Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

9. Thiền Sư Hương Hải

31 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 9421)
9. Thiền Sư Hương Hải
thiensututuonggiacngo

Thiền Sư HƯƠNG HẢI

 

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Dịch:

“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình.”


I. NIÊN ĐẠI VÀ CON NGƯỜI CỦA HƯƠNG HẢI

Theo sách Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn, Hương Hải người làng Án Độ huyện Chân Phúc tỉnh Nghệ An sinh năm 1627, vốn là người thông minh xuất chúng, lịch lãm về nho học, đỗ Hương Cống (cử nhân) năm 18 tuổi, được chọn vào phủ Chúa Nguyễn. Sau đó cử nhận Tri Phủ huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Vào năm 25 tuổi ông rất hâm mộ đạo Phật, đã từng đàm luận với các vị Thiền Sư Trung Hoa đang hành đạo tại Quảng Trị.


Ba năm sau (1655) ông từ quan đi xuất gia với ngài Viên Cảnh thiền sư, ngài đặt cho pháp danhHuyền Cơ Thiện Giác, pháp tự Minh Châu Hương Hải, ngày nay chúng ta thường gọi ngài là Hương Hải. Sau đó ngài ra vân du ở đảo Tiêm Bút La, cảnh trí nơi đây thích hợp cho việc tu trì nên ngài lập am để chuyên tu. Đạo hạnh của ngài cao thâm, quan dân thảy đều ngưỡng mộ. Có lần quan trấn thủ Thuần Quận Công thỉnh ngài về đất liền tụng kinh cầu an cho phu nhân, và cả gia đình quy y theo. Và quan Tổng thái giám Hoa Lệ Hầu cung thỉnh ngài về đất liền lập đàn sám hối, cầu cho hết bịnh mà quan Tổng đã mắc phải. Chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu 1691-1752) nghe tiếng bèn cử người ra cung đón, khi ngài về đến nội địa đích thân chúa Nguyễn ra đón tiếp, hỏi thăm, ủy lạo, rồi sau đó lập Thiền Tĩnh Viện ở trên núi Qui Cảnh để ngài ở. Các quan trong triều và đủ mọi tầng lớp nhân dân các tỉnh đến quy y học đạo rất đông. Thiền Tĩnh Viện trở thành trung tâm truyền bá, phát triển, nổi tiếng ở đàng Trong.
Trong số những người đến tham học có quan Thị Nội Giám Gia Quận Công vốn là người đàng Ngoài, quan nội giám thường gặp gỡ Hương Hải để nghe thuyết pháp, có người dèm pha vu cáo ông cùng Thiền Sư đang âm mưu trốn về Bắc. Chúa Nguyễn hay tin đem việc tra xét nhưng không có bằng cớ để buộc tội. Chúa Nguyễn bèn truyền cho ngài phải vào ở Quảng Nam. Vì sự đối đãi kèm theo nghi kỵ nên Hương Hải quyết chí ra Bắc thật. Năm 1682 Thiền Sư cùng với 50 đồ đề vượt biển ra Bắc đến trấn Nghệ An, thuyền ghé bến ngài đến trình diện ở đồn Trần Lao do Yên Quận Công Trịnh Gia trông coi. Sau đó ông mới tâu về triều Chúa Trịnh cho người đón tất cả về kinh hỏi han mọi việc. Sau đó chúa sai quan Trấn Thủ Sơn Nam lấy đất lập chùa mời ngài trụ trì ở đó.
Những tháng năm bập bềnh sóng gió đã trôi qua, ngài bèn dùng thời gian còn lại trong việc tu tậpnghiên cứu sáng tác, dịch thuật hơn 30 tác phẩm để lại cho đời. Trong số những tác phẩm bị thất lạc chúng ta chưa tìm ra đầy đủ.


Hương Hải Thiền Sư vốn đã uyên thâm về Nho học trước khi đi xuất gia, hầu hết lúc bấy giờ theo đường công danh cử nghiệp bút nghiên phải thông nho mới mong đỗ đạt. Hương Hải quan niệm sự dung hòa giữa Nho giáoPhật giáo có thể bổ túc cho nhau trên phương diện trị an.


“Lên tận nguồn Nho trông bát ngát
Vào sâu biển Pháp thấy mênh mông”
(Nho nguyên đãng đãng đăng di khoát
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm)


Qua hai câu thơ trên, Hương Hải quả có cái nhìn muốn kết hợp hai tôn giáo lúc bấy giờ, đàng nào cũng có cái mênh mông bát ngát của nó, chúng ta chỉ là kẻ đứng ngắm sự rộng lớn nầy, không thể dùng con mắt mà đo lường được. Trong những tháng ngày an lành tu học, không còn bị hạch hỏi lôi thôi nữa ngài cảm tác bài thơ với sự biết ơn nơi đang ở:


“Sư tử quật trung sư tử
Chiên đàn lâm lý chiên đàn
Nhất thân hữu lại càn khôn khoát
Vạn sự vô ưu nhật nguyệt tường”
Dịch:
Sư tử nằm hang sư tử
Cây trầm mọc trong rừng trầm
Một thân nhờ có càn khôn rộng
Ngày dài tháng rộng đã an tâm.


Đi đâu dù có được tiếp đãi ân cần, quyền cao trọng vọng, thì thỉnh thoảng vẫn nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ làng xóm, nơi đã chôn nhau cắt rún, lớn lên bên khóm trúc, hàng cau, làm sao quên được, sợ rằng nhiều kẻ không hiểu được cái khổ tâm khi phải ra đi, ngài làm mấy câu thơ để chia xẻ với nỗi cô quạnh tha phương của mình:


Hoặc thị hoặc phi nhân mạc thức
Thuận hành nghịch hành thiên mạc trắc
Mãn sơn nhân xướng Chá cô từ * (* điệu hát)
Thác nhận Hồ gia thập bát phách.
Dịch:
“Là thị là phi ai có biết
Rằng xuôi rằng ngược lẽ trời hay
Chá cô khúc ấy ca đầy núi
Tưởng nhạc người Hồ mười tám giây.”


Vào năm 1700 thiền sư Hương Hải rời chùa Trấn Thủ Sơn Nam, về chùa Nguyệt Đường tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, nơi đây đông đảo người về quy y học hỏi. Vua Lê Dụ Tôn có lần đón ngài về kinh thuyết pháp và lập đàn cầu tự, vua rất tôn kính quý mến, thường hỏi ngài về phương pháp tu hành.
Năm 1714, chúa Trịnh Căn có vào chùa Nguyệt Đường tham bái, cảm xúc chúa ngự viết bài thơ:


Danh Nam trừng trải đã hay danh
Trình độ này âu hợp chốn trình
Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp
Kinh lâu rờ rỡ diễn chân kinh
Công nhiều nhà có công vô lượng
Thế thuận vây lên thế hữu tình
Ngán tục chẳng hề mùi tục lụy
Lòng thiền tu cẩn chốn thiền quynh.


Năm Ất Mùi 1715, sáng ngày 13 tháng 5, sau khi tắm xong thiền sư khoác y, đeo tràng hạt, đội mũ trang nghiêm ngồi kiết già tịch, hưởng thọ 88 tuổi. Đệ tử đắc pháp của ngài rất đông, có vị được phong chức Tăng Thống.

II. QUAN NIỆM VỀ THIỀN CỦA HƯƠNG HẢI

Tìm đến tư tưởng Hương Hải, một trong những cây đuốc sáng rực trong Thiền Tông ở thế kỷ 17, chúng ta sẽ cảm nhận một cách sâu sắc qua lời văn trong sáng, dễ hiểu, Hương Hải không thích lý luận nhiều, nên văn thơ của ngài hầu hết đều mang cốt cách một người dản dị, muốn mọi người ai cũng có thể đọc hiểu và nương theo đó để tu hành, ngài rất ít dùng đến thuật ngữ bí ẩn của Thiền, phần nhiều làm cho kẻ thưởng thức cảm thấy bớt căng thẳngđi vào tư tưởng một cách từ từ, tiệm ngộ chứ không đốn ngộ như những Thiền Sưchúng ta hay bắt gặp. Dĩ nhiên Thiền vẫn có những công năng như nhau trong việc nhắm đến trực giác, dù bằng phương cách nào đều do sự xử dụng của từng thiền sư, có ai dám bảo Thiền của Thần Tú thua Huệ Năng? Bởi vì Thần TúThần Tú, Huệ NăngHuệ Năng, có khác nhau tùy vào lối dụng công của từng vị. Tư tưởng Thiền của Hương Hải phản ảnh được sự tương quan giữa chúng sanh và Phật, mê với ngộ v.v… Bằng vào những liên hệ nầy Hương Hải hé mở cho chúng ta thấy đâu là điều nên thực hiện để đạt được giải thoát, và phương pháp để thành tựu. Trước hết theo Hương Hải phải hoán chuyển cái Tâm vọng của mỗi người để đạt đến Chơn Tâmbí quyết để thành tựu trong việc Giác Ngộ là “Vô Tâm” theo Hương Hải. Tương quan giữa Phật và chúng sanh Thiền Sư diễn tả như sau: “Khi mặt trời lên chiếu sáng thiên hạ, thì hư không, không vì đó mà sáng, khi mặt trời lặn bóng tối bao trùm khắp thiên hạ thì hư không không vì đó mà tối. Sự sáng và sự tối tranh cướp lẫn nhau, còn hư không vẫn lặng lẽ tự nó là nó. Tâm Phậtchúng sanh cũng vậy. Nếu quan niệm Phật là thanh tịnh quang minh, quan niệm chúng sanhdơ bẩn mờ tối, thì có tu qua nhiều kiếp như số cát sông Hằng cũng không đạt được giác ngộ.” Sự sáng và tối hoàn toàn tùy thuộc vào không gian, thời gian, nhưng nếu theo Chơn Tâm tròn đầy thì không phải lúc không có mặt trời là tối; vì lẽ cái biết là tối đó do đâu mà có, nếu cái tối có mà không có cái biết được tối không? Như vậy tối và sáng duyên nhau nhưng cái biết thường còn không mất, nếu có mất thì sao khi sáng lại biết là sáng? Đức Phật đã từng hiển lộ điều này trong kinh Thủ Lăng Nghiêm khi chỉ chơn tâm cho ngài A Nan. Sự hiện diện của Đức Phật như chúng ta đã biết nhằm một mục đích duy nhất mở bày cho chúng sanh đi vào tri kiến giác ngộ. Trước đó chúng ta không hề nhận ra được chân lý này, nhưng trong mỗi con người đều có khả năng thành Phật tiềm ẩn, vì trần lao phiền não che khuất nên không vén mở được cái bổn lai diện mục của mình. Đức Phật có thể làm được điều này mà tôi, ngoài ra ngài không có quyền năng đưa một ai đi đến giải thoát mà chính kẻ ấy không tự mình đi qua quá trình giác ngộ, Phật cũng từ con người bình thường như những chúng sanh khác, ngài hơn chúng ta là biết xử dụng trí tuệ để từ đó đi đến giải thoát. Nếu tất cả chúng ta đều xử dụng đến trí tuệ của mình thì chắc hẳn sẽ được giải thoát như ngài. Huyền Giác trong chứng đạo ca cũng đã cho chúng ta một quan niệm về điều nầy.


“Thoắc giác rồi Như Lai thiền
Sáu độ muôn hạnh thể tròn nguyên
Trong mộng lao xao bày sáu nẽo
Tỉnh ra bằn bặt chẳng ba nghìn”

Mê, Ngộ theo Hương Hải cũng vì đối đãi với nhau mà có, duyên với nhau mà lập, nên không thật, nếu tìm cầu chân mà bỏ vọng ắt lạc vào ngàn trùng, vọng che khuất nên Ngộ không mở bày, một khi chân hiển lộ thì vọng tự nó tiêu diệt vì có vọng nên mới có chân. Ngài nói: “Mê và Ngộ dựa vào nhau, Chân và Vọng vì đối đãi với nhau mà có. Nếu tìm Chân bỏ Vọng thì không khác gì người sợ bóng theo hình mà cứ chạy ở ngoài nắng. Nếu biết rõ vọng là chân thì cũng như đi vào nơi rợp tự khắc bóng biến mất.”


Mê và Ngộ cũng tựa như kẻ bộ hành đi trong đêm tối vốn sợ ma, dù không biết ma là gì cả, nhưng khi đi có cảm tưởng đằng sau có ai đi theo, hễ bước nhanh thì nghe tiếng đi nhanh, đi chậm thì nghe tiếng đi cũng chậm, đến khi quýnh lên vụt chạy, nghe tiếng ấy chạy theo, cứ như thế mà cắm đầu cắm cổ chạy mãi đến nơi có đèn sáng, cố lấy bình tĩnh quay đầu nhìn lại thì không trông thấy ai cả. Mê và Ngộ cũng tương tự như thế khi chưa tìm ra được lý lẽ của nó thì thấy có hai thái cực, nhưng thật ra hai là một, mà một là hai, nếu ngộ thì không còn thấy có hai mà tự nó tiêu hủy, hỗ trợ lẫn nhau, còn nếu mê thì muôn kiếp vẫn phải trôi lăn trong vòng sống chết, mịt mù tăm tối.


Ngoài ra Hương Hải còn cho chúng ta thấy rất nhiều về khía cạnh của những tương quan như: thiện ác, tâm cảnh, nhằm cho ta có một ít khái niệm thực tế trong ấy. Tất cả những điều này không ngoài mục đích tạo lại sự quân bình mà cái tâm của ta vốn đã dong ruổi quá nhiều theo trần thế, hay bóp méo sự thật cũng như tạo nên những xung đột một cách phi lý ở nội tại, chấp nhầm những gì mà ta có thể quan niệm đo lường, sờ mó được, hầu như ta duyên theo đó để khởi nên những phân biệt. Bản chất Giác Ngộ là phải vượt ra ngoài những đối đãi, cần phải trở về khám phá trong tận cùng tâm thức, đừng dong ruổi theo ngoại vật, phong tỏa lục căn bằng cách tiếp xúc với trần cảnh nhưng đừng bao giờ bị đắm nhiễm trong ấy.


“Thấy theo sắc mà hết
Nghe theo tiếng mà bay
Trở về là thượng sách
Hôm qua và sáng nay.”
(Nhãn quan tùy sắc tận
Nhĩ thức trục tranh tiêu
Hoàn nguyên đương biệt chỉ
Tạc nhật dữ kim tiêu.)


Ở khía cạnh khác về Tâm và Cảnh, hầu hết chúng ta cứ luôn nắm bắt theo trần cảnh nên bỏ mất cái chân tâm thường hằng của mình, vì trần cảnh vốn sinh diệt không thật, nếu theo đó chỉ làm cho ta đau khổ. Điều quan trọng, buông bỏ thế giới bên ngoài để soi sáng chiếu rọi vào Chơn Tâm, nhưng không có nghĩa bỏ cảnh để về tâm, bởi lẽ cảnh đều do tâm mà hiện, bỏ cảnh tìm tâm là lắp thêm một cái đầu trên một cái đầu, cứ việc làm hiển lộ cái Chân Tâm thì tự nhiên cảnh cũng trở thành chân, đừng có quan niệm là tách rời nó ra hai thể, thì cứ luống công chạy ngược xuôi để tìm chân, mà thực ra ngay chân có vọng, trong vọng có chân. Để tóm tắt tư tưởng của Hương Hải trong những tương quan ở trên điều cần nhất là không trốn chạy hiện hữu. Thiền Sư viết:


“Thân vọng tới gương soi bóng
Bóng với thân vọng giống nhau
Chỉ muốn giữ thân bỏ bóng
Vọng thân vốn có thực đâu ?
Thân kia với bóng đồng nhất
Một không một có được nào ?
Kẻ muốn giữ một bỏ một
Cách xa sự thật biết bao !
Người nào ưa thánh ghét phàm
Sẽ mãi sanh tử phiền não
Phiền não vì tâm mà có
Vô tâm phiền não ở đâu ?
Hễ đừng phân biệt chấp tướng
Đương nhiên chứng được đạo mầu”


Theo Hương Hải, một khi tâm an tịnh đó là Thiền chứ không cần phải tìm cầu đâu xa “Trong đời sống hàng ngày không gì không phải đạo, hễ an tâm thì đó là Thiền”. (Nhật dụng vô phi đạo, Tâm an tức nhị Thiền)

III. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA HƯƠNG HẢI

Cuộc đời của Hương Hải đã để lại sự nghiệp trước tác, chú giải, phiên dịch khá nhiều hơn 30 tác phẩm, hầu hết những tác phẩm nầy chưa tìm lại được.
- Giải Pháp Hoa Kinh
- Giải Kim Cương kinh lý nghĩa
- Giải Sa Di giới luật
- Giải Phật Tổ tam kinh
- Giải A Di Đà kinh
- Giải Vô Lượng Thọ kinh
- Giải Địa Tạng kinh
- Giải Tâm kinh đại điển
- Giải tâm kinh ngủ chỉ
- Giải Chân Tâm trực thuyết
- Giải Pháp Bảo Đàn Kinh
- Quán Vô Lượng thọ kinh quốc ngữ
- Phổ khuyến tu hành
- Bảng điều nhất thiên
- Cơ duyên vấn đáp tinh giải
- Sự lý dung thông, thơ.
Để có ý niệm về thơ nôm của ngài, chúng ta đọc một đoạn trong Sự Lý Dung Thông:


“Những thánh hiền nguồn nhân biển quả
Xưa tu hành trí đã rộng cao
Trong nơi ba cõi ra vào
Mười phương tri thức ai vào khá nghi
Nguyện in thanh hải tịnh trì
Thềm lan bóng trúc hề chi viên ngần
Phên dày nước chảy khôn ngăn
Mây mỏi ngoài trần há động non cao
Sự nài bao hang sâu tiếng dội
Đèn hãy dùng chớ nỗi chờ trăng
Đường lên diệu lộ cao thăng
Giải hành hai chữ há rằng làm sai
Tạng Như Lai làu làu thanh tịnh
Nắm hương lòng hằng kính hằng tin
Đòi phen giải thoát tự nhiên
Dụng chân như trí, gương thiền ráng thâu
Lộc dương theo dấu hay đâu
Nê ngưu vào biển rộng sâu khôn tìm
Bao nhiêu chim bay về lạc tổ
Mây che ngoài ngỡ ổ hang xưa
……………
Đạo viên minh ngại chi chân tục
Miễn lòng rồi tri túc thời nên
Năm mươi năm phẩm dưới trên
Luyện Tam muội hỏa chí bền kim cương
Nhân thiên mấy đấng phong quang
Tam hiền thập thánh một đàng cao siêu
Cày mây cuốc nguyệt đã nhiều
Chứng vô thượng sĩ danh tiêu mới nồng.”


Ngoài ra còn có những bài thơ do thầy Thích Trí Hiếu sưu tầm và được đăng tải trong tập san Đuốc Tuệ (số 7 ra ngày 21.1.1936) hai bài thơ của Hương Hải, một bài vịnh cảnh xuân và bài khác tặng quan Trấn Thủ Sơn Tây. Hai bài nầy không thấy chép trong Kiến Văn Tiểu Lục.


1. “Tam dương khai thái chuyển hồng quân
Cửu thập thiều quang sắc sắc tan
Dạ tỉnh thanh phong chiêu ngọc lộ
Nhật tình thụy khí ái từ vân
Sơn cao lâm thụ hy kỳ mỹ
Bình địa niên hoa phức úc huân
Xứ xứ nghên trường ca vạn thọ
Nhân nhân hòa mục vĩnh thiên xuân”
Và bài thứ 2 đó là:


“Hướng minh quy mệnh sự quân vương
Yết kiến tôn công khánh thọ đường
Tài dụng kinh luân kim đức hạnh
Âm thi lễ nghĩa quý văn chương
Ngoại trừ đạo tặc bình dân ái
Nội dường chinh liêm sĩ tốt cường
Quyền trấn Nam Giao danh tứ hải
Khuông phù quốc chính lạc quần phương.”
Trong khi nhàn hạ Sư thường ngâm hai bài thơ nầy:


1. (Thành thị du lai ngụ tự chiền
Tùy cơ ứng biến mỗi thời nhiên
Song triêu nguyệt đáo thiền sàng mật
Tùng tiếu phong xuy tĩnh khách miên
Sắc ảnh lâu đài minh sắc diệu
Thanh truyền trung cổ diễn thanh huyền
Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể
Nhậm vận hà tằng lý hữu thiên.)


Dịch:
“Dạo qua thành thị nghĩ chùa chiền
Tùy cơ ứng biến lẽ đương nhiên
Trăng dòm cửa mở giường kê sát
Gió thổi thông cười khánh ngủ yên
Lâu đài rực rỡ màu đẹp đẽ
Chuông trống vang rền tiếng diệu huyền
Ba giáo nguyên lai cùng một thể
Xoay vần đâu có lẽ nào thiên.”


2. (Thượng sĩ thường du bát nhã lâm
Trần cư bất nhiễm liễu thiền tâm
Liêm khê Trình thị minh cao thức
Tô Tử Hàn Văn khế diệu âm
Vạn tượng sum la cao di hiển
Nhất biểu tạo hóa mật nan tầm
Nho nguyên đãng đãng đăng di khoát
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm.)


Dịch:
“Thượng sĩ thường chơi cảnh tùng lâm
Phong trần không vướng hội thiền tâm
Liêm khê Trình Hiệu người thông suốt
Tô Tử Hàn Văn hiểu diệu âm
Muôn ngàn cảnh vật bày dễ thấy
Tạo hóa một bầu khó truy tầm
Nguồn nho thăm thẳm lên càng rộng
Bể thích trùng trùng xuống lại thâm.”


Qua những ý niệm về thơ của Hương Hải đã biểu lộ phong cách một con người giải thoát. Đồng thời thơ bằng chữ nôm của Hương Hải đã đóng góp thật nhiều cho nền Văn Học nước nhà, nhất là lãnh vực chữ nôm ở thế kỷ thứ 17.

IV. NHỮNG BÀI THƠ HAY CỦA HƯƠNG HẢI

Những bài thơ hay nhất của Hương Hải là lúc vua Lê Dụ Tôn đến tham vấn. Hương Hải không thuyết pháp dài dòng mà chỉ đọc mấy bài thơ, chứa đựng cả tư tưởng thâm sâu mà ngài đã khai quật được từ nội tâm của mình. Hiển lộ nên sự thâm đắc chứng nghiệm tâm linh mà ngài đã phải tốn công để đạt được.
Vua Lê Dụ Tôn hỏi sư rằng: “Trẫm nghe Lão sư học rộng nhớ nhiều, vậy xin Lão sư thuyết pháp cho trẫm nghe để trẫm được liễu ngộ”
Sư tâu: “Xin bệ hạ chí tâm nghe cho thật hiểu bốn câu kệ nầy:


Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Tương lai diện thượng đổ sư nhan.


Dịch:
“Hằng ngày quán lại chính nơi mình
Xét nét kỹ càng chớ dễ khinh
Trong mộng tìm chi người tri thức
Mặt thầy sẽ thấy trên mặt mình.”


Có lẽ đây là một trong những phương phápHương Hải đã nương vào đó để tựu thành giác ngộ. Kiểm soát nội tâm trong từng phút giây là then chốt quan trọng để có thể mở được cánh cửa tâm linh. Dòng tâm thức vốn phức tạploạn động, hưng khởi theo bản năng dính mắc, nô lệ vào trần cảnh. Khi nhãn quan bắt gặp đối tượng, tâm sẽ theo đó khởi lên những vọng động sai biệt. Chính vì duyên theo trần cảnh nên phải trôi lăn trong vòng sống chết vô tận. Nếu xoay tất cả những công năng ở bên ngoài, trở lại quán chiếu vào tận cùng thể tánh, quật khai nguyên lý giác ngộ trong chính mình, thì may ra thành tựu được sự nghiệp chứng đắc.


Kiểm soát những vọng niệm bằng cách, tỉnh thức trong từng niệm hưng khởi và biết một cách minh mẫn niệm ấy có phù hợp trong hành trình đạt được thức giác hay không? Ý thức một cách thường nghiệm, biết được ngõ ngách xuất hiện của nó, hướng nó đi vào nẽo có thể bùng lên ánh sáng thực ngộ. Đừng bao giờ khởi lên ý niệm tiêu diệt hay ngăn chận, như thế gây nên trạng thái nội chiến, cần nhất là phải xoay chiều, hoán chuyển từ mê sang giác ngộ, hoán chuyển từ vọng sang tịnh, và trong vọng có tịnh và cũng có thể vọng chính là tịnh, hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ chứng nghiệm, thẩm định một cách siêu thể.


Đừng bao giờ nương vào những quan niệm do trí thức xúi dục, dù đó là điều nghe có vẻ phù hợp với trạng huống, nhưng nếu không khéo quan sát cặn kẽ dễ bị lầm lẫn, bởi vì tri thức được hưng khởi còn nằm trong phong tỏa của vô minh. Như giấc mộng huy hoàng đâu đó còn lại nuối tiếc rỗng không, đừng tìm cầu bên ngoài dù đó là ý niệm thiện, nhưng ngoài tâm vốn không có Phật, Phật được hình thành từ trong những khám phá tra vấn ở nội tại.


Bồ Tát Quan Thế Âm thành tựu được giải thoát, cũng nhờ xoay chuyển cái nghe ở bên ngoài, để nghe chính sự hưng động nơi tự tâm, nhờ quán sát nội tâm, soi thấu ngũ uẩnchứng nhập giải thoát. Chưa một ai có thể đạt được giác ngộ mà không đi qua chặng đường quật khởi nội tâm, mọi hỗ trợ nơi trần cảnh không hẳn là yếu tố quan trọng, nếu không lấy cái tâm làm gốc. Hẳn chắc một ngày nào đó bộ mặt nghìn đời xuất hiện, khi đã đi hết con đường khám phá tận cùng ở nội tâm.


Vua Lê Dụ Tôn lại hỏi; “Thế nào là ý của Phật.”
Sư liền đáp:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Dịch:
“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình.”


Điều đắc ý nhất của Hương Hải là “vô tâm” – không có nghĩa là thờ ơ, không chú ý. Nhưng ngược lại đây có những công năng siêu việt hơn, không để bất cứ những tư duy, tương quan nào có thể dính mắc, không bị những sai sử của sai biệt, không khởi lên những khuynh hướng đối lập, nhị nguyên. Như một sự rỗng suốt thanh thoát ở trong tâm, chưa một lần khởi lên những phân biệt, tâm, cảnh, chủ thể, khách thể. Đến đi trong cuộc đời, tiếp xúc với trần thế, nhưng không bao giờ đắm nhiễm, ung dung tự tại, làm tất cả nhưng tất cả không làm hề hấn được cái tâm không nầy.


Hình ảnh của con nhạn bay ngang qua dòng nước là một hình ảnh đẹp và nên thơ nhất, nó chứa đựng cả một tư duy nhưng nếu, không nằm ở cung bậc tương ứng thì khó mà bắt gặp cái tuyệt diệu của nó. Nếu không một lần nhìn thật lâu vào dòng nước, những thăm hỏi tra vấn với sự lạnh lùng, thờ ơ, giá buốt và mặc nhiên chấp nhận ở dòng nước, thì khó mà tìm ra được đáp số đúng mức cho dòng tâm. Sự lạnh lùng dung chứa của hư không để cho nhạn tung bay, nhưng có bao giờ tìm được hình hài dấu vết trong bầu trời mênh mông ấy. Dòng nước đã từng yên lặng trong những tháng năm đằng đẵng, đã biết bao nhiêu sự đi qua của muôn loài, khi thấp thoáng, khi in đậm nét, nhưng chỉ đi qua chứ nước không một lần lưu lại bóng.


Đó là bài thơ nổi tiếng độc đáo nhất của ngài, ảnh hưởng của nó vô cùng mãnh liệt, một khi kẻ thưởng thức bắt đúng được cung nhịp, bao nhiêu mơ ước bỗng thành mây khói, chỉ còn lại một hình hài không được dệt nên khung ảnh, bàng bạc mênh mang trong không gian mà không hề lưu lại dấu vết. Nhạn bay thật nhiều trên nền trời xanh biếc, đã bao nhiêu năm trôi qua, nhưng cứ mỗi lần nhìn lên bầu trời chúng ta vẫn chưa hề bắt gặp bóng dáng ấy in trên nền trong xanh. Nếu truy tìm một cách kỹ lưỡng, chỉ thấy đâu đó những áng mây lững lờ vốn đã từng in bóng của cuộc đời trong ấy, nhưng không một lần nào mây cố tình nhận bóng, mà hình như nếu có sự tương phản nào đó, thì do con người truy tìm mà vọng tưởng hưng khởi nên, cho đó là thấy một cách thấp thoáng, mờ ảo, tưởng tượng. Không vì những quan niệm của con ngườiáng mây ấy phải lưu lại dấu, mây là mây và nó cứ lững lờ bay nhẹ theo làn gió, chứ không ai có thể bắt nó phải in hình hài vào được, vì nó là nó kia mà. Nếu có, thì cơn gió vô tình cùng với mây trôi về phương trời vô định, mà gió cũng chỉ làm phận sự đưa đường cho mây đi mà thôi, nhưng mây không chịu đi thì gió cũng đành chịu, mây cũng đã từng phủ trên đỉnh núi chơ vơ mà không cần phải đi đâu cả.


Dòng nước cũng đã lắm phen rơi vào cảnh tương tợ như thế, đã bao nhiêu biến thiên của cuộc đời, và cũng đã bao lần bóng nhạn bay qua sóng nước, nhưng rồi chìm khuất vào cõi vô cùng chẳng lưu lại dấu vết gì.


Nếu Tâm con người trong và yên lặng như mặt nước hồ thu, đón nhận tất cả không khởi lên lòng thương ghét, vương vấn. Mọi vật đi qua không lưu lại dấu vết, đó không phải là điều giải thoát hay sao ?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15550)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22991)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14029)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12949)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55078)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9130)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14409)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14145)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14175)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13869)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36273)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19854)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19182)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19105)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20267)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17617)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31509)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15903)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14972)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14661)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46147)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35894)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21019)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21577)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23365)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34349)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19465)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18924)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22909)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20153)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18329)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19821)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19512)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33384)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34448)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54480)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37675)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21112)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17859)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63608)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17354)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49621)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27396)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20248)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22998)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18879)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16311)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17894)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20926)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17338)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14451)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16840)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16357)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15984)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17453)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21954)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15089)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13479)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14352)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15365)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14962)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12676)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13328)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27370)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12486)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13170)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14463)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16203)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12378)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15382)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12855)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12180)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21619)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11268)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22683)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15045)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14921)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46170)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22410)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14542)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12603)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18886)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14711)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43837)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56930)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13816)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47448)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13642)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14552)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28978)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33274)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38343)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15385)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31194)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12515)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40367)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43390)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46629)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant