Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Tuệ Trung Thượng Sĩ Hiện Thân Của Duy Ma CậtBàng Long Uẩn

31 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 8346)
6. Tuệ Trung Thượng Sĩ Hiện Thân Của Duy Ma Cật Và Bàng Long Uẩn
thiensututuonggiacngo


Tuệ Trung Thượng Sĩ

Hiện Thân Của Duy Ma CậtBàng Long Uẩn



1. Thượng Sĩ đi giữa cuộc đời
2. Hình ảnh Duy Ma CậtBàng Long Uẩn trong con người Tuệ Trung Thượng Sĩ
3. Thượng Sĩ Ngữ Lục
4. Hình ảnh vô nghĩa trước những Thiền Sư


I. THƯỢNG SĨ ĐI GIỮA CUỘC ĐỜI

Tuệ Trung Thượng Sĩ người có được một phong thái siêu việt độc đáo, sống giữa cuộc đời trong sự tự do phóng khoáng không hề bị lệ thuộc. Ông bước vào trần gian sống như tất cả mọi người nhưng, với phong thái Thiền Sư vượt ra ngoài những hệ lụy, không đắm chìm trong danh sắc, cởi tung những triền phượccon người bình thường không thể lãnh hội và làm được.

Thượng Sĩ có tất cả, như tất cả những con người cư ngụ trên mặt đất đã có, nhưng Thượng Sỹ lại có cái “không” mà những người cư ngụ trên mặt đất không hề có. Cái không ấy là bản năng tuyệt luân vượt ra ngoài định kiến, phán đoán suy luận, gò bó trong mọi định thước. Hành hoạt một cách siêu dị không câu nệ chấp trước, chỉ tìm thấy trong những con người đạt được sự chứng ngộ giải thoátnội tâm.
Tuệ Trung đi vào vuộc đời, sống với cuộc đời với con người để từ đó hoán chuyển mọi tăm tối, hành động nầy là việc làm của những Bồ Tát mang đại nguyện trùm kín cả vũ trụ, hy sinh thân mạng để xoa dịu những thống khổ đang bao phủ trời tâm linhcon người đang trực diện. Giá trị đó được tiềm ẩn qua con người Thượng Sĩ, ông đã từng đem bản thân mình ngăn chận những cuộc xâm lăng của nhà Nguyên. Đã từng được phong tước Hưng Ninh Vương. Nhưng ông vứt tất cả còn lại phong cách Thiền Sư, đối diện với trần thế bằng tình thương bao dung, không bị giới hạn. Trộn lẫn với cuộc đời hay không, vượt thoát hay đắm chìm trong tử sinh, bỏ tung tất cả hay gánh trọn trên đôi vai. Đối với những người giác ngộ, thực chứng thì hành động nào cũng đều ung dung thanh thoát giữa dòng đời trôi nổi. Với những kẻ siêu việt nầy, tất cả chỉ là ảo ảnh, phù vân một trò đùa được dựng nên từ hý trường, đâu đó bỗng chốc phiêu bồng như chính cái hiện hữu phi thực của nó. Những tăm tối trầm luân tạo đau khổ cho những ai trong cuộc. Tuệ Trung Thượng Sĩ đã từ đó mà đi ra nên ung dung tự tại, vung tay là bóng tối liền tan, mở miệng là ngàn hoa phơi sắc, và nhắm mắt là tịch nhiên chiếu rọi.

Bóng dáng nào mà không bị đẩy lùi, hình ảnh nào mà không tan hủy. Nhưng, con ngườiảnh tượng của Tuệ Trung trở nên siêu thực, tồn tại trong hố thẳm ngàn hoa, nên mãi là biểu tượng cho những kẻ muốn đạt đến một thứ tự do siêu nghĩa, trong việc tìm ánh sáng chiếu rọi của thực chứng.

Sự tự do độc nhất mà Tuệ Trung có được, là vượt ra ngoài định mức tự do. Ở đó còn duy nhất kẻ đứng chơ vơ giữa đất trời, không bóng dáng hình tượng nào chung quanh, nếu có cũng chỉ là thể dụng hiển hiện của tâm thức vượt tung. Không bao giờ có thể đo lường ngăn ngại được tâm tư vĩ đại của Tuệ Trung, kẻ đã tự do rong chơi dạo khắp nẽo luân hồi, chưa một lần chùng bước trước những thử thách.
Em gái Tuệ Trung là Hoàng Hậu Thiên Cẩm, một hôm thiết tiệc mời ông tham dự, trong bàn tiệc có đầy đủ thịt cá, chay mặn. Gặp thịt cá ông cũng không từ tự nhiên gắp ăn, thấy thế Hoàng Hậu ngạc nhiên hỏi: “Anh tu Thiềnăn thịt cá thì thành Phật sao được ?”

Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật. Phật chả cần làm anh. Em chẳng nghe cổ đức nói “Văn Thù là Văn Thù, giải thoátgiải thoát đó sao ?”

Con người Tuệ Trung không phải điển hình sự phóng khoáng nầy là đủ, trong ông còn nhiều sự tự do. Ông đã là con người tùy tục làm giống như cuộc đời, những gì kẻ khác có ông cũng có nhưng, có nầy là lẽ của tương đồng, của tỉnh thức, và thực ngộ.

Khi mê thấy không sắc
Khi ngộ hết sắc không
Sắc khôngmê ngộ
Xưa nay một lẽ đồng

Chính vì chúng ta ràng buộc trong những tính toán, nên hầu hết tạo thêm những triền phược lấp kín lối vào giác ngộ. Nhìn sắc sanh ra đắm nhiễm, ngửi nghe khởi lên muôn ngàn vọng tưởng, nên trần lao trở thành ngôi mộ vĩ đại nhốt kín con người. Với Thiền Sư đi vào tử sinh như đi trên thảm hoa, uống nước ái dục như uống cam lồ vị, sống giữa cuộc đời như sống với thực ngộ. Thì cuộc đời không phải là những hổ tương cần thiết cho thực chứng ấy vươn lên tận mây ngàn hay sao?

Tuệ Trung mất trong vòng tay yêu thương của thê thiếp, trong giọt nước mắt bi ai của nữ tỳ, trong sự khóc thương buồn đau chồng chất ai oán để tiễn đưa người yêu thương đến nghìn thu vĩnh biệt. Ông đã ung dung ra đi với phong cách người rũ sạch nợ trần, như chưa một lần cột được con người ấy. Ông nghe tiếng khóc mở mắt ngồi dậy, sai lấy nước rửa tay súc miệng, trách nhẹ vài lời “Sống chết là lẽ thường nhiên, sao buồn thảm luyến tiếc chi làm náo chân tánh ta.”

Trong khi sống, Thượng Sĩ đã tự do, nhưng khi sắp chết ta mới thấy cái phi thường tự do của người giải thoát. Nếu con người bình thường hẳn đã không đủ tâm thần bình tĩnh trách nhẹ kẻ khác, làm quấy giấc ngủ ngàn thu của mình. Thần chết bất lực trước những bản thể thực chứng về hiện tượng tử sinh, nên đành chào thua để Tuệ Trung tự do đến đi trong cuộc đời. Điểm khởi mà ngài đến chỉ là nhịp cầu gạch nối giữa hiện thựcphi thực. Hiện thực nầy là nguyên lý của những gì vượt ra khỏi sự chi phối tác động về thời gianhiện thực nầy là kết quả thực chứng nên sự tàn hủy chỉ là môi năng cho những sinh khởi. Với kẻ có được ý thức về thực ngộ, đã trông thấy đâu là ngọn ngành nên không vì đó khởi lên những sai biệt.

Phi thực có thể tạo những triền miên thống hận cho những ai chưa khám phá ra bộ mặt nghìn đời của nó. Vì đối đãi tương duyên với có không nên nó hiện hữu. Nhưng với người uống được ngụm nước đầu nguồn, đến đi không vướng gót giày, tất cả chỉ là mây giăng trên lối, thong dong trên đỉnh đồi trơ trụi với tuyết sương.

Ý lực nào đã đưa đẩy Tuệ Trung dám bỏ lại sau lưng những biến động của trần thế? Ý lực nào đã tạo nên một Tuệ Trung trác việt, siêu dị? Có phải đó là kết quả do những khám phá, truy tầm, đạp tung và khơi dậy cái linh năng, tri giác, vốn đã tiềm ẩn trong mỗi con người ?
Muốn quật tung và hiển nở bản thể linh diệu nầy trước hết phải ngắm nhìn thực trạng sanh diệt bằng con mắt trí huệ, quán chiếu đến tận cùng vật thể. Những thành trì suy luận lừa đảo phải đập vỡ ngay, vận dụng mọi cơ năng quyết chống lại, đẩy tung phiền trược. Chỉ còn lại cái vắng không tròn đầy linh diệu mà Tuệ Trung đã đạt được. May ra ta mới trở thành như ông. Hình thức mà ông đang có đó, một con người không hề cạo tóc làm Sư, nhưng với tâm linh ông cao vút lên tận mây ngàn, hình thức có thể là lớp son phấn bao bọc bên ngoài. Không cần thiết, nhất là hành trình tìm đến giải thoát. Sự phân biệt giữa một người xuất gia với tại gia theo nghĩa thông thường, thì đó là điểm tựa để tạo nên môi giới, nhưng tìm đến thực chứng của những Thiền Sư thì không có ranh giới hữu hạn, mà là mấu chốt quật khởi tâm linh. Đạt được điều này thì đâu cũng là giải đất bằng mầu mỡ, ranh giới nào mà không bị san bằng tiêu hủy.

Tuệ Trung đã từng vứt bỏ những phê phán thị phi, vì đó là quan niệm cố hữu nằm trong lăng kính, với những mầu sắc lôi kéo. Nên không thể cảm nhận sâu xa về con người đã đạt được chiều sâu thực chứng. Ông đã từng liệng nó vào hố thẳm trần gian. Vì thế những ai gần ông đều qui phục, cảm cách.

Vua Trần Nhân Tông viết về Thầy mình (Tuệ Trung) như sau: “Thượng Sĩ sống giữa lòng thế tục, hòa ánh sáng mình trong cuộc đời bụi bặm, trong mọi cuộc tiếp xúc, thượng sĩ luôn luôn giữ thái độ hòa ái nên chưa bao giờ gặp phải những trường hợp phiền nghịch. Do đó ngài có thể làm tiếp nối hạt giống chánh pháp dìu dắt được những kẻ mới học. Ai đến tham cứu tìm học với ngài cũng được ngài chỉ dẫn sơ lược cho thấy phần cương yếu của đạo pháp khiến tâm họ có thể nương tựa. Thượng Sĩ không bị ràng buộc bởi hình thức khi thì ẩn tàng, khi thì lộ diện, ngài không chấp vào hình thức và danh từ.

II. HÌNH ẢNH DUY MA CẬTBÀNG LONG UẨN
TRONG CON NGƯỜI TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ


Duy Ma Cật và Tuệ Trung hai con người ở hai phương trời cách biệt, ở hai thời đại và bối cảnh xã hội khác nhau. Nhưng đã gặp nhau ở điểm, đó là hạnh nguyện và phong thái của những con người trác dị siêu nhân.

Duy Ma Cật, một cư sĩ vĩ đại, đã từng khai thị cho những đại đệ tử của Phật. Vì muốn độ chúng sanh nên ông thị hiện làm vị trưởng giả giàu có để nhiếp độ các hạng dân nghèo. Vì đại nguyện cao cả ông thị hiện kẻ bạch y hộ Pháp đắc lực cho đức Phật Thích Ca, hạnh nguyện của những bậc Bồ Táttrong đời ngũ trược làm kẻ tiên phong đi vào nhiếp độ chúng sanh lầm than. Và phong thái ông một người có vợ con giàu sang tột bực nhưng, không vì thế mà vướng bận tâm của người giải thoát.

Tư tưởng Duy Ma Cật là loại tư tưởng siêu thể, không nằm ở định mức, một khi tung ra là chấn động cả càn khôn, có thể lấy núi tu di nhét vào trong hột cải, có thể lấy nước bốn biển cho vào lỗ chơn lông mà không khuấy động loài thủy tộc. Duy Ma Cật đã từng trong nhà Như Lai đi ra, nên mọi hành hoạt đều hướng đến tịch nhiên an lạc, giàu có vương giả, thê thiếp vợ con, có kẻ hầu hạ nhưng tu hạnh thanh tịnh, ngoài hiện tướng phàm nhưng trong là tâm Phật, đi vào nơi cờ bạc rượu chè nhưng là hạnh nguyện của đại Bồ Tát cứu độ muôn loài.

Ông đã từng khai thị cho Xá Lợi Phất đại đệ tử của Đức Phật khi đang ngồi tọa thiền dưới gốc cây. “Thưa ngài Xá Lợi phất ! Bất tất ngồi sững đó mới ngồi yên lặng. Vả chăng ngồi yên lặng là ở trong ba cõi mà không hiện thân ý mới là ngồi yên lặng, không khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi mới là ngồi yên lặng, không rời đạo pháp mà hiện các việc phàm phu mới là ngồi yên lặng, tâm không trụ trong cũng không ở ngoài mới là ngồi yên lặng, đối với các kiến chấp không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới là ngồi yên lặng, không đoạn phiền não mà vào Niết Bàn mới là ngồi yên lặng. Nếu ngồi được như thế là chổ Phật ấn khả vậy.

Có như thế những đại đệ tử của Phật như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Ma Ha Ca Chiên Diên, A Na Luật, Ưu Bà Ly, La Hầu La v.v… Và ngay cả những bậc Bồ Tát cũng không dám đối diện. Không một ai dám đương đầu nổi với Duy Ma Cật, ông quật tung ngã nhào tất cả. Với ông không phải ngồi yên lặng dưới gốc cây mà có thể thành Phật, muốn thành Phật phải lăn xả vào cuộc đời, hành động trong ý tưởng vượt thoát mới có cơ may đạt được chặng đường nầy. Không chấp vào đâu, dù đó là những lời dạy của Đức Phật, phải có cái tâm thanh tịnh không nhơ cấu đón nhận các pháp. Y vào kinh điển giải nghĩa thì oan cho ba đời chư Phật, mà rời bỏ một chữ thì đi vào con đường ma quỷ. Ở trong đó tha hồ rong chơi dạo khắp, đừng mang tâm chấp trước. Hễ còn chấp thì rơi vào cửa ngõ triền miên điên loạn, vượt tung ra khỏi màng lưới chằng chịt ngữ ngôn, đạt ý quên lời thì con đường nào không thênh thang rộng mở, lối nào có thể cột được tâm tư kẻ không nhiễm bụi trần. Vào chỗ đông người như vào chỗ không có ai.

Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) sau Duy Ma Cật đã mấy ngàn năm nhưng phong thái trác việt của Tuệ Trung đi vào cuộc đời tương tự như Duy Ma Cật, những gì phiến động, đạp đổ trong con người Duy Ma Cật với Tuệ Trung cũng đều có. Chỉ có những con người vĩ đại mới bắt gặp nhau ở một cấp độ mà con người mê muội không thể tìm gặp. Cấp độ đó tựa như dòng sóng khủng khiếp cuốn phăng những trì trệ trong hành trình đạt được thức giác ở tâm linh. Cuốn đi những cặn bã bao phủ cuộc đời.

Thiền Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông ca ngợi Tuệ Trung Thượng Sĩ như sau:

Ngóng càng thêm cao
Khen càng thêm bền
Bỗng sau lưng đó
Xem lại trước liền
Đó là Thượng Sĩ
Vậy mới là Thiền

Tất cả những gì tuyệt độc nhất trong ngữ ngôn cũng không thể xưng tụng được trọn vẹn con người Thượng Sĩ, trông lên thì vời vợi, quay đầu nhìn lại thì Thượng Sĩ đã ở sau lưng. Ông chưa một lần đến nên chẳng để lại dấu vết khi ra đi, nhưng những tương quan nhìn ngắm về ông, đâu đó bóng dáng siêu việt ấy in tự bao giờ, chỉ cần quay đầu không dong ruổi thì lúc nào ông cũng hiện diện. Thượng Sĩ là cây đuốc rực sáng trong thời đại vàng son của Thiền học đời nhà Trần, vì thế những người có cơ duyên muôn thuở gặp được ông đều thấm nhuần giáo pháp. Nhưng nếu không thường nghiệm nơi tâm thức chính mình thì không thấy được sự có mặt của Thượng Sĩ. Ông chỉ khơi dậy những gì yên ngủ bấy lâu, yếu tố để được dậy hay không tùy thuộc vào chính kẻ đó.

Một nhân vật khác nữa có những tương quan, những nét độc dị, và đã lưu lại hình ảnh cũng như âm vang cao vút ở bên Tàu. Đó là Thiền Sư Bàng Uẩn, được kể như một trong những cư sĩ thượng thặng có khuynh hướng lập dị, tùy tục nhưng phong thái trác việt. Ông sống gần gũi với mọi người để tùy bịnh cho thuốc. Lương dược nầy nếu uống đúng cách thì tử sinh không bao giờ đụng đến. Và nếu có thì đó là đại nguyện. Thượng Sĩ được kể như có những nét tương đồng với Bàng Long Uẩn.

Bàng Uẩn một cư sĩ Thiền Sư vĩ đại, đệ tử của Mã Tổ một hôm hỏi Mã Tổ “Ai là người chẳng cùng vạn pháp làm bạn lứa”
Mã Tổ đáp: “Đợi khi nào ông một ngụm uống cạn nước Tây Giang ta sẽ trả lời cho ông”. Lối trả lời nầy khiến cho Bàng cư sĩ chới với trước những thuật ngữ có không. Và sau những tháng ngày mài dũa công án Mã Tổ đã trao. Một hôm, Bàng Uẩn bỗng chốc vỡ tung ra, đạt được “Tâm không” và trình kệ cho Mã Tổ.

Mười phương cùng tụ hội
Người người học vô vi
Đây là chỗ tuyển Phật
Tâm không thi đậu về

Bàng cư sĩ chủ trương Tánh Không “Đừng sợ rơi vào không, rơi vào không chưa phải chuyện dữ. Chỉ mong coi tất cả những cái có đấy là không, chứ đừng lấy cái không chi làm thật, vì bản tính của chúng là không.”

Ông là một trong những cư sĩ Thiền Sưảnh hưởng rất đậm trong giới Thiền. Ông vẫn có vợ con, và cả gia đình của ông đều là những người chứng đắc, nên khi ông sắp qua đời, con của ông thi nhau tịch trong tự tại an nhiên trước ông. Quả thật những con người siêu dị có khác kẻ chưa đạt được chút gì an nhiên trong cuộc đời.

III. THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC

Nếu những lời khai thị của Duy Ma Cật làm cho đại đệ tử của Phật run sợ không dám đối đầu, thì những lời pháp của Tuệ Trung cũng làm cho kẻ đối diện khiếp đảm không ít. Lối nói Pháp của Tuệ Trung gần như phủ định sự có mặt của ngôn ngữ, để hiển lộ nên biểu tượng cho một sự thể đang nấp kín đàng sau ngôn từ, dù rằng đó là hiện hữu trừu tượng để từ đó tìm ra cái tuyệt đối của ngôn từ theo nghĩa đạt ý quên lời.
Có một vị Tăng hỏi:
Thế nào là đạo ?
Thượng Sĩ đáp:
Đạo không có trong câu hỏi
Câu hỏi không có trong đạo

Nếu y cứ vào luận lý học thì lối trả lời này thuộc loại siêu nghĩa, không ăn nhập gì đến nguyên tắc luận lý, nhưng chính điều đó mới tạo nên cái lửng lơ cho người hỏi, không một điểm tựa để bám vào – hễ còn bám được thì lại rơi vào sở tri chứng, ngăn ngại trí tuệ phát sinh. Nên hầu hết các vị Thiền Sư không nằm ở điểm nào, chúng ta không thể căn cứ vào đâu để tra vấn. Và nếu có thì sự tra vấn ấy không giải quyết gì cho con đường giác ngộ. Nếu không tự mình tra vấn với chính ta. Không khéo điều nầy đưa ta rơi vào cửa ngõ của chấp trước. Cần nhất đừng trụ bám vào dù không hay có. Tuệ Trung đề cập đến “muôn vật trở về” như sau đây:

Từ không khởi có, có không thông
Có có không không, rốt cuộc đồng
Phiền não bồ đề nguyên chẳng khác
Chân như vọng niệm thảy đều không
Thân như cảnh giả nghiệp như bóng
Tâm tợ gió đưa tánh tợ bồng
Chớ hỏi tử sinh ma với Phật
Sao chầu hướng bắc nước về đông

Phiền nãoBồ Đề là hai thể đối lập nhau theo quan niệm con người. Vì chúng ta đắm chìm trong phiền não không nhận ra được chân tướng nó, nên mới có đối tượng Bồ Đề để ta y cứ vào đó vượt thoát. Thật ra nó đều hỗ tương với nhau, bởi lẽ cái này lập nên cái kia cũng lập, vì thế trong phiền não vốn có Bồ Đề, chỉ cần ta nhích mạnh tay then chốt nầy vỡ tung ngay.

Xưa có vị khách đến hỏi Thiền Sư. Thế nào là Phiền Não; Thế nào là Bồ Đề? Thiền Sư bèn quát lên một tiếng và chê trách anh ta. Thế là vị khách nổi giận rút gươm ra định chém. Thiền Sư từ tốn bảo: Phiền não là thế đó. Anh ta bỏ gươm xuống, Thiền Sư nói tiếp Bồ Đề là thế đó.

Tuệ Trung không thừa nhận việc tìm đến Chân Như mà dứt đi vọng niệm. Hễ còn mong ý cầu Chân tức là vọng rồi. Sự mong cầu nào cũng trá hình của dục vọng dù đó là Chân hay không. Nếu chúng ta dụng công đúng với như thị chánh pháp thì không cầu nó cũng tới đó là kết quả tất nhiên của việc hạ thủ công phu, cần gì phải cầu ?
“Cầu chân như mà dứt vọng niệm, tợ hét to để át tiếng vang.
Bỏ phiền não mà giữ Niết Bàn, như sợ bóng chạy vào nắng trốn.”
Nếu không có được tâm thức sinh động, chúng ta sẽ mù mờ trước những ngữ ngôn của Tuệ Trung. Đâu đó chỉ thấy những đập vỡ, cách mạng để lập nên hiển lộ những bí ẩn núp sau những vỏ khô cứng, ru ngủ ta trong những lâu đài thành quách phong tỏa bởi trần lao. Phải bung ra để được vỡ tung một lần, đi vào bụi hồng thể nghiệm tâm năng thực ngộ, phải vào vòng cát bụi với những ca khúc tuyệt diệu. Nhýng phải là tâm thức của không ô nhiễm. Chỉ có yếu chỉ nầy ta mới ðủ bản nãng rong chõi mọi nẽo không ai có thể ngãn trở býớc ði, và chẳng có gì có thể để cho bụi hồng vướng được. Vào chỗ đông người tợ đi vào rừng sâu, không bóng dáng che kín được nhãn quan mình, khởi lên lòng từ bi yêu thương không bờ bến, nhưng không một ai có thể núp mình trong quả tim vĩ đại đó. Bước vào tựa như nghe được khúc ca không khuất trong vô cùng, đôi chân nhịp nhàng theo điệu múa chưa bao giờ được cất lên.

Diễn tả những trạng huống nầy Tuệ Trung cho chúng ta một quan niệm vượt thoát như sau:

“Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa
Vàng óng bờ mi chớp chớp đùa
Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa
Nhà đông vui bước nhập thai lừa
Roi vàng đuổi mất trâu bùn chạy
Gậy sắc lôi về cọp đá thua
Rồi một ngày mai băng giá hết
Trăm hoa như cũ rộn Xuân xưa”

Sự giác ngộ vốn không tách khỏi những triền phược mà có, trong đó nếu khơi dậy dòng ý thức luân lưu không ô nhiễm thì tất cả những tương quan bỗng chốc bùng lên ánh sáng quét sạch bóng tối ngàn năm trong chốc lát. Chưa một ai có thể từ chối cuộc đờiđạt được giải thoát và cũng chưa có ai trốn chạy khổ đau mà đạt được con đường thoát khổ. Cần nhất du hí trong đó với tâm lực tùy duyên bất biến. Phải mài dũa tâm ý trong dòng đời dông tố nhưng, không bị ràng buộc bởi những tháo gỡ. Với cái tâm linh diệu. Trong bài “Vui thích giang hồ” Tuệ Trung đề cập:
“Giang hồ tâm ấy chửa từng lau
Ngày tháng như thoi như bóng câu
Gió mát trăng thanh luôn vẫn đó
Non xanh nước biếc thiếu gì đâu
Chiều nghiêng sáo thổi sương lồng khói
Sáng quấn bườm phăng sóng bạc đầu
Tăm bóng Tạ Tam nay vẫn bặt
Thuyền không bỏ đó gối cồn nâu.”
Điểm nổi bật khi Thượng Sĩ đề cập về Tâm. Ở đó ta thấy được sự bất nhị mà ông muốn nói đến:
Tâm tức Phật
Phật tức Tâm
Linh diệu chiếu cùng kim cổ thông
Xuân đến tự hoa xuân mỉm miệng
Thu về, đâu chẳng nước thu trong
Và một đoạn khác:
Bỏ vọng tâm
Giữ chân tánh
Khác nào tìm ảnh mà quên kính
Nào hay ảnh vốn tự gương ra
Chẳng biết vọng do từ chân hiện
Vọng lên chẳng thực cũng chẳng hư
Gương nhận không tà cũng không chánh

Tâm con người vốn không chân cũng không vọng. Vì do những chấp trước sai biệt nên có chân, vọng. Hầu như trong chúng ta đều ghét vọng tìm chân. Có thể cái chân ta muốn tìm đến sẽ trở nên ngăn ngại chính ta, bởi lẽ vọng chân tuy hai là một, nương với nhau mà có, ngay trong vọng vốn đã có chân, chỉ cần vén bộ mặt nghìn đời của nó lên thì chân xuất hiện. Không cần phải tìm cầu đâu xa. Nó ở ngay trong cuộc đời và trong ta. Cũng như tấm gương chỉ in hình bóng dù là tà hay chánh, ô uế hay sạch. Có được như thế thì sự nghiệp giác ngộ hẳn nhiên hiển lộ.

Vọng tưởngảo ảnh đã lừa dối tri thức con người một cách phi lý, tạo cho cảm quan rơi vào trạng thái mặc nhiên để nó chi phối sai sử. Giống như khi ta nghe kẻ khác nói về một hiện tượng có vẻ quái lạ, thì ảo tưởng sẽ khiến cho ta duyên theo đó gắn thật nhiều những suy tưởng tô điểm thêm cho hiện tượng đó. Trước hết ta bị lôi cuốn bởi ý thức của kẻ khác. Và chính ý thức kẻ cung cấp cho ta dữ kiện đã là không thực, ta lại gắn thêm cái không thực nữa, thì làm sao Chân tánh của mình xuất hiện? Cần nhất từ đó chuyển hướng thì bóng tối liền tiêu, vén mở tâm linh toàn giác.

IV. HÌNH THỨC VÔ NGHĨA TRƯỚC NHỮNG THIỀN SƯ

Thiền vốn quăng đi những hình tướng câu nệ trói buộc ngăn ngại tâm linh giác ngộ, với Thiền cần nhất khai quật nội tâm. Tất cả những hình tướng đều bị vỡ tung, vì tự nó vốn đã không thực. Đó chỉ là cái vỏ rỗng tuếch, ngược lại nó là điểm quan trọng, hầu hết con người căn cứ vào để phán xét và gắn những nhãn hiệu lố bịch một cách phi lý. Dù rằng trong tâm của họ mê mờ lừa đảo, nhưng ngược lại có bóng dáng “dễ coi” thì được kể như tốt rồi.

Với Thiền điều này hoàn toàn vô nghĩa không thiết thực. Phải phơi bày nội tâm để hạt giống giác ngộ có cơ may bùng trỗi dậy, tuyệt đối không sơn phết cái vỏ bên ngoài. Vì thế có những Thiền Sư vượt ra khỏi cuộc đời với phong thái lạ lùng quái đản, quần áo tóc tai không màng trau chuốt, nhưng mở miệng là chứa đựng một nội tâm siêu việt, coi thường sống chết, có những vị dị hình kỳ tướng, nhưng là bậc kỳ tài trong thiên hạ. Không cần phải cạo đầu mới gọi là tu, nếu không cạo sạch phiền não trong tâm.

Trong lịch sử Thiền những người như Thượng Sỹ đã chiếm một vị trí quan trọng. Miễn sao nội tâm cao vút lên tận trời cao là được. Trước Tuệ Trung có những Thiền Sư cư sĩ như Ứng Thuận thầy của Thiền Sư Tiêu Diêu, thiền sư Giới Minh, thiền sư Giới Viên, và quốc sư Nhất Tông. Trước đó có Thiền Sư Thần NghiThiền Sư Thần Chiếu. Không một ai trong chúng ta có thể phủ nhận công nghiệp tâm linh vĩ đại của những vị này.

Ngay cả Lục Tổ Huệ Năng lúc được trao truyền y pháp vẫn còn là một cư sĩ, nhưng đã thống lãnh Đông Sơn pháp môncho đến bây giờ dòng suối vi diệuTào Khê vẫn chảy mãi xuống cuộc đời. Đối với những con người siêu việt nầy ngữ ngôn thị phi như lời pháp, như chiếc dép cũ mòn cần quăng ngay vào bụi. Đứng đi trong cuộc đời như đi vào chỗ không có người, bởi lẽ dòng tâm của những vị đã ở trên cao điểm ngút ngàn thì sá gì vọng động của trần gian. Nếu không phải ngôn ngữ bế tắc trước những hành hoạt phi thường mà đối tượng khủng khiếp là những Thiền Sư hay sao? Lúc nào các vị cũng cười lên những tiếng chấn động màng nhĩ, từ trên chót vót hùng vĩ những ngọn núi cô độc chơ vơ vọng xuống cuộc đời, tiếng cười đinh tai nhức óc, xé cả hư không lồng lộng, tạo nên mây mờ sấm sét trút những trận mưa rào xuống tưới mát triền phược mà ta đang lặn hụp.
Tất cả hình tướng đều phải đổ ào trước khi đối diện với Thiền, có như thế những Thiền Sư mới đốt rụi cháy tan những gì mà con người ra sức tô son điểm phấn. Nếu không, điều này chỉ ngăn ngại chứ không giúp được gì trong việc hướng đến tỉnh ngộ. Nếu chúng ta không vượt ra khỏi hình thức đã kèm giữ ta một cách phi lý, thì mộng trần gian mãi là bến bờ không thuyền đưa ta sang sông.

Đời nhà Trần đã tạo nên những Thiền Sư trác việt, hầu hết các vị là vua quan, nhưng công danh phú quý không vướng bận lòng. Nhờ thấm nhuần được chánh pháp nên thời đại nhà Trần một trong những thời vàng son nhất của Dân Tộc. Những đóng góp của các Thiền Sư tác động mãnh liệt trong mọi khía cạnh văn hóa, chính trị, xã hội – dựng nên thời vẻ vang cho dân tộc. Đến bây giờ mỗi khi đề cập đến thời kỳ này, ta có cảm nhận sự huy hoàng, thịnh vượng vẫn hãy còn phảng phất đâu đây.

Tuệ Trung Thượng Sĩ đã đi vào cõi vô cùng, nhưng ngữ lục của ngài vẫn còn chấn động mãnh liệt trong tâm thức mỗi người. Ngữ lục trở thành bửu bối cho những ai muốn tìm về uyên nguyên giác ngộ. Để kết thúc bài nầy với những lời kính cẩn của Thiền Tổ Trúc Lâm Pháp Loa, tán dương Tuệ Trung Thượng Sĩ.

A !
Gang ròng nhồi lại
Sắt sống đúc thành
Thước trời tấc đất
Gió mát trăng thanh
Ối !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10117)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10516)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10136)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20399)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11654)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13792)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19134)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46715)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12095)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11676)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23086)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17857)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10159)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17767)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13938)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14051)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15113)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20302)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18297)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17416)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18179)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12726)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12857)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13426)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17044)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11487)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18296)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18600)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21388)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22172)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16879)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12565)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15338)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24622)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14240)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11648)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19742)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13425)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22810)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19006)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18464)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21629)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20533)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20038)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14079)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15010)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13798)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15113)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17243)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15300)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12822)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15884)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13000)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13139)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15027)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22652)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7160)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19367)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37714)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9176)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8684)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17904)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14878)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27055)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19950)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15270)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15487)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26797)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14570)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19715)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14639)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18661)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15938)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16359)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19366)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19739)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19909)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18609)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29837)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14578)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17769)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32440)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15278)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17315)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29771)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31550)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64715)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32814)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20240)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18533)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30824)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19927)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45911)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32605)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39360)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40460)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50150)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19101)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18566)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20697)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant