Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vu Lan Nhớ Mẹ

20 Tháng Tám 201300:00(Xem: 15106)
Vu Lan Nhớ Mẹ


VU LAN NHỚ MẸ


Những chùm lá trên cây đã ngả sang màu vàng, từng chòm mây trên bầu trời lãng đãng trôi, những khóm hoa Hồng trước sân đang nở rộ, tháng Bảy đang đến. Lại một mùa Thu nữa đang đến. Mùa Thu luôn gợi nơi lòng người những kỉ niệm, ký ức sâu xa, lắng đọng. Mùa Thu khiến lòng những người con hiếu thảo bồi hồi xúc cảm khi nghĩ tưởng đến ân nghĩa thiêng liêng nhất trong đời : ân nghĩa sanh thành.

Kính lạy Mẹ !

Ở chùa, Phật tử đang chuẩn bị sắm sửa và tổ chức đón Vu Lan, đêm nay con thắp thêm một nén nhang nơi chân dung của Mẹ ở bàn thờ Linh tại Chùa và lòng con sống lại với bao kỉ niệm ân tình với Mẹ. Đây là những dòng hồi ký như là tự tình và tấm lòng của con kính dâng lên Mẹ trong mùa Vu Lan.

Con đã tượng hình và lớn lên trong phôi thai bằng máu huyết, tình thương và bảo bọc của Mẹ. Mẹ cưu mang con chín tháng nặng quằng như thế và sinh con vào đời thật là một công trình khó nhọc lớn lao. Kể từ ngày con chào đời cho đến hết cuộc đời Mẹ, Mẹ thương yêu săn sóc con nhiều lắm. Vì con là con Út của Mẹ, lại là “con cầu, con khẩn” nữa cho nên Mẹ cưng quý con hết lòng. Mẹ sống tận tụy, hi sinh cho con, tất cả vì con, con là nguồn vui, niềm hi vọng, là lý do khiến Mẹ lăn lộn, phấn đấu sinh tồn.trong cuộc sống.

Con nhớ lại những ngày tháng tuổi thơ ấy, Mẹ đã chịu đựng biết bao gian khổ, truân chuyên, nhẫn nại mới có thể làm lụng, sinh hoạt và nuôi chúng con khôn lớn. Hoàn cảnh của Mẹ thật đặc biệt : cha chúng con sau 45 tuổi bị bệnh “lơ lãng”, khi ấy ba chị em chúng con đều ăn học, nên Mẹ vừa lo bổn phận người mẹ lại vừa gánh thay trách nhiệm cho Cha trong điều kiện làm nông - ruộng vườn, nơi đất sỏi, khô cằn : “chó ăn đất, gà ăn đá” vùng quê Cát Minh, Phù Cát - miền Trung Việt nam .

Ngày nào Mẹ cũng tảo tần vất vả. Vào những năm sau 1980, sinh họat nông nghiệp miền Trung Việt nam còn lạc hậu và khó khăn lắm. Mẹ đã để lại trong con hình ảnh một con người cần cù chăm chỉ đúng mực, thật khó ai sánh bằng. Đây là tiêu biểu cho lịch sinh hoạt một ngày của Mẹ : 3 giờ sáng là Mẹ đã thức dậy rồi đi xay lúa, giã gạo ( bằng tay), sàng sảy , nấu cơm. Sau đó, Mẹ lo bồi dưỡng những con bò cày bằng nước cơm với cám, chuối cây,…Một điều không thể thiếu trong mỗi ngày là Mẹ thay nước, thắp nhang tụng kinh buổi sáng (Mẹ đã thọ Tam Quy Ngũ Giớiăn chay trường từ lúc 32 tuổi cho đến hết cuộc đời), con vẫn thường thức dậytụng kinh sáng theo Mẹ. Đến 5 giờ 30 sáng Mẹ đánh thức hêt mọi người cùng dậy để ăn sáng. Những ai cùng theo Mẹ ra nương rẫy thì lùa cả đàn bò đi, gánh theo các loại phân tải ruộng, gồng gánh cơm nước để nghỉ trưa và ăn trưa tại rẫy. Đến nương rẫy rồi thì công việc rất là nhiều, Mẹ ham và tranh thủ làm việc ít khi ngưng tay. Ngoài các việc thông thường cho phụ nữ như làm cỏ, bón phân, gieo, cấy, hái, tỉa bắp, vun khoai,… ngay cả các việc nặng nhọc như gồng gánh, vác mía, cày bừa hay thậm chí việc cắt tranh và leo lên mái nhà để lợp lại, tất cả mọi việc xếp đặt tính toán canh tác vụ mùa,… Mẹ đều lo hết. Làm ở nương rẫy cho đến sau khi mặt trời lặn, Mẹ mới về nhà. Ăn cơm tối xong, Mẹ lại đi tụng kinh. Xong hết mọi việc trong ngày, Mẹ đến thăm nom, hỏi han và dạy bảo từng người con về tình hình sinh hoạt trong ngày để rút ra những bài học kinh nghiệm trước khi đi ngủ. Mẹ thật là chịu thương, chịu khó, dẻo dai, kiên nhẫn, thật xứng đáng với danh hiệu : “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, một tay chèo chống, gìn giữ, chăm lo gia đình.

Con là Út trong gia đình nên ưu tiên làm những việc nhỏ nhặt, chăn bò, hái đậu, tháo nước,… hoặc là ở nhà coi chừng nhà lo việc phơi lúa, phơi mè,… Hàng ngày, Mẹ chăm chút từng miếng ăn, cái mặc, giấc ngủ cho con. Ngày nào con ở nhà, khi Mẹ đi nương rẫy về, luôn có mang theo mía, củ sắn, chuối, trái ổi… cho con. Mỗi lần đi chợ, thế nào Mẹ cũng mang về cho con bánh tráng, bún, kẹo…. Phần Mẹ nhín nhịn không ăn, dành hết đồ ngon ngọt cho con, ngắm nhìn con ăn ngon lành, vui sướng, vậy là Mẹ hạnh phúc rồi. Mẹ lựa vải và cắt may đồ đạc cho con mặc bằng bàn tay của Mẹ. Tuy là không được nhuyễn và đều như áo may bằng máy nhưng từng đường kim sợi chỉ là đan kết những nỗi lòng yêu thương của Mẹ, nên áo Mẹ may cũng rất khéo và đẹp, mặc vào được nhiều người khen. Ban đêm, giấc ngủ con được vỗ về êm đềm trong cánh tay của Mẹ. Mẹ đã chịu nhiều cay đắng và chập chồng gánh lo để cho con có được tuổi ấu thơ ngọt ngào và khôn lớn với đời :

Càng lớn con càng thương Mẹ hơn

Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn

Tháng năm đời có thêm cay đắng

Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn

Thuở nhỏ con còn chưa nhận thức và biết giá trị của việc học tập, Mẹ khuyên bảo con cố gắng học hành để sau này cuộc đời con không còn khổ như Mẹ nữa, nhờ động lực vô biên ấy mà con học hành tiến bộ để không phụ niềm mong mỏi của Mẹ. Mẹ mong muốn con khôn lớn nên người, thành danh với đời. Con có gì vui, có gì tốt đều “đem khoe” với Mẹ, con thường hay khoe với Mẹ về những lời khen thưởng của Thầy Cô giáo, những điểm 10 và giấy khen học sinh tiên tiến cùng phần thưởng sách, chồng vở và bút bi. Khi có gì buồn bực đều tâm tình Mẹ hay. Mẹ luôn sẵn sàng chia sớt đắng cay, san sẻ ngọt bùi với con và Mẹ là phương diệu dược hóa giải mọi rẳc rối con gặp đường đời. Dẫu trong một ngày có trải qua bao căng thẳng, xót xa, ê chề, dằn vặt, … sau một đêm ngủ trong vòng tay của Mẹ, đến sáng hôm sau con lại có đủ nghị lực hội nhập vào đời. Với con, Mẹ là bà tiên, thật gần gũi, ngọt ngào, quý giá nhất trần gian như lời trong một bài hát về “Mẹ”

Mẹ, Mẹ là dòng suối dịu hiền
Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên
Là bóng mát trên cao
Là mắt sáng trăng sao
ánh đuốc trong đêm khi lạc lối

Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào
Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau
Là tiếng dế đêm thâu
Là nắng ấm nương dâu
Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời

Cho đến khi con đã mệt mỏi trong cuộc sống xoay quần, chen lộn ở trần gian, đã thấm nhuần, thâm nhập từng lời kinh, tiếng kệ Mẹ đọc tụng khi xưa, con quyết định xuất gia thoát tục và tìm cầu về bến bờ giác ngộ. Đó thực sự là một quyết định khó khăn đối với con và Mẹ. Con đã nhiều lần suy nghĩ lựa chọn giữa cuộc sống tu tại gia và xuẩt gia vì con cũng thường tâm niệm:

"Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu".

"Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.”

Nhưng rồi, con lại nghĩ cuộc sống tu tại gia đầy rẫy khó khăn, thử thách, cám dỗphiền não. Rồi sau này sẽ gây tạo thêm bao nghiệp và bận rộn loay hoay hết một đời và sẽ không có điều kiện chuyên tâm tu học. Cuộc sống xuất gia sẽ có nhiều điều kiện thuận tiện và con sẽ dành trọn hết tâm tư cho nghiên cứu tu học, thể nghiệm hướng đến giác ngộ, giải thoát.

Con là niềm vui, niềm an ủi của đời Mẹ, Mẹ không muốn xa con, đặc biệt là khi về già, Mẹ muốn sống với con. Nhưng vì chiều theo nguyện vọng của con, không muốn ích kỷ giữ người con lại cho riêng mình, Mẹ đã hiến dâng người con mình cho Đức Phậtchúng sanh muôn loại.

Trong thời gian đầu ở chùa, tuy rằng đã “ly gia” nhưng thật khó “các ái”. Ban đêm sau mỗi thời tụng kinh ở chùa, con thường đứng trước tượng Quan Âm ngoài sân Tu Viện Nguyên Thiều rất lâu để cầu nguyện cho Mẹ nơi nhà bình yên. Về đến phòng riêng, dù đọc kinh đến khuya rồi mà vẫn chưa ngủ được, nên con thường ra ngoài hiên - lan can để hướng nhìn về nhà. Trong cảnh ấy, con nhớ đến câu ca dao :

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Ngó về quê Mẹ, ruột đau chín chiều.

Nhưng rồi sau một thời gian, con lại tự dặn lòng là đừng để thương nhớ vướng bận nhiều nơi lòng và hãy quên đi mọi nỗi niềm hệ lụy trần gian, gác bỏ mọi chuyện đời mà chuyên tâm học Đạo. Thế nên, con say sưa lo các bổn phận công việc trong chùa, đọc và học kinh sách. Tu học được bốn năm tại Tu Viện, con có tham học trường Cơ Bản Phật Học tại Tu Viện Nguyên Thiều, rồi đến năm 1993, con thi đậu vào trường Học Viện Phật Giáo Vạn Hạnh – Saigon. Trong bữa liên hoan tại Tu Viện Nguyên Thiều tiễn đưa con vào Saigon tu học, Mẹ vừa vui, vừa buồn. Mẹ vui là vì nhìn thấy người con của mình tu học có những bước tiến khả quan nhanh chóng, đúng với nguyện vọng của Mẹ. Còn Mẹ buồn bởi vì Saigon là quá xa đối với Mẹ, Mẹ không thể sắp xếp thời gian và khó dành dụm đủ tiền xe để được thăm và gặp mặt con thường xuyên như khi con ở tại Bình Định nữa.

Ở Saigon, gặp môi trường rất thuận tiện cho việc học và mở mang kiến thức nhiều mặt, kể cả việc học ngoại ngữ nữa cho nên con đã dồn hết tâm trí vào việc học. Nhiều thử thách và bài vở liên tục nên con không còn nhiều thời gian để nhớ đến Mẹ và quê nhà được nữa. Ngoài giờ học ở trường Vạn Hạnh, con đọc kinh sách ở thư viện Vạn Hạnh, Xá Lợi, Vĩnh Nghiêm, thư viện quốc gia, đi học ngoại ngữ ở các trung tâmĐại Học Tổng Hợp, sinh hoạt các câu lạc bộ ngoại ngữ đến 9 : 30 tối mới về rồi đến giờ chỉ tịnh, nghỉ ngơi để ròi ngày sau sinh hoạt tiếp. Ấy thế, dòng sống và sinh hoạt cứ kéo con vào quỹ đạo của nó, thời gian cứ thấm thoát qua đi con không kịp ý thức rằng hàng ngày hàng đêm Mẹ vẫn dõi mắt vào Nam trông ngóng tin người con yêu dấu của Mẹ. Thời gian ấy, con rất ít khi biên thư về thăm Mẹ, giờ này con nghĩ lại đó là sự thiếu xót. Bận rộn chăng? cũng có thể nhưng chưa hẳn vậy. Nếu quả thật bận rộn thì sao con có thể viết thư thăm Tăng Ni sinh, thăm bạn thời trung học ngày xưa? Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã mô tả đúng về tâm tư và sinh hoạt của những người con trưởng thành khi xa Mẹ:

Ta làm thơ cho đời và biết bao người con gái
Có bao giờ thơ cho mẹ ta không?

Ta quên mất thềm xưa dáng mẹ ngồi chờ
Giọt nước mắt già nua không ứa nổi
Ta mê mải trên bàn chân rong ruổi
Mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng

(Mẹ - Đỗ Trung Quân)

Sau khi con học xong 4 năm Học Viên Phật Giáo Vạn Hạnh, Mẹ vui mừng khôn xiết kể. Mẹ vào Saigon để dự Lễ Tốt Nghiệp của con và hi vọng là con sớm trở về Tu Viện Nguyên Thiều lo Phật sự tại đó để Mẹ gần gũi và thường xuyên viếng thăm. Thế nhưng con lại báo Mẹ hay tin ý định của con là chuẩn bị sắp xếp để lên đường sang xứ Phật - Ấn Độ, du học. Lại một lần nữa, con khiến Mẹ hụt hẫng. Nhưng với tấm lòng hi sinh bao la, trước nguyện vọng chân chính của con, Mẹ lại chấp nhận sống ở quê nhà một mình khi tuổi già sức yếu. Lúc đó vào năm 1997, tình ccảnh gia đình thật khó khăn : chị cả đã đi lấy chồng, còn một người anh duy nhất ở nhà lại hay cãi lời Mẹ và không hợp tính với Mẹ, phần Cha thì càng ngày càng “lơ lãng” và không còn san sẻ được gì với Mẹ trong cuộc sống nữa. Ngày con về nhà chào Mẹ để đi Ấn Độ, lòng con thật se thắt, chạnh lòng. Nhưng nguyện vọng tha thiết mong được có thời gian lần theo dấu chân Phật, tu niệm ngay nơi ngày xưa Đức Phật tọa thiền, tìm Ánh Đạo Vàng, theo học các khóa Phật học, Pali, Sanskrit lại thôi thúc con lên đường. Mẹ ngậm ngùi chia tay, che giấu nỗi buồn và già yếu cho con yên lòng ra đi.

Thời gian tu họcẤn Độ con có nhiều đêm suy tư, thao thức và nhớ về Mẹ. Nhìn gia đình người Ấn sum vầy, các người con xoay vần xung quanh người Mẹ, con lại nhớ đến cái tuổi thần tiên ngọt ngào, hạnh phúc bên Mẹ. Đi dạo nơi làng hai Ngài Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, con lại nhớ đến tấm gương hiếu thảo sáng ngời của hai vị Đại Đệ Tử Phật – tu đắc quảcứu độ Mẹ mình. Con nguyện lòng noi dấu quý Ngài, ngày đêm chuyên tâm tu họccầu nguyện cho Cha Mẹ được bình an:

Mỗi đêm con thắp đèn trời

Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con

Được phúc duyên tu học xứ Phật thật là hi hữu, nhưng niềm vui của con khó bề trọn vẹn. Mỗi dịp Tết đến hay vào dịp Vu Lan về là cao điểm khiến lòng con xúc cảm thương nhớ đến Mẹ rất nhiều. Con rất muốn về thăm quê hương Việt nam vì nơi đó có người Mẹ yêu dấu mà con biết là đang tháng ngày yếu gầy mòn mỏi trông con. Con thật kính phục Đức Phật Thích Ca vì sau khi xuất gia, gửi tóc và hoàng bào lại Vua Cha là Ngài tận tâm, dồn hết năng lực vào tu học trong sáu năm không còn thời giờ để hướng nghĩ về thành Ca Tỳ La Vệ nữa, nhưng con lại tự an ủi mình : dù sao thì Cha Ngài - Vua Tịnh Phạn Vương, Dì Mẫu Ngài – Bà Ma ha Ba Xà Ba Đề cũng đã có đầy đủ mọi phương tiện sống đầy đủ, còn Mẹ của con thì già yếu, lòng trống vắng cô quạnh, sống khó khăn và dồn hết niềm hi vọng ở nơi con vậy thì làm sao mà con quên Mẹ cho đành? Những chiều dạo ở bờ sông Mukherjee Nagar hay sông Ni Liên Thuyền con thoáng có phút chốc chạnh lòng với thân lữ khách :

“Dấn thân phiêu bạc dặm trường,

Lạc loài lữ khách tha phương nhớ nhà,

Chuông chiều đồng vọng ngân xa

Ru thời gian nhuộm úa hoa cuộc đời”. (Lâm Khánh Trung)

Đến năm 2002, Mẹ bị bệnh năng : bệnh ung thư thực quản. Nhận được tin, con gác việc học tại Ấn Độ, tất tả về thăm Mẹ. Sau đó, con và chị Lan cùng Mẹ vào Saigon để trị bệnh cho Mẹ. Con đã cố hết sức tìm gặp và trị nhiều vị Thầy Thuốc Nam, Bắc, Tây Y khác nhau để trị bệnh ung thư thực quản cho Mẹ nhưng không thành công. Cuối cùng, nhà thương chợ Rẫy chỉ còn cách là đặt một ống nhựa nơi hông để mỗi bữa bơm thức ăn vào cho Mẹ. Tuy bệnh tật thường xuyên lên cơn đau hành hạchấp nhận đặt ống bơm thức ăn như vậy, nhưng có được thời gian gần bên con, Mẹ vui mừng lắm nên quên đi đau ốm bản thân mình. Bao nhiêu năm con sống xa Mẹ rồi, chỉ có những tháng Mẹ đau ấy là Mẹ được gần bên con ngày đêm. Mẹ thường nhắc nhở người Chị và mọi người lo phần ăn uống cho con. Khi con phải qua Ấn Độ để tiếp tục việc học, vì thương con và vì biết là sức mình sống không được bao lâu nữa nên Mẹ quyết định bỏ tất cả lại phía sau lưng để theo con đến Ấn Độ, để được đến Thánh Tích và sống bên con những ngày cuối đời và dù cho một mai sau đó phải gửi nắm xương tàn nươi đất khách quê người, Mẹ cũng không ngại. Con đưa Mẹ vào bệnh viện ở New Delhi để chữa trị thêm. Nơi ấy họ scan và giải phẫu đau đớn lắm, Mẹ kiệt sức. Nhưng vì muốn kéo dài thời gian sống với con, Mẹ chấp nhận tất cả các phương pháp chữa trị trên tấm thân khô gầy héo hắt sắp tàn của Mẹ. Sau đó, con đưa Mẹ đế Bồ Đề Đạo Tràng để Mẹ thường xuyên đến cội Bồ Đề, nơi Đức Phật ngồi thiền 49 ngày đêm và đắc đạo khi xưa để Mẹ tu tập. Con vừa lo giúp Mẹ sinh hoạt vừa đến thư viện Đại Học Magadh, Hội Maha Bodhi Society và các chùa gần đó để tìm tài liệu nghiên cứu cho chương trình Ph. D Research của mình.

Mẹ thấy con vất vả lo cho Mẹ tốn nhiều thời gian, Mẹ cũng muốn về Việt nam thăm lại gia đình, những người ba con và thu xếp một số việc trước khi từ giã thế giới này, nên Mẹ lại quyết định rời Ấn Độ về lại quê nhà. Ngày tiễn Mẹ về tại sân bay Delhi, Mẹ ôm chặt lấy con trước khi vào phòng cách ly như ôm lấy một phần cơ thể Mẹ, như linh cảm sẽ không còn bao giờ có thể ôm được nữa, con chính là sự tiếc nuối lớn lao của Mẹ khi Mẹ phải rời xa thế giới này ( như lời Mẹ thường tâm sự). Con nén xúc động, bùi ngùi an ủi Mẹ : “Mẹ về, cố gắng an dưỡng, con sẽ sắp xếp việc học và về thăm Mẹ nữa”.

Có Mẹ ở Ấn Độ thì con phải dành thời gian nấu món ăn và lo thuốc thang cho Mẹ, thế nhưng tinh thần được yên vui, khi Mẹ đã về rồi, con biết Mẹ ngày đêm héo hắt bấm bụng nhớ thương con và con cũng thường lên lầu thượng, nhìn những chiếc máy bay đang bay về hướng Đông Nam, con lo cho Mẹ không biết ở quê nhà Anh Chị vì bận bịu gia đình và làm ăn trong cuộc sống có nuôi đau và chăm sóc Mẹ chu toàn không?

“Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm” (Nguyễn Du - Truyện Kiều)

Con chỉ còn biết cách phone về hỏi thăm tình hình của Mẹ thông qua người bà con gần đó nhưng vì tài chính cho cuộc sống tu học tại Ấn Độgiới hạn nên con không thể phone thường xuyên như ý muốn được.

Cho đến một hôm con vừa từ thành phố Nalanda về Delhi đến thăm các vị Huynh Đệ quen thì trên đường đi gặp Sư Giác Thạnh và Sư Cô Liên Hòa báo tin là : Tin từ gia đình Thầy báo sang, Mẹ Thầy vừa mới mất hôm qua. Lúc ấy con bàng hoàng thắt nghẹn. Trước đó chỉ có 4 ngày thôi, con gọi phone về hỏi thăm thì người bà con bảo là : bà cụ vẫn còn khỏe, chắc vẫn còn sống được một thời gian nữa. Thế đó, sau này về quê con khám phá ra là : các vị bà con sợ ảnh hưởng việc học của con nên không báo thật tình hình sức khỏe của Mẹ vì Mẹ hay lên cơn đau ốm bất thường, chỉ đến khi nào Mẹ mất rồi, họ mới báo tin mà thôi.

Vẫn biết trước sau gì Mẹ cũng từ bỏ cõi đời này mà ra đi nhưng Mẹ ra đi vào lúc đó khiến con bàng hoàng xót thương, thổn thức khôn nguôi. Bởi vì con dự tính làm xong thêm một số việc trong thời gian ngắn nữa rồi về quê ở bên cạnh, chăm sóc, tâm tình với Mẹ một thời gian trước khi Mẹ qua đời. Sau này con nghe kể lại : ngày nào Mẹ cũng nhắc đến tên con, cũng mong đợi con. Mẹ đem những món kỉ niệm con mua cho Mẹ ở Ấn Độ : : tượng Phật nhỏ, dây chuỗi, mũ len,…. mà ngắm ngía như Mẹ con đang ở bên nhau. Con mơ ước có một ngày học xong, tạm gác lại hết mọi việc để về được sống với Mẹ càng lâu, càng tốt. Dù con sớm chiều đi làm rẫy, làm nương mà sum vầy bên Mẹ cũng là hạnh phúc nhiều rồi. Nhưng ước mơ đó mãi mãi không thành hiện thực, con đang ở trong cảnh ngộ của Ngài Tử Lộ :

“Mộc dục tịnh nhi phong bất định, tử dục dưỡng nhi thân bất tại” ( cây muốn lặng mà gió không ngừng, con muốn nuôi cha mẹ, nhưng cha mẹ không còn nữa )

Lên ngồi trên máy bay về quê thọ tang Mẹ, lòng con tức tưởi : “Mẹ ơi! Thế là hết thật rồi sao? Mẹ đã phải ra đi thật rồi sao? Lẽ nào cơn vô thường nghiệt ngã đã cướp mất Mẹ? Bao năm tháng Mẹ dõi theo từng bước chân con đi, Mẹ mỏi mòn đợi chờ con về từng giây từng khắc, Mẹ luôn mong muốn được nhìn mặt con lần cuối với những lời trăn trối sau cùng, nhưng giờ đây con đi về mọi việc đã muộn màng. Mẹ ra đi rồi để lại nỗi tiếc nuối khôn nguôi trong lòng con.”

Mẹ ơi !

Hai tiếng “mẹ ơi” con bập bẹ đầu môi khi vừa tập nói và con vẫn gọi lên hai tiếng ấy trong suốt cuộc đời mình dù rằng không còn gặp được Mẹ bằng xương bằng thịt nữa. Con có thể viết gì đây, có thể nói gì đây để bày tở hết được ân tình thăm thẳmcông ơn sâu dày của Mẹ. Quả thật, con cảm thấy ngôn ngữ bất lực, không mô tả được tâm tình và giao cảm thiêng liêng của Mẹ và con :

Ngôn ngữ trần gian túi rách

Đựng sao đầy hai tiếng Mẹ ơi !

ngôn ngữ trần gian cũng không mô tả hết được vẻ đẹp vừa mộc mạc, gần gũi vừa mầu nhiệm thiêng liêng của “kỳ quan thế giới” có một không hai này :

Trong tất cả các kỳ quan

Kỳ quan đẹp nhất vẫn là trái tim của Mẹ.

Mẹ ơi ! Rồi đây hành trình trước mắt con còn bao gian nan trắc trở, con đâu còn Mẹ để thổ lộ tâm tình, để được nghe lời khuyên nhủ động viên của Mẹ nữa? Chỉ còn một mình con lẻ bóng dấn thân trên bước đường đời. Rồi mai này nếu như con có thành tựu bao nhiêu điều mà thuở xưa con mơ ước khi mà không còn Mẹ để Mẹ nhìn thấy và vui lòng san sẻ thì những thành tựu đó đối với con cũng giảm đi ý nghĩa rất nhiều rồi. Mẹ ơi! Mất Mẹ đi rồi thật sự là một sự trống vắng, hụt hẫng không gì bù đắp được trong con vì chỉ có Mẹ là người hiểu được con, cảm thông con, quan tâm, bồi đắp cho con, thương yêutin tưởng con trọn vẹn, là người thủy chung nhất, không bao giờ rời bỏ con dù con ở trong bất cứ trạng huống nào, là người nâng đỡ bước chân con đi xuyên qua bao chặng hành trình.

Con vẫn thường gọi hai tiếng “Mẹ ơi” với xúc cảm sâu xa từ cõi lòng mình khi cúng tuần thất cho những người con vừa mất Mẹ như là con đang đối diện và tự tình với Mẹ :

"Đây bát cơm đầy nặng ước mong,
Mẹ ơi! Đây ngọc với đây lòng,
Đây tình con nặng trong tha thiết,
Ơn nghĩa sanh thành, chưa trả xong".

Trong dịp Vu Lan năm nay, con lại sắp được cài lên trên áo mình một hoa hồng màu trắng nữa, con thật sự cảm thông và thấm thía với : “Tâm Sự Người Cài Hoa Trắng”

“Mẹ hiền ơi! Mùa Vu Lan đã về rồi, người ta đang say cùng đời, hoa hồng đỏ thắm trên môi. Còn mình con, lang thang nhặt cành hoa trắng, nghe cay đắng tìm về trong hồn, đời mất vui khi mẹ chẳng còn.” (Thích Trường Khánh )

Xin chúc mừng và tặng cho những ai còn cha mẹ một cành hoa hồng đỏ. Còn Cha còn Mẹ là diễm phúc lớn nhất ở thế gian này. Bạn hãy ý thức điều đó và quý trọng tận hưởng những giây phút ở bên Cha Mẹ. Cái gì ở thế gian dù quý giá bao nhiêu, mất đi rồi có thể tìm lại được nhưng Cha Mẹ một khi mất đi rồi là vĩnh viễn chia xa. Mong là tất cả những người con đừng có ai quá say mê dong ruổi danh lợi và bao nhiêu hào nhoáng của cuộc đờibỏ quên hay thờ ở, hững hờ, không lo tròn Đạo Hiếu với Cha Mẹ để rồi khi Cha Mẹ mất đi, lúc ấy dù có tiếc nuối thì cũng đã trễ tràng, buồn thương và tiếc nuối không nguôi.

Xin chia buồn và tặng cho những ai không còn Mẹ một bông hồng trắng. Tôi tự an ủi lòng mình và an ủi với bạn : Dù Mẹ không còn nữa bằng hình hài vật chất, nhưng suối nguồn tình thương vô tậnlẽ sống Mẹ đã hun đúc cho chúng ta, những ước mơlý tưởng chúng ta đã thổ lộ và hứa hẹn với Mẹ, sức mạnh tâm linh tinh thần ấy là gia tài Mẹ để lại cho chùng ta. Chúng ta hãy sống thật xứng đáng và trọn vẹn với niềm tin tưởng, hy sinh và sự mong đợi của Mẹ đặt ở nơi chúng ta.

Mẹ ơi !

tu sĩ, con luôn tự tâm niệm lời Phật dạy : Tất cả chúng sanhcha mẹ mà sống thiện, sống tốt đối với tất cả mọi người mọi loài. Với tâm thành, con xin hổi hướng phước đức mà con vun bồi được cầu nguyện cho Mẹ tăng thêm phước thọ nơi cảnh giới an lành. Con tin là Mẹ đang ngự ở cảnh giới an lành và đang tiếp tục dõi bước con đi. Mẹ dù không còn trước mắt con bằng xương bằng thịt nhưng Mẹ vẫn luôn luôn hiện hữu trong con. Con đang nhìn thấy Mẹ ở khóm hoa, trong tiếng gió thoảng, nơi dòng nước êm đềm, trên những chòm sao nơi bầu trời trong mát, từng cụm mây thong dong. Mẹ đã hóa thân thành tất cả. Con luôn tìm thấy Mẹ trong mỗi nếp con nghĩ, mỗi bước con đi, trong những gì con con gặp, trong mỗi việc con làm,…

Mẹ vẫn mãi ở bên con trong suốt kiếp nhân sinh hữu hạn này và con sẽ gặp Mẹ ở cảnh giới Phương Tây an lạc - giải thoát - Niết bàn.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.

thich_dong_tri_1

Mùa Vu Lan, thương nhớ Mẹ hiền

Thích Minh Tuệ

(Thích Đồng Trí )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22985)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14023)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12945)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55075)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9126)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14408)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14145)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14174)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13869)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36269)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19853)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19174)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19097)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20267)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17613)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31504)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15902)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14961)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14655)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46143)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35891)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21015)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21572)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23363)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34345)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19461)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18918)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22907)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20152)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18320)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19816)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19510)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33381)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34441)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54471)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37666)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21107)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17858)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63604)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17351)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49617)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27381)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20247)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22996)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18878)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16310)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17892)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20924)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17335)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14449)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16839)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16356)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15983)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17451)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21952)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15087)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13478)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14349)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15362)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14960)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12674)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13327)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27369)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12485)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13169)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14453)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16195)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12376)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15378)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12850)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12178)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21608)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11267)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22681)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15040)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14920)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46170)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22410)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14540)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12602)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18883)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14710)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43834)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56929)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13816)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47448)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13634)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14550)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28977)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33267)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38335)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15383)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31192)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12509)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40361)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43385)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46618)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14396)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant