Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Hiểu Một Bài Thơ Xuân Của Vương Duy

07 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 10134)
Tìm Hiểu Một Bài Thơ Xuân Của Vương Duy


Tìm Hiểu Một Bài Thơ Xuân Của Vương Duy


Khác với văn xuôingôn ngữ của trí óc, thi phú là ngôn ngữ của con tim. Nếu một bài thơ không biểu lộ được những xúc cảm của con tim thì nhất định sẽ không phải là một bài thơ đúng nghĩa của nó, mà chỉ là một bài văn vần. Xúc cảm của con tim thì đôi khi lại quá kín đáo, vì thế các vần thơ cũng phải thật tinh tế và bén nhạy mới có thể chuyển tải được các xúc cảm ấy. Thế nhưng nếu một bài thơ càng tinh tế và kín đáo thì lại càng trở nên khó nắm bắt hơn. Trong những ngày đầu xuân bên tách trà thơm, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về một bài thơ Đường dưới đây của thi hào Vương Duy mang tựa là Điểu Minh Giản.

 鳥鳴澗 Điểu minh giản

 人閒桂花落, Nhân nhàn quế hoa lạc,

 夜靜春山空。 Dạ tĩnh xuân sơn không.

 月出驚山鳥, Nguyệt xuất kinh sơn điểu,

 時鳴春澗中。 Thời minh xuân giản trung. 

 Dịch nghĩa :

 Chim hót trong khe suối

 Người nhàn [ngắm nhìn] hoa quế rụng,

 [Trong] một đêm tĩnh lặng [giữa] một vùng núi xuân vắng ngắt.

 Con trăng hiện ra [khiến] chim trong núi hoảng hốt,

 Vụt hót [vang] trong khe suối ngày xuân.

 Dưới đây là bài dịch của cụ Ngô Tất Tố

 Chim hót trong khe

 Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh.
Trăng lên, chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi

 Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762). Nói chung thì thời Đường là thời kỳ hưng thịnh nhất của nền văn minh Trung Quốc, tất cả các đường nét đặc thù về văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng của dân tộc Hán đều được hình thành vào giai đoạn này. Thế nhưng mầm mống của sự suy tàn cũng nẩy sinh rất sớm ngay trong thời nhà Đường. Sau "biến cố" Dương Quý Phi và loạn An Lộc Sơn (755-763) nền văn minh Trung Trung quốc suy tàn dần. Xã hội và dân tộc Hán ngày nay chỉ biết chạy theo những giá trị vật chấthãnh diện một cách gượng gạo với ảo giác của một thời xưa vang bóng mà thôi. Chỉ cần nhìn vào lãnh vực thi phú cũng đủ để nhận thấy là trong số hơn một tỉ rưỡi người Hán ngày nay thử hỏi có mấy thi nhân có tầm vóc ngang hàng với Vương Duy, Đỗ Phủ hay Lý Bạch, trong khi dưới các triều đại nhà Đường thì dân số không hơn 50 triệu người (đây là con số ước tính của các học giả Tây Phương căn cứ vào tổng số "hộ" và đầu người trung bình trong mỗi "hộ", ghi chép trong các sử liệu hành chánh vào thời Đường)?

 Bài thơ Điểu Minh Giản trên đây của Vương Duy thuộc thể loại ngũ ngôn tuyệt cú, một thể thơ thật ngắn và cô đọng, gồm vỏn vẹn hai mươi chữ. Đã có rất nhiều bài dịch tiếng Việt, bài trên đây của cụ Ngô Tất Tố chỉ là một trong các bài xưa nhất và cũng chỉ mang tính cách tiêu biểu mà thôi. Thật vậy, bài thơ của Vương Duy thoạt nhìn khá đơn giản và "dễ hiểu" nên cũng rất dễ dịch. Thế nhưng phía sau sự đơn giản ấy còn tàng ẩn một điều gì khác nữa hay chăng? Nếu chỉ căn cứ vào ý nghĩa từ chương thì bài thơ chỉ là một bài tả cảnh với một vài hình ảnh khá rời rạc: hoa quế rụng, đêm tĩnh mịch, núi vắng, trăng mọc, chim kêu... Nếu chú ý thật kỹ thì chúng ta sẽ nhận thấy ngay một vài chi tiết thiếu "mạch lạc" hay "phi lý" nào đó. Nếu giải đoán được các sự phi lý và thiếu mạch lạc ấy biết đâu rằng đây cũng là cách giúp chúng ta đến gần hơn với người thi nhân. 

 Trong phần dưới đây trước hết chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa của một vài chữ dễ gây ra hiểu lầm, sau đó là ý nghĩa của từng câu, và sau cùng sẽ tìm hiểu xem Vương Duy đã gửi gấm những gì trong bài thơ của mình. Thật ra thì trong toàn bài thơ không có chữ nào khúc mắc cả, ngoại trừ ba chữ sau đây là các từ có thể gây ra sự lầm lẫn:

 - trước hết là chữ "quế hoa" trong câu 1. Có hai loại cây quế khác nhau. Một loại có vỏ thơm dùng làm gia vị hoặc dược phẩm, gọi là cây quế khâu, tên khoa học là Cinamomom, tên thông dụng là quế chi, quế thanh (cannelier / cinnamon). Quế khâu có thân cao từ 10 đến 15 thước, hoa bé tí bằng đầu que diêm (xem hình 1-3). Do đó thiết nghĩ những "cánh hoa" ấy có rơi rụng trong rừng thì cũng chẳng liên hệ gì đến một thi nhân "nhàn nhã" ngồi trong một gian nhà giữa đêm khuya. Loại cây quế thứ hai là loại cây kiểng, cao tối đa một vài thước, trồng ở sân nhà hay trong chậu, và có thể mang vào nhà. Loại cây kiểng này gọi là quế hoa, mộc hoa hay mộc tê, tên khoa học là Osmanthus fragrans, thuộc họ Nhài (Oleaceae) (xem hình 4-6). Trong Truyện Kiều có một câu như sau: "Một cây cù mộc, một sân quế hòe" (câu 3238). Hoa của cây mộc quế to khoảng từ một phân đến một phân rưởi, màu trắng (ngân quế), màu vàng (kim quế) hay màu đỏ (đan quế), tỏa hương thơm ngát, tương tự như mùi vỏ cây quế khâu. Trong quyển Việt Nam Tự Điển của Hội Khai-Trí Tiến-Đức, chữ quế hoa được giải thích là một loại hoa tầm xuân, điều này không được đúng lắm vì hoa tầm xuân thuộc họ hoa hồng (Rosaceae).

blank1 blankblank 3

 H.1-3: Cây quế khâu Cinamomom sp. và hoa

blank4 blank 5 blank 6

H.4: Cây hoa quế (Osmanthus fragrans) đang trổ hoa trong sân

H.5: Hoa Ngân Quế

H.6: Hoa Kim Quế

 Các bản dịch tiếng Việt dường như đều hiểu quế hoa trong bài thơ Điểu Minh Giản là hoa của cây quế khâu. Hầu hết các bản tiếng Pháp và tiếng Anh cũng thế, cũng đều dịch là quế khâu (cannelier / cinamon tree), chỉ có một bản tiếng Anh duy nhất tìm thấy trong "Bộ Sưu Tập các Bài Thơ trên Thế Giới" (World Poetry's Archive) dịch là hoa Osmanthus, tức là hoa mộc quế (xem phụ lục).

 - chữ dễ gây ra lầm lẫn thứ hai là chữ không trong câu 2. Chữ không trong tiếng Hán có nghĩa là trống không, các chữ xuân sơn không trong câu này có nghĩa là vùng núi vắng vẻ giữa mùa xuân. Trong khi đó chữ không trong tiếng Việt lại có nghĩa là một sự phủ định. Sở dĩ nêu lên sự lưu ý này là nhằm nhắc nhở những người đọc kinh sách Phật Giáo, nếu mỗi khi thấy nêu lên khái niệm về "Tánh Không" thì phải hiểu chữ không trong khái niệm này có nghĩa là một sự trống không, và không hề có nghĩa là một sự phủ định. Mọi hiện tượng trong thiên nhiên đều "có" thế nhưng chúng "trống không" về một sự hiện hữu mang tính cách nội tại hay tự tại, hoặc nói một cách dễ hiểu hơn là không có bất cứ một hiện tượng nào đứng yên hay giữ nguyên trong một thể dạng nhất định nào đó.

 - chữ thứ ba là chữ thời trong câu 4. Trong tiếng Hán chữ thời mang rất nhiều nghĩa: thời giờ (giờ, khắc), thời điểm, thời kỳ, lúc thời thế này lúc thời thế kia, hợp thời, đúng lúc, đúng vào thời điểm, thường thường là như thế, đồng thời, đương thời, bèn, bỗng nhiên, cơ hội, đúng dịp, v.v... Trong bản dịch của cụ Ngô Tất Tố chữ thời được dịch là thủng thẳng, chim kêu thủng thẳng thì chẳng có nghĩa gì cả. Trong số hai bản dịch trong phần phụ lục dưới đây, thì bản tiếng Pháp dịch là "par instant" có nghĩa là thỉnh thoảng, trong khi đó thì bản tiếng Anh lại dịch là "don’t stop", tức có nghĩa là không ngừng (một vài bản dịch tiếng Anh khác dịch là "constant" có nghĩa là liên tục). Sự "lúng túng" này cho thấy các dịch giả không nắm vững được ý của Vương Duy nêu lên trong câu 4.

 Đến đây chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của từng câu một:

 - câu thứ nhất có hai vế: người nhànhoa quế rụng. Hai vế liên hệ với nhau như thế nào? Tất cả các bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp và cả tiếng Việt được tham khảo đều dịch hai vế này riêng rẻ và độc lập với nhau, và tất nhiên là không nêu lên được một sự mạch lạc nào cả. Một câu thơ năm chữ quá ngắn, do đó phải nuốt chữ, vậy chữ nào bị nuốt khiến cho chủ từ là người nhàn và túc từ là hoa quế rụng trở nên rời rạc? Chúng ta có thể hình dung ra một chữ nào đó có thể nối liền hai vế trên đây, chẳng hạn như chữ ngắm nhìn, và câu 1 trên đây sẽ trở thành: người nhàn ngắm nhìn hoa quế rụng. Người thi nhân nhàn nhã ngồi một mình ngắm nhìn những cánh hoa quế tàn úa rơi rụng trong đêm, và biết đâu cũng là để hồi tưởng lại những kỷ niệm xa xưa nào đó.

 - câu 2 cho biết là người thi nhân ngắm nhìn hoa quế rụng trong một bối cảnh như thế nào: một đêm tĩnh mịch trong một vùng rừng núi hoang vắng giữa mùa xuân.

 - câu 3: trăng ló khiến chim trong núi hoảng hốt. Câu này khá khó hiểu vì không còn là một câu tả cảnh nữa mà để nói lên tâm trạng của người thi nhân: một sự "hoảng hốt" nào đó. Dù trăng có vằng vặc hay mờ ảo thì chim vẫn ngủ im trong đêm, sự "hoảng hốt" của chim chỉ là sự tưởng tượng của người thi nhân đang chìm đắm trong đêm bỗng giật mình khi nghe tiếng chim hót. Trong cảnh tịch mịch đó chỉ có con người là hoảng hốt mà thôi khi tự hỏi tại sao chim lại hót trong đêm? Hai chữ nguyệt xuất có thể hiểu là trăng mới ló sau rặng núi, tuy nhiên cũng có thể hiểu là trăng đã tà, đã xuống thấp khi trời gần sáng. Thế nhưng cũng có thể hiểu chữ nguyệt xuất trong bài thơ là những tia sáng ban mai đã bắt đầu le lói sau rặng núi.

 - câu 4: Chim bỗng hót vang trong khe suối ngày xuân. Trời hừng đông chim bắt đầu hót, thế nhưng người thi nhân lại cứ nghĩ rằng chim "hoảng hốt" vì ánh trăng chiếu sáng khe suối và chim cất tiếng hót trong đêm. Các chữ thời minh (thời là lúc, minh là chim hót) có nghĩa là đúng lúc chim bắt đầu hót vào buổi sáng, không có nghĩa là chim thỉnh thoảng hay liên tục hót như thường thấy trong các bản dịch. Thật vậy hầu hết các bản dịch - dù bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Việt - đều là các bài tả cảnh. Thiết nghĩ các bài dịch mang tính cách miêu tả thiếu mạch lạc đại loại như thế sẽ không sao phản ảnh được giá trị của một bài thơ đã vượt thời gian hơn mười thế kỷ!

 Tóm lại ý nghĩa của toàn bài là người thi sĩ ngắm nhìn những cánh hoa quế rơi rụng trong đêm đã sống lại với một thời quá khứ nào đó. Đắm mình trong những kỷ niệm xa xưa, người thi nhân bỗng thoát ra ngoài thực tại và không ý thức được là trời đã sáng, chim đã thức dậy và hót vang trong khe suối cạnh nhà. Vậy chúng ta hãy thử đề nghị một bản tạm dịch như sau:

 Chim hót trong khe suối

 Nhàn nhã ngắm nhìn hoa quế rụng,

 Tĩnh mịch đêm xuân trong núi vắng.

 Trăng ló đâu non chim hoảng hốt,

 [Ngỡ sáng] trong khe vội hót vang.

 Hoang Phong dịch (01.01.14)

 Các chữ trăng lóngỡ sáng phản ảnh sự lầm lẫn trong tâm trí người thi nhân khi cho rằng ánh trăng tỏa sáng khiến cho chim giật mình và hót vang, và không ngờ là trời đã sáng.

 Trong số các bài thơ Đường cũng có một bài khá tương tự với bài thơ trên đây của Vương Duy, đó là bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế. Vậy chúng ta hãy thử phân tích bài thơ này và so sánh với bài thơ của Vương Duy xem sao. Bài thơ của Trương Kế như sau:

 楓橋夜泊 Phong Kiều Dạ Bạc

 月落烏啼霜滿天, Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
江楓漁火對愁眠。 Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
姑蘇城外寒山寺, Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
夜半鐘聲到客船。 Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

 Dịch nghĩa:

 Đêm ghé thuyền bên chiếc Cầu Phong

 Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời,

 Trên sông [ghé thuyền] ở bến Cầu Phong, thao thức bên ngọn đèn của người dân chài

 (một loại đèn bão tránh gió).

 Từ ngôi chùa Hàn San nơi ngoại thành Cô Tô,

 Lúc nửa đêm vọng lại với người khách trên thuyền những tiếng chuông ngân.

 Sau đây cũng xin mạn phép nêu lên dưới đây hai bài dịch của hai cụ Tàn Đà và Trần Trọng Kim, là hai trong số các bài dịch xưa nhất:

 Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều 

 Trăng tà tiếng quạ kêu sương,

 Lửa chài, cây bãi, sầu vương giấc hồ.

 Thuyền ai đậu bến Cô Tô,

 Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

 Tản Đà dịch (khoảng năm 1937 hay 1938)

 Đêm khuya thuyền đậu ở bến Phong Kiều

 Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi,

 Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co.

 Con thuyền đậu bến Cô Tô,

 Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

 Trần Trọng Kim dịch (1944)

 Hai bài dịch trên đây của cụ Tản Đà và cụ Kim cũng như các bài dịch khác mới hơn sau này, kể cả các bài dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh đã được tham khảo, dường như chỉ nhắm vào mục đích "tả cảnh", không thấy nhấn mạnh đến nỗi niềm ray rứt của người thi nhân, cũng không giải thích gì về sự mâu thuẫn giữa câu 1 (trời đã sáng) và câu 4 (tiếng chuông chùa nửa đêm). Đấy là chưa nói đến nhiều chữ không sát nghĩa hoặc vụng về, chẳng hạn như trong hai bài dịch của cụ Tản Đà và cụ Kim thì tựa cho biết là bến Phong Kiểu (bến sông cạnh chiếc Cầu Phong), thế nhưng trong câu thơ dịch thì lại gọi là cây bãi (hàng cây trên bãi sông?). Trong bản dịch của cụ Tản Đà, hai chữ sầu miên (giấc ngủ buồn nói lên sự trằn trọc và đau buồn của người thi nhân) thì lại dịch là giấc hồ, tức là giấc mơ của Trang Tử thấy mình hóa bướm, khi thức giấc thì tự hỏi không biết mình hóa ra bướm hay bướm hóa ra mình, một cách vắn tắt thì đây là câu chuyện nêu lên một khái niệm "triết học", không liên hệ gì đến tâm trạng của người thi nhân trong khoang thuyền. Trong bản dịch của cụ Kim thì hai chữ sầu miên lại trở thành nằm co, quả thật hai chữ này không phù hợp tí nào với nội dung của bài thơ.

 Tựa của bài thơ là Phong Kiều Dạ Bạc, phong (érable / maple) là một loại cây có lá đỏ rực vào mùa thu (lá trên quốc kỳ của Gia Nã Đại), kiều là chiếc cầu, dạ bạc là đêm ghé bến. Tựa của bài thơ cũng đã tạo ra cả một bối cảnh không gianthời gian phù hợp với nội dung của toàn bài thơ. Hơn nữa trong tiếng Hán chữ bạc cũng mang nhiều nghĩa khác nhau: ghé bến, cập bến, trôi nổi, trôi dạt nơi đất khách quê người, khinh bạc, đạm bạc, không màng công danh lợi lộc. Do đó chữ dạ bạc có nghĩa là đỗ thuyền trong đêm và cũng có nghĩa là một đêm khinh bạc, gợi lên một cách kín đáo tâm trạng của người thi nhân. Do đó cũng có thể hiểu tựa của bài thơ là "Sự khinh bạc lợi danh trong một đêm ghé vào bến Phong Kiều".

 Tóm lại, đại ý của bài thơ là trời đã sáng, trăng đã lặn, quạ đã kêu, thế nhưng sương vẫn bao phủ đầy trời, tưởng chừng như vẫn còn trong đêm tối. Trên con thuyền neo cạnh chiếc cầu Phong, người thi nhân mang nặng một mối sầu trong lòng và thao thức bên ngọn đèn leo lét. Trong khi đó ở ngôi chùa Hàn San nơi ngoại thành Cô Tô, các nhà sư đã thức giấc và gióng chuông trong thời kinh buổi sáng. Tiếng chuông vọng đến bờ sông khiến người lữ khách "bàng hoàng" và tự hỏi "tại sao chùa lại gióng chuông vào nửa đêm như thế này?" Sương mù dầy đặc bao phủ cảnh vật hay là sự u uẩn trong lòng đã khiến người lữ khách đánh mất cả ý niệm của thời gian?

 Xin tạm dịch bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc như sau:

 Đêm ghé bến Phong Kiều

 Tiếng quạ, trăng tà, sương phủ kín,

 Bên đèn thao thức một niềm đau.

 Cô Tô, vọng lại Hàn San tự,

 Nửa đêm thuyền vẳng tiếng chuông ngân.

 Hoang Phong dịch (Tô Châu, 05.09.01)

 Trương Kế (730?-780?) sinh sau Vương Duy khoảng 30 năm, và ông đã sáng tác bài thơ này vào năm 750 với tâm trạng của một "thư sinh" trong lứa tuổi hai mươi khi mới thi trượt. Dù là mang cùng "một ý" hay "mượn ý" của bài thơ Điều Minh Giản của Vương Duy đi nữa, thế nhưng bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế rõ ràngphong phú và nhiều màu sắc hơn. Câu 1 cho thấy trời đã sáng, trăng đã lặn, quạ đã kêu, thế nhưng sương còn dầy đặc tương tự như trời vẫn còn trong đêm. Câu 2 nói lên niềm đau của một thư sinh thi trượt. Câu 3 gợi lên một khung cảnh thật buồn: tiếng chuông chùa xa xa từ chùa Hàn San vọng lại bến sông khiến người thư sinh càng thêm chua xót. Câu 4 nói lên sự cảm nhận sai lầm của người thư sinh ngỡ rằng chùa gióng chuông trong đêm. Trương Kế đã mượn sự cảm nhận sai lầm ấy để nói lên sự hoang mang và đau buồn trong lòng mình.

 Bối cảnh trong bài Điểu Minh Giản của Vương Duy là một vùng rừng núi trong một đêm thanh vắng, người thi sĩ yên lặng ngắm nhìn những cánh hoa quế héo tàn, đắm mình vào những kỷ niệm xa xưa, và không còn ý thức được là trời đã sáng, chim đã thức và hót vang trong khe suối ngày xuân. Bối cảnh trong bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế trái lại đã nêu lên những hình ảnh thật mạnh: sương mù dầy đặc trên bến sông, tiếng quạ kêu, tiếng chuông chùa văng vẳng vọng lại từ xa..., và nhất là đã nêu lên các địa danh thật chính xác mang tính cách hoài cổ, gợi lên những sự tích xa xưa: thành Cô Tô với nàng Tây Thi, chùa Hàn San với hai anh em kết nghĩa là Hàn San và Thập Đắc. Chuyện kể rằng Hàn San được cha mẹ đi hỏi vợ cho mình, thế nhưng sau đó đã khám phá ra rằng cô dâu lại là người yêu của em mình là Thập Đắc. Hàn San không muốn làm buồn lòng em nên bỏ ra đi biệt tích. Thập Đắc hay tin cũng ra đi tìm anh và đã gặp được anh tá túc trong một ngôi chùa nhỏ. Hai anh em gặp nhau, mừng mừng tủi tủi và cùng xin xuất gia trong ngôi chùa này. Người đời sau gọi ngôi chùa ấy là Hàn San tự.

 Tóm lại là hai bài thơ Điểu Minh Giản của Vương DuyPhong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế, dưới một góc nhìn nào đó mang nhiều nét khá tương tự nhau. Vì thế chúng ta cũng có thể nêu lên một thắc mắc là có một sự liên hệ nào giữa hai bài thơ này hay không? Như đã được đề cập trên đây, Trương Kế trước tác bài Phong Kiều Dạ Bạc vào năm 20 tuổi sau khi thi trượt, và ba năm sau đó tức là vào kỳ thi năm 753 thì ông đỗ tiến sĩ và được bổ làm quan, thế nhưng cũng chỉ là một chức quan nhỏ. Trong lúc đó thì Vương Duy đã 52 tuổi, là một thi nhân nổi tiếng và là một vị quan lớn trong triều. Sự chênh lệch về tuổi tác và tước vị đó có thể khiến nghĩ rằng giữa hai người không có một sự liên hệ mật thiết nào. Tuy nhiên cũng có thể là hai người đã từng gặp nhau dưới trướng của Hoàng đế Đường Huyền Tông, và biết đâu đã từng cùng bàn bạc với nhau về thi phú? Hoặc cũng có thể trước đó Trương Kế với tư cách là một thư sinh trẻ mến mộ Vương Duy và đã từng được nghe Vương Duy giải thích về ý nghĩa bí ẩn của bài thơ Điểu Minh Giảng? Hoặc ngược lại thì biết đâu bài Điểu Minh Giản đã được trước tác sau bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế? Trường hợp này khó xảy ra hơn, bởi vì Vương Duy là một nhà thơ lớn từng sáng tác thật nhiều, trong khi đó Trương Kế chỉ là bậc đàn em không ai biết đến, kể cả về sau này người ta cũng không biết đích xác năm sinh và năm mất của ông, và cũng chỉ biết đến ông qua bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc được trước tác trong những lúc đau buồn cực độ khi ông thi trượt. Sau đó khi ra làm quan, công danh thỏa nguyện, thì Trương Kế không còn làm được một bài thơ nào xuất sắc nữa. Do đó thật hết sức khó để nghĩ rằng Vương Duy mượn ý của Trương Kế.

 Sau hết, nếu nhìn lại các bài thơ tiếng Nôm trong văn học Việt Nam, thì bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, tuy không thuộc cùng một thể loại với hai bài thơ trên đây, thế nhưng cũng đã gợi lên một nỗi niềm u uẩn và thật kín đáo nào đó:

 

 Qua Đèo Ngang

 Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,

 Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

 Lom khom dưới núi tiều vài chú,

 Lác đác bên sông rợ mấy nhà.

 Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

 Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

 Dừng chân đứng lại trời non nước,

 Một mảnh tình riêng, ta với ta.

 Bà Huyện Thanh Quan

 Bốn câu đầu là các câu tả cảnh, câu 1 cho biết là vừa đến được Đèo Ngang thì nắng chiều đã xuống thấp. Câu 2 và 4 cho thấy là người thi nhân đã bắt đầu trèo lên đèo nhưng vẫn còn thấp, vẫn còn thấy người lom khom và nhà cửa lác đác. Câu 5 và 6 không còn phải là các câu tả cảnh nữa, mà là để nói lên tâm trạng của người thi nhân: nhớ nước cũng chỉ là chuyện đau lòng, thương nhà thì hết hơi mỏi miệng, toàn là những chuyện kêu gào lải nhải. Câu 7 cho thấy người thi nhân đã lên đến đỉnh đèo và dừng lại: thế gian dường biến mất, bầu trời tỏa rộng thênh thang, núi cao và xa xa là biển xanh bát ngát. Trước cảnh bao la đó người thi nhân bất chợt cảm thấy một "mảnh tình" thật thầm kín, nhỏ nhoi và riêng tư hiện ra trong lòng mình, một "mảnh tình" mà mình không thể nói ra được, không thể giải bày được, chỉ riêng mình mới có thể biết được mà thôi: Một mảnh tình riêng ta với ta. Vậy chúng ta thử "phỏng đoán" xem mối tình ấy là gì?

 Bà Huyện Thanh Quan sinh năm 1805, chồng là Lưu Nghị (tự là Lưu Nguyên Uẩn) lớn hơn bà một tuổi, làm tri huyện Thanh Quan (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay). Năm 1839 bà được vời vào kinh đô Huế giữ chức Cung Trung Giáo Tập dạy học cho các công chúa và hậu phi. Chồng bà cũng được thuyên chuyển về kinh đô để giữ một chức vụ khác. Thế nhưng người chồng bỗng qua đời năm 1847, lúc ấy mới 43 tuổi. Bà Huyện Thanh Quan xin nghỉ hưu, đưa bốn con về tá túc nơi quê nội ở làng Nghi Tàm, tỉnh Hà Đông (ngoại ô Hà Nội ngày nay). Một năm sau thì bà qua đời cũng vào cái tuổi 43. Không có sử liệu đích xác nào cho biết bà đã viết bài thơ Qua Đèo Ngang vào năm nào và trong bối cảnh nào. Phải chăng bà đã làm bài thơ này ở Đèo Ngang khi cùng với bốn con trên đường trở về quê ở làng Nghi Tàm, một bài thơ nói lên tâm trạng một người quả phụ còn trẻ với bốn con trên tay và "một mảnh tình riêng" trong lòng?

 Trên đỉnh Đèo Ngang, giữa quang cảnh bao la của núi rừng mây nước, phải chăng người quả phụ đã bất chợt cảm thấy hiện ra trong lòng mình một mối tình thật nhỏ bé và thầm kín, thật ray rứt và thiết tha. Trước cảnh thiên nhiên xinh đẹp đó, người quả phụ sao lại chẳng nhớ đến nấm mồ chưa xanh cỏ của người chồng mà mình đã để lại sau lưng nơi kinh đô Huế? Phải chăng bốn đứa con trên tay và mối tình riêng thầm kín đó đã giúp bà đủ can đảm để sống thêm được một năm sau khi chồng qua đời?

 Nếu đúng là bà đã dùng câu thơ thứ 8: Một mảnh tình riêng ta với ta để nói lên tình thương nhớ người chồng của mình khi dừng lại trên đỉnh Đèo Ngang, thì quả thật không có một thứ xúc cảm nào có thể sinh động, sâu sắc và thấm thía hơn được. Người chồng vẫn còn sống trong lòng bà, đứng cạnh bà trên đỉnh Đèo Ngang. Các chữ ta với ta có thể là các chữ hay nhất trong bài thơ, các chữ ấy không có nghĩa là bà với chính bà, mà là một câu thầm nhủ trong lòng nói với chồng mình rằng đây là mảnh tình chung giữa chúng ta

 Mười một thế kỷ trước Bà Huyện Thanh Quan, Trương Kế nằm thao thức với một niềm đau trong lòng bên cạnh một ngọn đèn leo lét trong một khoang thuyền ở bến Phong Kiều, và Vương Duy thì ngồi nhìn những cánh hoa quế héo tàn rơi rụng trong đêm. Nếu chúng ta có thể phỏng đoán được một chút xót xa nào đó trong lòng người cô phụ trên một đỉnh đèo và niềm đau của người thư sinh trong khoang thuyền, thì tuyệt nhiên chúng ta không sao đoán được những gì thật thầm kín trong lòng Vương Duy. Ông quả là người thật kín đáo, không hé môi cũng chẳng thổ lộ một lời nào, chỉ yên lặng ngắm nhìn những cánh hoa rụng trong đêm. Phải chăng mùi hương hoa quế và hình ảnh những cánh hoa rơi đã đưa ông trở về một thời xa xưa nào đó, mà ngay cả tiếng chim hót trong khe suối một buổi sáng ngày xuân cũng không đủ sức kéo ông trở về với thực tại?

 Thật vậy, tất cả đều "phi lý" trong lòng những người thi nhân: chim hót khi trăng mọc, chùa gióng chuông trong đêm, trời đất bao la và một nấm mồ nho nhỏ... Phải chăng chỉ có những vần thơ nói lên những gì thật "phi lý" mới có thể giải bày được những nỗi niềm ray rứt trong lòng họ mà thôi?

 

Lời kết

 Các bài thơ trên đây đã từng được không biết bao nhiêu học giả uyên bác, các nhà văn, nhà giáo... dịch hoặc bình giải. Do đó tác giả bài viết này không khỏi ái ngại khi đưa ra thêm một vài nhận xét riêng của mình. Dầu sao đi nữa thì người viết cũng không dám tự nhận là những điều do mình nêu lên là "đúng" hay là "sự thật", bởi vì một số chỉ là những sự "phỏng đoán". Lý do cũng dễ hiểu, bởi vì các câu chuyện đã quá xưa và tư liệu lịch sử thì thiếu sót. Thế nhưng những sự "phỏng đoán" ấy không nhất thiết chỉ là những chuyện tưởng tượng vô căn cứ, mà đúng hơn đã được dựa vào một số dữ kiện cụ thể và một sức mạnh nào đó của sự chú tâm, mà đôi khi người ta còn gọi là thiền định. Thật vậy thiền định không phải chỉ là cách đi tìm một cái gì đó cho riêng mình mà còn là một phương tiện mở rộng lòng mình để hòa nhập với người khác.

 Tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ đều phát sinh từ một sự tương tác giữa nhiều nguyên nhânđiều kiện, các hiện tượng ấy lại tiếp tục trở thành các nguyên nhânđiều kiện khác, làm phát sinh các hiện tượng khác. Và đấy cũng chính là cách vận hành của thế giới. Sự sai lầm to lớn nhất đối với sự hiểu biết của con người là tách rời từng sự kiện để phân tích và tìm hiểu thế giới. Nếu chúng ta tách rời một bài thơ ra khỏi tác giả và bối cảnh của nó, thì bài thơ sẽ mất hết ý nghĩa, nói cách khác là nếu chỉ biết rung đùi và thưởng thức một bài thơ thì thật ra chúng ta cũng chỉ thưởng thức những gì hiện ra trong đầu mình, không nhất thiết phản ảnh những rung động của người thi nhân. Quên mình để hòa nhập với thi nhân là cách giúp mình đến gần với họ và hiểu họ, và đồng thời cũng là cách gián tiếp giúp mình phát huy trí tuệ và sự bén nhạy của con tim của chính mình. Chẳng hạn như nếu hòa nhập được với tâm trạng của một người quả phụ thì chúng ta mới có thể thấu hiểu được những xót xa trong lòng họ. 

 Trong sách vở và báo chí quả không thiếu những bài bình giải về thi phẩm Điểu Minh Giản của Vương Duy, một số "quả quyết" rằng bài thơ này là một bài "thơ thiền", hay ít ra cũng thấm đượm nhiều "thiền vị", lý do có thể là vì Vương Duy lúc bước vào tuổi già đã từ bỏ danh vọng để tu thiền, và bài thơ thì có nội dung khá khúc mắc dễ khiến một số học giả đoán mò là mang tính cách thiền học. Đôi khi họ còn cho rằng nội dung bài thơ phản ảnh khái niệm "sắc tức thị không, không tức thị sắc" (hình tướng là trống không, trống không là hình tướng) trong Tâm Kinhbản chất Paramita (Ba-la-mật), tức là tính cách siêu việt - "vượt sang bờ bên kia" - của trí tuệ Phật Giáo . Quả thật đấy chỉ là những sự thêm thắt mang tính cách phiêu lưu. Nếu nhìn vào bài thơ Điểu Minh Giản dưới góc cạnh trên đây, thì chúng ta tất sẽ phải hiểu rằng đấy chỉ là một sự bám víuu mê đi ngược lại với giáo lý nhà Phật. Trên đây chỉ là một thí dụ nhỏ nêu lên cách "tán rộng" của một số học giả, do đó cũng xin ước mong rằng đối với những người tu tập trong chúng ta cũng nên thận trọng khi viết lách hay "thuyết giảng", thật vậy thay vì mang lại sự sáng tỏ cho kẻ khác thì biết đâu chúng ta cũng có thể vô tình tạo ra thêm sự hoang mang cho họ.

 Hòa nhập với sự đau buồn của một thi nhân đôi khi cũng có thể làm sống dậy những đau buồn của chính mình. Thật ra thì đấy cũng chỉ là một trong các nguyên tắc hay phương cách giúp chúng ta phát động lòng từ bi trong lòng mình đối với kẻ khác và cả chính mình. Mặc dầu cùng đau xót với người thi nhân thế nhưng chúng ta vẫn có thể rung cảm và thưởng thức những vần thơ của họ trước một đĩa mứt và một tách trà trong ngày xuân, với điều kiệnchúng ta phải biết mở rộng lòng mình với họ và với cả chính mình. Chẳng hạn như thay vì khép kín "một mảnh tình riêng ta với ta", thì chúng ta hãy cứ hòa mình với bầu không gian rộng lớn của cả vũ trụ này: 

 Dừng chân đứng lại trời non nước,

 Vũ trụ nghìn phương ta với ta.

 

 Bures-Sur-Yvette, 07.01.14

 Hoang Phong

 

 

Phụ Lục

 

 Dưới đây là bản chuyển ngữ tiếng Anh duy nhất của bài thơ Điểu Minh Giản đã được tìm thấy với chữ quế hoa được dịch là Osmanthus flowers:

 

Birds Calling in the Ravine

 

I'm idle, as Osmanthus flowers fall,

This quiet night in spring, the hill is empty.

The moon comes out and startles the birds on the hill,

They don't stop calling in the spring ravine.

 

(trích trong Classic Poetry series, Wang Wei poems, World's Poetry Archive, 2004, tr.17)

 

 Dưới đây là bản chuyển ngữ tiếng Pháp của bài thơ Điểu Minh Giản của một học giả người Nhật là Kôzen Hiroshi, cựu giáo sư Đại Học Quốc Gia Kyoto, đương kim giáo sư Đại Học Riksumeikan Kyoto. Trong bản dịch này chữ quế hoa được dịch là hoa của cây quế khâu (cannalier / cinamom tree):

 

Les hommes sont en paix, les fleurs de cannelier tombent.

Dans la nuit tranquille, la montagne au printemps est vide,

La lune qui se lève réveille les oiseaux de la montagne,

Qui chantent par instant dans le torent au printemps.

 

(trích trong tập san Tìm hiểu văn học Trung Quốc của Pháp: Etudes Chinoises, Trois aspects de la lune dans la poésie Tang: Wang Wei, Li He, Li Shangyin / Ba cách tả trăng trong thơ Đường: Vương Duy, Lý Hạ, Lý Thượng Ẩn, vol. XIX, N° 1-2, 2000, tr.162-196) 

 

 Cả hai bản chuyển ngữ trên đây thay vì tìm cách nối hai vế trong câu thứ nhất của bài thơ là người nhànhoa quế rụng, thì lại tách ra thành hai câu rời nhau mang hai ý nghĩa hoàn toàn không có gì liên hệ với nhau. Bản tiếng Anh dịch câu này là: Tôi đang nhàn rỗi, những cách hoa quế rơi; bản tiếng Pháp thì dịch là: Mọi con người đều an bình, các cánh hoa quế rơi. Trong số các bài dịch sang tiếng Việt đã được tham khảo thì tất cả đều phạm vào lỗi này, tức giữ nguyên hai vế và không tìm cách chuyển thành một câu nhằm nói lên một ý nghĩa mạch lạc nào đó. Thế nhưng câu mở đầu này lại là câu quan trọng nhất, nếu dịch không trung thực và không nói lên được ý nghĩa ẩn chứa trong câu này thì tất nhiên là các câu sau cũng sẽ trở nên vô nghĩa vì mất hết tính cách mạch lạc.

Ngoài ra chữ thời trong câu 4 của cả hai bản dịch trên đây đã được dịch với ý nghĩa trái ngược nhau: bản tiếng Anh dịch là chim hót không ngừng, bản tiếng Pháp thì lại dịch là thỉnh thoáng chim mới hót. Điều này cho thấy là các dịch giả không nắm vững được ý nghĩa của câu kết luận.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25634)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19577)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18656)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9495)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14359)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35558)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10645)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23193)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13354)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10740)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20199)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10597)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9954)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14862)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17649)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17591)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13184)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31151)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25739)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13974)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17499)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10967)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12286)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10462)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12264)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11754)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9610)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12349)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9194)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8490)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9949)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12028)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14411)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9897)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8292)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10964)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14080)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15199)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13033)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23073)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23970)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12561)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15420)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17771)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15045)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16543)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16086)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17633)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11582)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11616)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17821)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10773)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10516)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11318)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12075)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11034)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36399)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8954)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9671)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34704)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10234)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10466)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12195)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13628)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14646)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9143)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24797)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11629)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10308)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15933)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15563)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14511)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12995)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12439)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14566)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18349)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9564)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18510)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18575)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19009)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18827)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11826)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13332)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47976)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11061)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13544)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13031)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11056)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12546)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11046)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31763)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11657)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant