Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Bồ Đề Đạt MaGiá Trị Siêu Việt Của Nền Thiền Học Việt Nam

31 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 8251)
1. Bồ Đề Đạt Ma Và Giá Trị Siêu Việt Của Nền Thiền Học Việt Nam
thiensututuonggiacngo

Bồ Đề Đạt MaGiá Trị Siêu Việt
Của Nền Thiền Học Việt Nam

 Khi đề cập đến Thiền Tông người ta hay liên tưởng đến Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) người đã mang sứ mệnh cao cả truyền trao cho con người. Cuộc đời của Bồ Đề Đạt Ma tựa như ánh sáng rực rỡ quét sạch bóng đêm phủ xuống cuộc đời chớp nhoáng như điện xẹt và phong thái lạ lùng quái đản đó đưa tên tuổi của người đi vào huyền thoại. Cho đến bây giờ hình ảnh và âm vang vô tận của những lời thuyết pháp vẫn còn chấn động cả thiền môn, rung chuyển trong tận cùng tâm thức, hình bóng của người đã ngả dài trong suốt lịch sử nhân loại, vươn lên tìm một sinh lộ cho sự trở về uyên nguyên giác ngộ, không nhất thiếtgiới hạnphương vị nào cho sự trở về ấy.

 Chính những huyền thoại đã tạo nên con người vốn quái đản của Bồ Đề Đạt Ma lại càng quái đản và lạ lùng hơn, những huyền thoại đó đưa Bồ Đề Đạt Ma trở thành một kẻ phi thường nhất trong tất cả những kẻ phi thường. Những huyền thoại này như chiếc dép cỏ mà Bồ Đề Đạt Ma từng hùng dũng xách nó vượt suối băng ngàn phi hành trên ngọn thông lãnh, sự ngạo nghễ và những trận cười đinh tai, nhức óc rung chuyển cả núi đồi chập chùng, những âm vang đó vẫn còn phảng phất vang vọng đâu đây trong mỗi con người, trong mỗi thời đại theo sự chuyển vần của thời gian, không gian vô tận.

 Hình ảnh của Bồ Đề Đạt Ma có phải là một nhân vật lịch sử hay một nhân vật huyền thoại do đời sau ngụy tạo và dựng lên? Có hai nhóm rõ rệt trong việc truy tìm, nghiên cứu tư liệu về cuộc đời của nhân vật hoang đường này. Nhóm thứ nhất, những nhà học giả như P.Pelliot, Conze v.v… đưa ra nhiều tư liệu nghi ngờ về lịch sử Bồ Đề Đạt Ma, họ cho đó là cách gây uy tín cho việc hình thành phát triển của Thiền Tông – bằng cách ngụy tạo ra dòng tổ bắt nguồn từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

 Nhóm thứ hai học giả Prabodh Chandra Bagchi, Hồ Thích v.v… lại cho rằng Bồ Đề Đạt Ma có mặt ở Trung Hoa khoảng 420 hay 486. Theo tài liệu viết vào khoảng 547 in trong Tripitaka do giáo sư Takakusu xuất bản có nói gặp một vị sư tên Bodhidharma trong một ngôi chùa ở Loyang.

 Tất cả những dữ kiện về lịch sử không hẳn là một chứng cớ để chúng ta có thể tin tưởng được, hãy trả tất cả những nghi vấn về lịch sử cho những nhà khảo cổ. Với chúng ta điều quan trọng sự hiện hữu của Bồ Đề Đạt Ma dù huyền thoại hay không huyền thoại có giúp được gì trong hành trình đi đến giác ngộ hay không? Và cuộc đời của Bồ Đề Đạt Ma đã ảnh hưởng như thế nào trong tư tưởng của nhân loại?Những câu hỏi chúng ta đã đặt ra cũng chỉ là câu hỏi để trả lời và cũng để hỏi với chính ta.

 Có những lúc ngôn ngữ không thể diễn tả trọn vẹn được ý tưởng thâm sâucon người cần phải nói. Tự nó vốn đã tuyệt lộ khi chính nó đã không lý giải được cho nó, ngôn ngữ vẫn có đường cùng của nó, nên đó chỉ là một phương tiện chuyên chở cái bóng dáng mờ mờ của tư tưởng và nhiều khi đã tạo nên những rắc rốingộ nhận đáng tiếc. Và trên hết nó đã không chuyên chở được sự thâm sâu, toàn triệt trong tận cùng của tâm thức.Chỉ có sự cảm nhận trong vô ngôn cửa miệng đóng mốc mới hiển lộ nên. Sự yên lặng của con người không có nghĩa là không có ngôn từ để diễn tả mà phải hiểu rằng chính ngôn từ đã không lý giải được sự cảm nhận sâu xa ấy.

 Trên phương diện bình thườngngôn ngữ đã phải dừng lại, huống gì trên phương diện vượt thoát bùng vỡ của giác ngộ hay lập nguyện dấn thân ngôn ngữ càng bế tắc.Hễ mở miệng ra là bị kẹt và hễ mở miệng ra là rơi vào đối đãi, chấp trước ngay, vì thế các vị Thiền Sư đã từng dạy “Để miệng, đóng mốc” Và đó chỉ là quá trình để chuẩn bị nhìn ngắm về đối tượng ở góc cạnh phê phán. Con người vốn đã không chủ động được tâm thức của mình, bị sai sử và tác động do những phân hóa, đố kỵ và động cơ chính là không sáng suốt, nên hầu hết những quan niệm đều đồng nghĩa với sự sai sử, vì thế những phê phán nhận định dễ trở thành sản phẩm phi lý của trí thức ô nhiễm.

 Và không khéo nó sẽ trở thành công cụ đày đọa, dày xéo chính kẻ đã và đang xử dụng nó như một quyền năngcon người đang phải đối diện, ghê tởm, lắc đầu.

 Vì vậy những luận cứ về một con người và nhất là một con người giác ngộ phải chăng ngôn ngữ đã phải cúi đầu?

 Huyền thoại về Bồ Đề Đạt Ma cũng chỉ là huyền thoại và sự ca ngợi về Bồ Đề Đạt Ma cũng chỉ là ca ngợi, tất cả những điều ấy không đủ để dệt nên một con người tuyệt diệu như Bồ Đề Đạt Ma.

 Một con người được mệnh xưng là kẻ phi thường trong lịch sử cổ kim của nhân loại, một kẻ đã đi trong cô đơn mang cả một tâm hồn nghệ sỹ và đã tung những chưởng lực mà cả triều đình Lương Võ Đế khiếp vía bay hồn, không tài nào hiểu được và cảm nhận lấy một chữ thâm hậu đó.

 - Lương Võ Đế hỏi: Từ ngày tôi làm vua đến nay lập nhiều chùa, in kinh, độ tăng rất nhiều không thể kể hết, như vậy có được công đức không?

 - Bồ Đề Đạt Ma đáp: Không có công đức gì cả.

 - Vua hỏi: Tại sao không?

 - Công đức ấy chỉ được tiểu quả ở cõi nhơn thiên mà thôi, vì còn thuộc nhơn hữu lậu, tuy có mà không thực.

 - Làm thế nào mới gọi là chân công đức?

 Bồ Đề Đạt Ma trả lời:

 - Trí thanh tịnh, thể vốn vắng lặng nhiệm mầu, công đức như vậy không thể lấy thế pháp mà cầu được.

 Vua hỏi: Thánh Đế đệ nhất nghĩa là gì?

 Bồ Đề Đạt Ma: Trống rỗng, không gì gọi là Thánh (Quách nhiên vô thánh).

 Vua hỏi: Vậy chứ ai đang đối diện trước mặt trẫm đây?

 Bồ Đề Đạt Ma trả lời:

 - Không biết (Bất thức)

 Lương Võ Đế đã không vứt bỏ những gì do chính mình tạo, nên đã không trực nhận được những gì Bồ Đề Đạt Ma đáp, lời nói ấy quả như một chưởng lực siêu phàm làm cho Lương Võ Đế chới với không biết phải bám vào đâu. Và nếu Võ Đế cảm nhận đi chăng nữa thì sự cảm nhận đó vẫn chưa là dấu hiệu của một cảm thông tương quan, có thể nói đó chỉ là một thoại ngữ và họ Lương cần phải tốn cả tâm huyết mới hoàn thành được. Nó tựa như dòng sông trong xanh sâu thăm thẳm công năng của nó có thể cuốn phăng đi tất cả cặn bã của cuộc đời và ngược lại làm cho kẻ đứng ngắm hoảng kinh, dòng tâm của Ngài sâu hun hút không một lối đi vào nếu, không bằng vào cửa ngõ đi là vào cõi chết để biến dạng thành một con người hoàn toàn vượt thoát ra khỏi tử sinh, và Lương Võ Đế là một con người đã không muốn chết theo nghĩa đó, như vậy dĩ nhiên họ Võ đã không tìm thấy sinh lộ cho tiến trình giác ngộ ấy nơi Ngài.

 Bồ Đề Đạt Ma lặng lẽ rời bỏ triều đình, Ngài đến chùa Thiếu Lâm quay mặt vào vách, trầm hùng chín năm nhìn vách đá yên lặng không nói một lời. Sự yên lặng ấy như là sự khinh bỉ cuộc đời đã không một ai có thể hiểu nổi con người của Bồ Đề Đạt Ma, và sự yên lặng ấy cũng là cách trắc nghiệm sự đi vào của kẻ khác bằng cách chấp nhận sự yên lặng của yên lặng và chờ đợi sự yên lặng để bùng vỡ. Và yên lặng ấy đã bùng vỡ khi Huệ Khả tìm đến trong một đêm mưa tuyết phủ đầy cả mặt đất, Huệ Khả đứng đó với tâm nguyện chờ đợi cánh cửa yên lặng chợt mở thì sẽ xông vào quỳ xuống đảnh lễ và dâng lên cả một sự cầu mong.

 Có lẽ lúc đó Bồ Đề Đạt Ma thừa hiểu đã đến lúc không yên lặng.Tuy nhiên Ngài lại thích kéo dài sự yên lặng ấy càng lâu thì càng có công năng và biết đâu sẽ tuyệt diệu hơn.Và rồi Ngài đã đạt được như ý.

 - Nhà ngươi mong cầu gì mà đứng mãi trong tuyết như thế?

 Huệ Khả bạch: “Con đến để mong cầu giáo pháp vô thượng xin Ngài dũ lòng từ bi ban bố cho.”

 Bồ Đề Đạt Ma bảo: “Giáo lý vô thượng của Phật khó có thể thành tựu ngay, phải trải qua một thời gian dài cần khổ, nhẫn những việc khó nhẫn, làm những việc khó làm. Tâm trí người thấp kém, lòng khinh mạn thì làm sao thành Phật được, chỉ luống công nhọc sức mà thôi.”

 Huệ Khả một lòng cầu đạo, quên cả thân mạng của mình nên dùng dao chặt đứt cánh tay để tỏ lòng thành.

 “Tâm con chưa an xin thầy an cho.”

 Bồ Đề Đạt Ma nói: “Đem tâm ngươi ra đây ta an cho.”

 Huệ Khả bạch sau một phút lưỡng lự:

 “Con tìm mãi nhiều năm mà không thấy.”

 Bồ Đề Đạt Ma trả lời: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó”

I. THEN CHỐT QUAN TRỌNG CỦA THIỀN 

 Yếu chỉ của Thiền được qui tụ trong 4 câu:

 Giáo ngoại biệt truyền
 Bất lập văn tự
 Trực chỉ nhân tâm
 Kiến tánh thành Phật

Tạm dịch:

 Truyền riêng ngoài giáo
 Chẳng lập văn tự
 Chỉ thẳng tâm người
 Thấy tánh thành Phật

 Tất cả sự quyết định cho sự nghiệp giải thoát đều bắt nguồn từ Tâm, Tâm có thể là một chủ lực mạnh nhất trong việc đưa chính con người ấy đạt được an lạc, và cũng chính Tâm biến thành công cụ đạp đổ con người rơi xuống vũng sâu của tử sinh. Những thiền sư đã xử dụng phương pháp “Dĩ tâm truyền tâm” đẩy thẳng ánh sáng giác ngộ đi qua kẻ đối diện. Dĩ nhiên miếng đất tâm của người đối diện ấy đã được cày bừa kỹ lưỡng và trải qua mọi nhân tố để cho hạt giống được nẩy mầm một khi ánh sáng mặt trời sưởi ấm nó. Nó không nằm trong kiến giải, so đo tính toán được nữa.

 Bởi lẽ những kiến giải chỉ là cách đo lường và tách xa giác ngộ hơn. Tâm ấy tựa như một luồng điện đi qua và ánh sáng bùng vỡ ngay, nó không còn nằm trong trạng thái chờ đợi để ấn nút xuống, nút ấy phải được mở sẵn chỉ chờ luồng điện đi qua là mọi tối tăm nơi tâm vén mở – hiển bày cả càn khôn và cả một vũ trụ tinh nguyên mà mấy mươi năm trời hành giả đã phải lận đận, bương chải và tìm phương vượt thoát.

 Bất lập văn tự: Không có nghĩa là vất bỏ văn tự nếu áp dụng phương cáchvăn tải đạo” thì không dính mắc nào trong chính ngôn từ đó. Con người luôn thích lý luận và căn cứ nơi ngôn từ để phán quyết. Điều đó không hẳn và thực sự đã trói buộc rơi vào làm kiếp con mọt đọc sách. Phải xoay những tư liệu ấy quán chiếu thẳng vào thể tánh mới thấy được đàng sau những ngôn từ đó hiển lộ những gì mà cổ đức đã trao truyền lại.

 Văn tự vẫn là văn tự và không giúp được gì thật sự nếu con người không vứt nó vào hố thẳm, phải tiêu hóa ngay khi đã đọc một cách tuyệt diệu.Nó chỉ là tiến trình của kẻ khác và cũng chỉ là cánh cửa để người đọc biết dấu tìm vào.Và trên hết đó cũng chỉ là của kẻ khác. Hành trình đi tới để vào căn nhà uyên nguyên nhất định không còn mở sách ra để tìm cách đi vào. Bởi lẽ phải vứt bỏ tất cả ngay cả cái cần phải vứt đi cũng chưa chắc đi vào được, một ý niệm còn hưng khởi theo chiều hướng tôi, sẽ, đang, chuẩn bị vứt còn ngự trị, thì còn, sẽ, phải trôi lăn. Những gì được kể như vắng lặng, tròn đầy trong đó vẫn còn một chút vi tế thì hành giả phải bật tung ra khỏi đỉnh cao và rơi vào hố thẳm ngay.

 Buông xả tất cả ngay cái buông xả đó, và buông xả không có nghĩa là không nắm bắt vì buông xả được hình thành cũng do tương quan đối đãi với nắm bắt mà lập, nên buông xả cũng có nghĩa là nắm bắt nên mới buông mà càng không có nghĩa là xả hết. Thiền không khéo trở nên phức tạpmâu thuẫn chính nó. Tuy nhiên Thiền đã đạp tung và vượt lên trên tất cả những gì phức tạp nhất và mâu thuẫn cùng cực nhất. Nó cởi tung tất cả những triền phược trói buộccon người tạo nên. Thiền là một cái gì tươi mát không một ngôn từ nào có thể diễn tả được cái yếu nghĩa của nó như đói thì ăn cơm, khát thì uống nước. Thiền là phải hành hoạt, uyển chuyển, linh động tươi mát ngay trong cuộc sống thường nhật – Trong tất cả mọi động tác như: gánh nước, bửa củi, ăn uống làm việc v.v… đều phải hạ thủ công phu kiểm chứng nội tâm trong từng niệm niệm tương tục. Không phải lúc ngồi bất động trên giường thiền rơi vào trạng thái chết cứng lặng thinh (theo nghĩa gỗ đá) mà có thể đạt được yếu chỉ của Thiền. Cần phải dụng công trong mọi chiều hướng.Không một ai có thể cho chúng ta một ít khái niệm về Thiền và nếu có cho đó cũng chỉ là diệu dụng tùy nghi chứ không hẳn là Thiền.Thiền là vậy đó được bao phủ trong mâu thuẫn nhưng, không một mâu thuẫn nào có thể trói buộc được Thiền – và chính mâu thuẫn cũng có thể là Thiền.

 Chủ trương của Thiền chỉ thẳng không quanh co, trực nhận ngay.Một khi thấy được bản lai diện mục mới có thể thành Phật.

II. AI LÀ VỊ TỔ SƯ THIỀN TÔNG VIỆT NAM?

 Thiền vốn không phân biệt, thấp cao, cung kính hay không, theo trạng huống thường tình – ngay cả vị Tổ Sư tuyệt diệu như Bồ Đề Đạt Ma mà các vị Thiền Sư thường gọi “Bích Nhãn Hồ” nghĩa là “Tên Rợ mắt xanh” dù dưới bất cứ một danh xưng có vẻ phạm thượng đi nữa thì Bồ Đề Đạt Ma cũng là ngài không vì thế mà tổn thương hay hoen ố được. Và đó cũng chính là sự độc đáo của những Thiền Sư biểu lộ cả một sự kính thành, quy ngưỡng nhất.Hình tượng của Bồ Đề Đạt Ma trông rất dữ tợn, mắt luôn trợn trắng, mày quặm và râu phủ cả mặt.Nhưng không một ai lại không thích chiêm ngưỡng quy phục sự dữ tợn đó.Phải chăng bóng dáng ấy đã ẩn chứa bên trong cả một chân trời huyền nhiệm.

 Riêng Việt Nam theo Thuyền Uyển Tập Anh ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) là vị Tổ Sư đầu tiên mang thiền đến Việt Nam. Ngài đến vào năm 580 đời Hậu Lý Nam Đế trú ở chùa Pháp Vân. Ngài vốn là người Nam Thiên Trúc đến Trung Hoa vào năm 574, gặp nạn Võ Đế nhà Bắc Chu tàn phá Phật Giáo đến Hà Nam ngài gặp Tam Tổ Tăng Xán và được truyền Tâm ấn dạy ngài đi về phương nam hóa đạo Ngài là dòng thiền thứ nhất của Việt Nam và là sơ tổ. Dù vậy những ngôi chùa ở Việt Nam thường tôn kính hình ảnh của Tổ Sư Thiền Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma?Phải chăng Bồ Đề Đạt Ma tuyệt diệu hơn ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi?Và phải chăng người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa, lễ nghi của người Tàu? Lý do này có lẽ tương đối đúng hơn vì thế ngay cả những ngôi chùa và ngay cả những kinh văn trì tụng cũng là chữ Tàu. Vì vậy đạo Phật khó hiểu lại càng khó hiểu hơn.Chưa có một cuộc cách mạng toàn triệt nào để thay đổi lại sự lệ thuộc một cách vô lý này, dù điều này đáng được thực hiện một cách triệt để.Đạo Phật Việt Nam vốn là một tôn giáo lớn tiêu biểu cho đặc thù văn hóa dân tộc, nhưng đâu đó vẫn còn phảng phất một chút gì của ngoại lai. Đối với chúng ta vị Tổ Sư nào cũng đáng kính cả dù đó là Tổ Sư của Trung Hoa hay Việt Nam. Tuy nhiên trên phương diện duy trì bản chất độc đáo của một dân tộc điều ấy phải được phát huy truyền thừa tiêu biểu cái mà gọi là Dân Tộc. Hầu hết chúng ta phó mặc theo kiểu “xưa bày nay bắt chước”. Làm thế nào tất cả những ngôi chùa trở thành một tiền đồn phát huy và bảo tồn Văn Hóa? Những tăng sĩ trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa như vậy chúng ta mới có thể tự hào sự có mặt Đạo PhậtViệt Nam là một biểu trưng sáng ngời nhất trong lĩnh vực Văn Hóa Nghệ Thuật. Dù rằng Thiền được kể như một nghệ thuật tuyệt diệu nhất trong việc thấy tánh thành Phật (kiến tánh) một nghệ thuật đánh phá nội tâmhoán chuyển từ mê sang ngộ mà không gây một khủng hoảng trầm trọng nào. Hành giả hướng tâm của mình đi theo dòng nước không bao giờ có ý định phong tỏa ngăn chận dòng nước vì như thế nước sẽ vỡ tung bờ, chỉ theo đó biết nước sẽ đến đâu những ngõ ngách nào nước ở ngoài chảy vào v.v… đòi hỏi hành giả nếu không có một nghệ thuật cao khó có thể duy trì được sự tĩnh lặng trong chính cái luân lưu mà không vọng động. Một nghệ thuật tinh vi và chỉ có những nhà nghệ thuật phi thường mới có thể tìm thấy. Một đóa hoa đẹp không có nghĩa là đóa hoa ấy đẹp với bóng dáng ở ngoài, sự hoàn hảo của cái đẹp phải kể đến hương vị ngọt ngào tỏa ra từ đóa hoa ấy.Phải có một cái nhìn thoát ra khỏi nhãn quan thường tình thì vẻ đẹp mới hiển lộ một cách toàn diện vượt thoát, một nghệ thuật điêu luyện phải kể như phi nghệ thuật mà là nghệ thuật, vượt trên tất cả những gì gọi là nghệ thuật.

 Ngoài dòng Thiền của Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi còn một dòng thiền đến Việt Nam nữa, đó là Thiền Phái Vô Ngôn Thông, khoảng thế kỷ thứ 9, ngài đến Việt Nam vào năm 820 trú ở chùa kiến sơ, Bắc Ninh đắc pháp với ngài Bách Trượng Thiền Sư bên Tàu. Sở dĩ gọi Ngài là Vô Ngôn Thông vì ngài vốn ít nói dù rằng thông hiểu tất cả mọi lý sự.Sự yên lặng là một dấu hiệu cảm thông trong tất cả mọi tương quan trong cuộc đời.Yên lặng không có nghĩa là không biết mà phải hiểu rằng không việc gì là không rõ.Mặc nhiên trong trạng thái tuyệt diệu của sự vắng lặng và yên lặng chỉ là động tác xuất phát từ “sự yên lặng nơi tâm thức.Thiền Sư Vô Ngôn Thông được người đời tôn xưng với danh hiệu như thế hẳn chắc Ngài phải là nhân vật có một phong thái khó hiểu. Mà thật có gì để phải hiểu khi chính con người đã không có được một phút giây nào dừng lại để cho sự yên lặng ngự trị trong tâm. Đó là cách khuyên nhủ người đời bằng sự yên lặng sống động nhất. Nhiều lúc cả trăm ngàn câu trả lời tuy nhiên nhiều lúc gây ngộ nhận cho kẻ hỏi và sự trả lời này không bằng một nụ cười tươi mát, chừng đó cũng đủ cho kẻ đối diện thức tỉnh, càng đặt vấn đề thì càng rơi vào khủng hoảng khúc mắc. Không một sự trả lời nào của kẻ khác làm cho ta thỏa mãn, nếu chúng ta không tự hỏi và trả lời cho chính mình.

III. THIỀN CÔNG ÁN

 Công án là lối hạ thủ độc đáo mà thiền sư đã dồn Thiền sinh rơi vào thế bí nơi chân tường phải đánh phá, tác động, gõ một cách liên tục vào nội tâm mới mong bùng vỡ lên được, những lúc căng thẳng đầu óc như vỡ tung ra từng mảnh mới tìm thấy được chút ánh sáng len lỏi vào.

 Công án đầu tiên là mẫu đối thoại giữa Bồ Đề Đạt MaLương Võ Đế “Rỗng suốt không có thánh gì hết” đã trở thành một công án độc đáo nhất trong lịch sử Thiền Tông. Tuy nhiên mãi đến nhà Tống công án mới trở nên thịnh hành thường dụng trong tất cả những tra vấn về Thiền và trở thành cửa ngỏ then chốt đi vào Thiền. Trong Thiền Quan Sách Tấn của Chu Hoằng và Ngữ Lục của Đại Huệ đời Tống có ghi lại nhiều công án.

 Khi một Thiền Sư muốn trắc nghiệm kẻ đối diện bằng những câu hỏi hắc búa, quái lạ nhiều khi trái ngược mâu thuẫn, nghịch lý nhưng tất cả những khúc mắc ấy mới trở thành diệu dụng của Thiền. Những nghịch cảnh theo quan niệm của con người thì đó là nghịch cảnh, nhưng với công năng của Thiền là phá tan và san bằng tất cả những gì chận đứng lại. Chúng ta đọc Phó đại sỹ để thấy cái phi lý và cũng là có lý của Thiền.

 Tay không nắm cán mai
 Đi bộ lưng trâu ngồi
 Theo cầu qua bến nước
 Cầu trôi nước chẳng trôi

 Những gì phi lý nhất lại là có lý nhất, cũng có thể những gì có lý lại là phi lý trong Thiền thuật ngữ nầy, tràn ngập như nước đã đầy ly nhưng vẫn cứ rót tràn mãi ra mới thôi. “Lông rùa rừng thỏ”“Hoa không đỏ liễu không xanh” Thiền công án không phải là một lâu đài kỳ bí khiến cho kẻ đứng ngắm khởi lên một sự nghi ngờ, hoang mang. Với Thiền không có hoang mang mà là đi thẳng không quanh co uốn nắn. Nếu như vậy sẽ bị đạp tung ra khỏi cửa thiền và bị phất trần đánh tới tấp. Chưa kịp mở miệng mà rơi vào trạng thái so đo thì bị ngay tiếng hét đinh tai nhức óc của Lâm Tế Nghĩa Huyền gây chấn động cả thần kinh hệ rồi. Lối xảo thuật diệu dụng này nhằm để phát huy và phục hồi nguyên ủy mà hành giả vốn đã lẩn quẩn trong sự mê ngộ – ngộ là ngộ tức khắc không chần chờ so đo tính kỹ và hễ không ngộ là không chứ không có kiểu mở miệng để rơi vào ngõ bí không lối thoát. Thiền là một thực thể linh động trong mọi chiều hướng ngập tràn và làm hưng thịnh những gì vọng động. Và chính những linh động thực tiễn ấy mới hé mở cho sự giác ngộ bùng lên, linh động một cách nhịp nhàng ăn khớp với tâm thức giác ngộ của Thiền Sư hòa đồng và tác động vào chính dòng tâm thức của Thiền Sinh. Và chỉ có sự khơi mở đúng lúc thì ngọn đuốc mới rực lên ánh sáng và bóng đêm bị quét sạch ngay tức khắc, không còn cơ may hưng khởi được nữa một khi ánh sáng này ngự.

 Thiền Sư Đức Sơn đã từng xử dụng cây trượng mỗi khi hỏi đồ chúng:

 “Nói được ba chục hèo”

 “Nói không được ba chục hèo”

 Chân lý vốn đã không nằm trong thế đối đãi của nhị nguyên lý hễ còn nói được và không được thì phải lãnh đủ ba chục hèo.Thiền Sư Đức Sơn chỉ đưa ra cách nói được và nói không được nghĩa là phải mở miệng chứ ngài đâu bảo nếu yên lặng hành động cũng ba chục hèo đâu?

 Và cũng một lần Nam Tuyền nắm lấy con mèo dơ lên cao bảo: “Nói được thì mèo sống, nói không được ta giết chết con mèo” Tăng chúng không ai đáp được và Nam Tuyền giết chết con mèo.

 Khi Triệu Châu trở về Nam Tuyền thuật lại sự việc Châu bèn cởi chiếc giầy cỏ đội lên đầu rồi ung dung ra đi. Nam Tuyền nói: “Tiếc thay không có Triệu Châu ở nhà để cứu mạng con mèo”.Hành động của Triệu Châu chỉ có Nam Tuyền mới cảm thông được. Và chỉ có Triệu Châu mới có thể cứu được con mèo lúc ấy.

 Thiền phải kể đến tiếng hét của Lâm Tế Nghĩa Huyền. Lâm Tế xử dụng nó như một ngón tuyệt kỷ, kẻ nào bị phải đinh tai nhức óc ngay. Những tuyệt kỷ này đã từng gây chấn động trong Thiền Môn cho đến bây giờ tiếng hét ấy vẫn còn đeo đuổi.

IV. NHỮNG THIỀN SƯ DẤN THÂN ĐI VÀO CUỘC ĐỜI

 Thiền lưu truyền và cất giữ trong nhân gian một cách lâu đời và bền bỉ nhất khi thiền đã tách rời khỏi những hình thức khuynh hướng quyền thế.Thiền phải là một sự phổ cập đa dạng trong mọi lãnh vực và là nguyên tố cơ bản trong mọi tầng lớp. Thiền Việt Nam dung hòatìm thấy sự giác ngộ ngay trong cuộc đời. Ngoài cuộc đời này ra sẽ không có giác ngộ, quên mình để phụng sự cho kẻ khác đó là lý tưởng dấn thân của Phật Giáo. Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã lưu lại những vị Thiền Sư đi vào cuộc đời như Thiền Sư Định Không (729-808) La Quý An (851-936) Khuông Việt (931-1011) Pháp Thuận (915-991) và Vạn Hạnh (mất 1025) nổi bật Thiền Sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (dòng Vô Ngôn Thông) được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm vị Tăng Thống đầu tiên của Việt Nam. Và điểm nổi bật nhất là Thiền Sư Vạn Hạnh với sự nghiệp xây dựng nhà Lý mà cho đến bây giờ công nghiệp ấy hãy còn bàng bạc trong nhân gian.

 Một hành động dấn thân khác nữa đó là Thiền Sư Trần Nhân Tông dòng Vô Ngôn Thông ngài đổi thành danh hiệu khác đó là Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Là một vị thượng hoàng nhưng ông từ bỏ tất cả để làm một sơn tăng tu theo hạnh đầu đà. Ông đã chuẩn bị đi tu bằng cách tập sự xuất gia nhiều năm khi còn là một ông vua. Ngài một mình chống tích trượng đi du hóa khắp nơi khuyên dân chúng bỏ ác làm lành, tạo tình liên bang với Chiêm Thành ông đã gả con gái Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân để duy trì nền hòa bình giữa hai dân tộc.

 Hình ảnh của một Thiền Sư khác là “Chí Thành Thiền Sư, con của Hộ Quốc Công Nguyễn Công Thành sinh năm 1861 tại Quảng Nam”.Ông tham gia phong trào văn thân khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông vào tu ở chùa Giác Viên Chợ Lớn, ba năm tròn lo việc công quả: gánh nước, bửa củi, giã gạo. Sau đó ông nhập thất và tịnh khẩu trong ba năm. Năm 1892, ông đi cứu trợ bão lụt tại Gò Công và năm 1895 ông lại đi cứu trợ bão lụt ở Châu Đốc. Một mình ông độc suất cứu vớt được hơn 500 người đem về chùa nuôi cho đến khi nước rút. Ông thu thập tẫm liệm, mai táng không biết bao nhiêu là thi hài không thừa nhận. Ông lại còn bị mật thám Pháp bắt giam gần một năm trời vì những hoạt động xã hội trong “Tương Lai Thiền Học” của Nhất Hạnh trang 31.

 Chính những hạnh nguyện dấn thân nầy mà thiền len lõi trong quần chúng, có những lúc không nhất thiết vị Thiền Sư phải đăng đàn thuyết pháp mà ngay hành động của quý Ngài trở thành bài pháp không lời và chỉ có những bài pháp sống động này mới tồn tại lâu bền và hiệu quả thâm sâu nhất. Đi vào cuộc đời để rồi xoa dịuchuyển hóa những thống khổ đang bao phủ con người, Đạo Phật vốn đã không tách rời ra khỏi những đau khổ mà hình thành và càng không có nghĩa đạt được giải thoát ra ngoài cuộc đời nầy ra. Dấn thân nhưng không bị cuộc đời vùi lấp hay làm hoen ố được.Phải duy trì liên tục lý tưởng phụng sự kẻ khác trong cương vị xuất thế của mình. Các Thiền Sư đã trở về ung dung thanh thoát sau khi đã hoàn thành đại nguyện độ sanh.

V. CHẤN CHỈNH LẠI NỀN THIỀN HỌC VIỆT NAM

 Từ thế kỷ thứ 14 trở đi nền Thiền Học Việt Nam bị Mật TôngTịnh Độ lấn áp. Hai buổi công phu ở chùa đều ảnh hưởng Mật và Tịnh. Dù rằng Thiền được bao phủ và tác động lên trên tất cả Mật và Tịnh bởi lẽ hành giả phải ngưng tất cả những vọng động để tìm sự thanh thoát nơi tâm hồn, không để tâm tư dong ruổi theo trần thế, kiểm soát nội tâm bằng ánh sáng giác ngộ. Chiếu soi liên tục trong mọi tình huống. Nếu niệm Phật trăm ngàn câu mà tâm không niệm có ích gì đâu trên lối về giác ngộ, chỉ đạt được chút phước báo ở tiểu quả nhơn thiên. Vẫn còn phải dụng công trên đường tìm về giải thoát.

 Thiền chỉ còn trong sự bàng bạc bao phủ không còn là then chốt trong hai thời công phu ở chùa nữa. Hầu hết các tự việnchúng ta đều xuất phát từ Thiền “Lâm Tế” nhưng điều này đã không được phát huy đúng mức, nên có sự pha trộn giữa Tịnh hoặc Mật. Tịnh độ tông chỉ là sự biến dạng của Thiền nên sự dung hòa khó mà tìm thấy. Với đa số quần chúng hẳn nhiên không như vậy Tịnh và Thiền là hai chứ không phải là một.

 Đạo Phật được truyền vào Việt Nam phần lớn là Thiền Tông, nó đã bám rễ và ảnh hưởng sâu đậm trong quần chúng bằng sự tỉnh thức, kiên nhẫnhy vọng. Nếu tất cả những hành động đều được ngự trị bởi thức tỉnh, sáng suốt hẳn nhiên chúng ta đã không gây khổ đau cho mình và kẻ khác. Con người không có được sự tỉnh thức con người đó trở thành một nguy cơ cho chính họ và cả loài người. Họ có thể xử dụng quyền thế, ưu điểm để lừa dối, và đưa con người đi vào cõi chết không một chút tiếc thương.

 Trong sự khổ đau cùng cực nhất của Dân Tộc hiện tại phải chăng đều xuất phát từ những kẻ không có được một phút giây tỉnh thức nào?Và đã không có được một ý nghĩ về kết quả mà chính họ đang tạo nên. Chỉ khi nào ý thức về con người đang chơi vơi trên hố thẳm may ra họ mới tìm thấy được giá trị của sự tỉnh thức.

 Cần phải phát huy duy trì nền Thiền Học Việt Nam trong mọi chiều hướng mới có thể vơi đi những phiền trược cho con người. Thiền là yếu tố cơ bản nhất trong việc đi thẳng đến giải thoát.Sự giải thoát không nằm trong tương lai mà nó có ngay trong hiện tại nầy. Một khi con người thực sự tĩnh lặng bình an, và kết quả này luôn ngự trị tác động liên tục thì may ra con đường đi đến giải thoát mới hiển lộ. Còn nếu sóng sau dồn sóng trước thì uổng phí cả một đời, sự giải thoát được quyết định ngay trong hiện tại và đó là nền móng xây dựng sự an lành, và một nụ cười bất diệt. Ngoài lãnh vực nầy ra, thiền còn là yếu tố cơ bản trong tất cả những lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, chính trị, dấn thân v.v…

Những hành hoạt thường dụng nếu có sự tỉnh thức, quán chiếu thì không việc gì mà chẳng thành, không gì làm hoen ố được. Lập chí như núi cao, nguyện lực thâm hậu, dụng công trong vi tế thì sá gì những trì trệ ứ đọng. Tâm tư trùm kín cả vũ trụ không một mảy may nào động tới được, vứt bỏ tất cả những gì đối đãi, tham trước. Chỉ còn lại một hạnh nguyện cao cả đi vào cuộc đời để chuyển hóa mọi thống khổ của con người vơi đi, để linh động mang dòng nước thanh lương tưới mát lửa phiền của chúng sanh, để hát những khúc ca chứng đạo truyền giảng cho hữu tình, và để vươn lên chọc thủng màn đen bao phủ cuộc đời.

 Một khi hạnh nguyện hoàn xong phải buông xả tất cả, thong dong tự tại trở về từ nơi khởi điểm. Để không còn thấy điểm xuất phát và nơi đến, thì cuộc đời vẫn là cuộc đời, khổ đau cũng chỉ là khổ đau, hạnh phúc Niết Bàn như cơn lốc, như gió thoảng mây bay. Tất cả chỉ còn lại lối về trước mặt không còn mờ mờ hoang lộ và đàng sau không còn gò núi chập chùng muôn lối.

 Thênh thang trên đoạn đường không dài cũng không ngắn từng bước đi là cả một cung đàn tuyệt diệu, hoa vẫn nở trên đường, lối đi chuyển về đâu !

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11435)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10518)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10785)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9852)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9536)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12899)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13296)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13455)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19833)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12533)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13243)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13540)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13011)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12362)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18574)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10691)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12401)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 10985)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11192)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14683)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22588)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11578)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10161)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34543)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17733)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32703)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22101)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11211)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17582)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17159)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10695)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10857)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9585)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10601)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10600)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10554)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12475)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12412)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9973)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13206)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9706)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9115)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11809)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13465)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12054)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11278)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11598)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10321)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10252)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10905)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28212)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10801)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7409)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9332)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11767)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11660)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11102)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10305)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10264)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13801)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14957)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10496)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11889)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10883)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10526)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10651)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9903)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10665)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9292)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 9985)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10181)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10511)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10602)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10524)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10108)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9829)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13536)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16316)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13470)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11543)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11112)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11085)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12188)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15344)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10611)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11697)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10608)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11078)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10019)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10397)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11410)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11000)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12926)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24381)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12600)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10287)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28663)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19350)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10932)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23319)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant