đất sáu lần rung động, các loài cầm thú kêu vang chạy tứ tán, biển lớn nổi sóng dữ dội, núi Tu Di giao động rung chuyển.

 Bấy giờ Vua Trời Đạo Lợi, Thích Đề Hoàn Nhân đem chư Thiên xuống, giả làm hùm beo sư tử chó sói, gầm rống nhảy tới chỗ Thái tử như để bắt ăn thịt. Thái tử thấy thế mới nói: “Nếu các ngưoi muốn ăn thịt ta thì cứ ăn, sao lại làm ta sợ hãi như vậy?” Vua Đế Thích liền biến ra hình người và nói: “Ta không phải là thú dữ đâu, mà là Đế Thiên Thích đến đây để thử Thái tử mà thôi, Thái tử thấy Đế Thích nói như vậy thì vui mừng, Đế Thích hỏi Thái tử?

- Nhà ngươi bỏ được việc khó bỏ. Ngươi đem hết thịt cúng dàng cha mẹ, có công đức như thế để nguyện sinh làm Phạm Vương, Thiên Ma Vương, Thiên Vương, Chuyển Nhân Thánh Vương, hay Nhân Vương?

 Thái tử Tu Xà Đề trả lời:

- Tôi nay chẳng nguyện làm những thứ ấy, mà chỉ muốn cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề để cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau mà thôi.

 Vua Trời nói:

- Ngươi thật là đại ngôn, đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chánh Giác phải chịu cần khổ rất lâu dài, rồi sau mới thành được, làm sao Ngươi có thể chịu nổi những cần khổ ấy?

 Tu Xà Đề trả lời:

- Giả thử vòng sắt nung đỏ để trên đầu, nhưng không vì thế làm cho tôi thoái đạo Vô Thượng.

 Thiên Đế nói:

- Ngươi chỉ nói cho cố, nói suông, làm sao tin được?

 Bấy giờ Tu Xà Đề liền lập thệ nguyện:

- Nếu tôi nói dối Thiên Đế thì thân tôi sẽ mãi mãi bị chia lìa, còn không như vậy thì sẽ bình phục lại.

 Thái tử vừa thệ nguyện xong, thân thể từ từ lành lặn bình phục lại, Vua Trời thấy thế khen ngợi:

- Quý hóa thay! Ta không thể theo kịp Ngươi, Ngươi sẽ đạt đạo Vô Thượng theo ý nguyện, khi ấy nhớ độ cho ta.

 Bấy giờ Vua và Phu nhân đi đến nước kia được Vua nước kia tiếp đón ân cầncung cấp đầy đủ các thứ cần dùng xứng ý. Rồi Vua và Phu nhân thuật hết sự tình về việc nghịch thần gian ác, và việc chạy trốn xảy đến việc Thái tử tình nguyện chịu cắt thịt cứu cha mẹ đến phải hy sinh tính mạng.

 Vì cảm mến đức hạnh từ hiếu ấy mà Vua nước kia khởi lòng muốn giúp đỡ, khởi binh chính nghĩa đi đánh nghịch thần La Hầu gian ác. Thuận đường đi cùng đại quân, Vua và Phu nhân đi ngang qua chỗ Thái tử, nơi cha con, mẹ con từ biệt với ý nghĩ: “Con ta đã chết rồi, ta nên thu lượm xương cốt của con đem về quê hương.” Vì lòng thương con vô bờ bến, nên vừa đi tìm kiếm vừa kêu gào khóc than rất là thảm thiết. Nhưng bỗng xa trông thấy con còn sống, vội chạy đến ôm con vào lòng, vừa thương vừa mừng vừa khóc nức nở mà hỏi con rằng: “Con ơi! Con vẫn còn sống ư, làm thế nào con qua khỏi nạn này, thật là ngoài sức tưởng tượng của cha mẹ!?!”

 Thái tử liền kể hết sự việc cho Vua và Phu nhân nghe, nghe xong, Vua và Phu nhân hết sức vui mừng, rồi cùng nhau trở về nước, Thái tửphúc đức rất lớn như thế, nên chẳng bao lâu lấy lại được nước, Vua cha bèn lập Thái tử lên làm Vua trị vì thiên hạ.

 Bấy giờ đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà:

- A Nan nên biết, phụ Vương La Xà lúc bấy giờ, nay là cha Ta, Duyệt Đầu Đàn phu nhân lúc ấy, nay là mẹ ta, Ma Da phu nhân, còn Thái tử Tu Xà Đề, nay chính là Ta, Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Lại nữa, Vua Trời Đế Thích lúc ấy, nay là Ông Kiều Trần Như ngày nay, được Ta độ trước nhất vậy.

 

LỜI BÀN:

 Đọc Kinh trên, chúng ta nhận thấy:

1 – Khởi đầu của Kinh, chúng ta đã thấy đức Phật lúc đó là Thái tử Tu Xà Đề. Người được sinh vào làm con Vua và là Thái tử, tất phải là người đời trước đã làm được nhiều phúc đức mới được như thế.

2 – Sự báo hiếu của đức Phật đối với bậc cha mẹ thật là hiếm có trên đời, nếu không phải lúc ấy đức Phật đang hành hạnh Bồ Tát rồi thì không thể làm được việc chịu đựng đau đớn khủng khiếp như thế, một việc làm chỉ có bậc Bồ Tát mới làm được mà thôi.

3 – Một điểm cần nêu ra, đó là khi cắt thịt Thái tử vẫn còn đi được, và khi cắt hết thịt rồi mà vẫn còn sống được, nhất là sau đó tự nhiên lành lại, đó là một điều khó tin, tại sao? Vì khi cắt thịt, máu chảy ra hết là phải chết, thiết tưởng, trong trường hợp này chỉ có thể giải thích bằng sự mầu nhiệm nào đó, khiến Thái tử Tu Xà Đề không bị mất máu nhiều, đủ sức chịu đựng sự đau đớn, và sau là lành lại. Ở đây, chúng ta lại thấy trái với khoa học, nhưng nếu chúng ta chấp nhận những gì gọi là huyền bí mầu nhiệm do Chư Thiên làm, thì chúng ta phải chấp nhận trường hợp này.

4 – Từ thời đức Phật Tỳ Bà Thi (91 kiếp về trước = khoảng 6.5 tỷ năm)) đến thời đức Phật Thích Ca đã trải qua một thời gian quá lâu dài, điều này chứng tỏ đức Phật Thích Ca đã hành đạo Bồ Tát rất lâu dài mới đạt quả Phật.

5 – Trong bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển 2, Phẩm Lực, từ trang 533, đức Phật nói: “Do công đức che lọng cho Thần tự (chỗ thờ) của Bích Chi Phật mà được lưu chuyển trong Trời Người và làm Vua hoặc Đại Phạm Thiên Vương, hoặc Đế Thiên Thích, hoặc Chuyển Luân Thánh Vương (Đại Vương) mấy trăm nghìn lần; chúng ta thấy công đức cúng dàng Chư Phật, Bích Chi Phật, và A La Hán Thánh Hiềnvô lượng phúc đức vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14130)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39675)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15294)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13842)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13903)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37290)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40023)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14614)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14301)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12635)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14808)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19197)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13777)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42587)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13807)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37206)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12654)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11741)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22522)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12486)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12548)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13012)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13092)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17237)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33193)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14814)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11024)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12429)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11936)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11921)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13114)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51213)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12362)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6593)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30374)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13111)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13293)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30648)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19320)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12466)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11824)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14745)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13174)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13177)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30645)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12010)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11805)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12697)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31865)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29384)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11769)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11719)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10402)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11536)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9617)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9634)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9938)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35371)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10123)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10078)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10023)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9626)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27778)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15457)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9824)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13641)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9822)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9675)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18288)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12028)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9544)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9668)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8684)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8898)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8390)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11452)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31692)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12310)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13300)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8810)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9426)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11919)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9206)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9060)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9641)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29316)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9060)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9070)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33203)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8410)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30566)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31193)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37074)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32221)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9902)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27055)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8427)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19207)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12994)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9762)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant