Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Xuân Trong Ta

22 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 11653)
Xuân Trong Ta

Xuân Trong Ta


hoa-mai-2Nhắc đến tết chúng ta cảm nhận ngay cái tiết trời ấm áp, là mùa xuân xanh tốt , trăm hoa đua nở. Hoa cúc đủ màu, hoa mai vàng đầy trước ngõ, nhà nhà tự trồng lấy hay tìm mua những cây hoa kiểng thật đẹp ở ngoài chợ rồi mang về trưng bày trước nhà, quanh sân trong những ngày xuân. Cảnh sinh hoạt từ nhà nghèo đến nhà giàu, tất cả đều vui xuân nhộn nhịp, sống động, bình an, vui tươi và hạnh phúc khắp nơi. Đâu đâu, chốn nào cũng hừng hực những nồi bánh tét, bánh chưng. Ai đó trong chúng ta có đi làm ăn xa nhà, tới ngày tết cũng đều luôn nghĩ nhớ về quê hương xứ sở, nơi sanh thành lớn lên, rồi cũng tranh thủ về ăn tết cùng với gia đình, dù ở cách xa ngàn dặm. Hay ai đó trong chúng tahoàn cảnh đất nước, vì chiến tranh loạn lạc, vì cuộc sống sanh nhai phải rời xa quê hương đất tổ để tìm cuộc sống mới nhưng tới thời điểm tết ai ai cũng nghĩ nhớ về quê nhà, cũng tổ chức hội xuân để sưởi ấm lòng mình khi xa xứ.

Mỗi độ tháng này người người gọi.
Tết đã về rồi xuân bao la
Trong tôi chợt nhớ đến quê nhà
Hoa cúc, mai vàng, đầy trước ngõ
Trẻ thơ khoe nhau áo mới lạ

Bánh tét bánh chưng, cổ đầy nhà
Lư hương chân đèn bóng khắp cả
Trong ngoài trước sau đều bát ngát
Xuân vẫn còn đây, hay đã qua?

Xuân xứ người khác xuân quê ta
Xuân Bắc Âu tuyết rơi là đà
Cũng có hương hoa, cùng bánh mứt
Nhưng đâu ấm bằng xuân quê ta

Xuân ta, xuân tây, xuân không lạ
Tất cả mùa xuân chỉ một nhà
Ai bảo tìm xuân ngoài ngõ vắng
Chỉ một mùa xuân ở trong ta.

Hãy sống với xuân từng sát na
Xuân khắp vũ trụ, xuân muôn nhà
Đừng để xuân đi rồi tìm kiếm.
Trong ta mùa xuân vẫn thiết tha.

Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa
An lạc nào hơn xuân trong nhà
Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc
Hành nụ cười này, Xuân trong ta.

Đôn Hậu, 9/02-2007
TK Thích Viên Giác TVGPhiLong

Đứng trên bình điện thế gian mà nhìn, khi chúng ta gặp những hoàn cảnh vui buồn , đến đi , được mất thì chúng ta chỉ biết cảm nhận cái vui, cái buồn, cái đến, cái đi , cái được, cái mất để rồi chúng ta thản nhiên, tự tại, an hưởng, vui chơi phóng túng ngày qua ngày. Sống như vậy chẳng biết lo nghĩ cho ngày mai nên đem tâm quan niệm rằng chết là hết, nhưng không có cái gì trên cõi đời này chết, mất đi là hết cả. Tất cả vạn vật trong vũ trụ này đều phải bị ảnh hưởng hay phải bị chi phối bởi định luật luân hồi,vô thường, nghiệp cảm.
Từ đất mọc lên cây. Cây xanh lớn lên cằn cỏi, héo tàn, cây xanh hết nhựa sống thì phải chết mà khi chết rồi thì sẽ mục đi trở lại thành đất và cũng từ đất mọc lên thành cây. Nước từ ao, hồ, sông, biển gặp nắng bốc hơi lên thành mây, mây gặp lạnh cô đọng lại thành mưa, rồi rơi xuống ao hồ hay biển cả, sông ngòi rồi cứ lên xuống như vậy từ đời này qua đời khác, từ kiếp này qua kiếp khác, cứ như vậy mà lưu chuyển. Chúng ta con người cũng như vậy, chết không phải là hết, mà chỉ là một hình thức sinh diệt, thay hình, đổi dạng từ một trạng thái này qua một trạng thái khác, từ một cảnh giới này qua một cảnh giới khác, cứ như vậy mà trôi lăn mãi trong lục đạo (thiên, nhân, a tu la, địa ngục, ngạ qủy, súc sanh) mà thôi. Những sự kiện nêu trên cho chúng ta thâý. Ai ai trong chúng ta cũng phải bị chi phối bởi nghiệp báo luân hồi. Đúng là « Xuân đã qua rồi vẫn còn xuân » Mùa xuân năm nay đến rồi sẽ qua; nhưng rồi mùa xuân cũng sẽ trở lại và sẽ trở lại từ đời này qua đời khác. Nhưng mà thật kỳ lạ thay, mùa xuân vẫn đến và vẫn trôi qua nhưng không mùa xuân nào giống mùa xuân nào ( biệt nghiệp, thân tướng của chúng ta cũng đâu có ai giống ai đâu). Nghĩ đến xuân, nhớ đến tết. Nếu chúng ta để tâm quán triệt lý vô thường, sanh, trụ, dị, diệt; để tìm về cái Chơn thường an vui tịch tịnh qua câu « Xuân đã qua rồi vẫn còn xuân » . Xuân qua nhưng xuân không mất mà xuân sẽ trở lại; vậy là vẫn còn xuân. 

Nhắc đến đây chúng ta không thể không nhớ đến một vị thiền sư sống vào đời nhà Lý, khi Ngài biết vô thường đã đến với Ngài, giờ thâu thần tịch diệt gần kề, Ngài gọi chư tăng ni Phật tử vào phương trượng để khai thị, dạy bảo bằng một bài thi kệ thật tuyệt tác : « Xuân khứ bách hoa lạc. Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền qúa. Lão tùng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Đình tiền tạc dạ nhất chi mai ». Nghĩa là: Mùa xuân đi qua trăm hoa cũng phải rụng. Mùa xuân trở lại thì trăm hoa đua nhau nở. Sự việc ẩn hiện trước mắt chúng ta. Rồi cũng phải gìa lụn, bạc màu. Nhưng đừng nghĩ rằng xuân đi rồi thì hoa rụng hết. Trước sân chùa vẫn nở một nụ hoa mai vàng. Đó chính là thiền sư Mãn Giác.Tục danh của Ngài là Lý Trường, sanh năm 1052, thị tịch năm 1096. Thọ 45 tuổi. Khi còn thiếu thời Ngài đã thông cả nho giáoPhật giáo. Mới 20 tuổi Ngài được nhà vua triệu vô cung để dạy cho các hoàng tử. Lúc bấy giờ vua và hoàng hậu rất tôn kính Ngài nên đã cho xây riêng cho Ngài một ngôi chùa để Ngài an tâm hành trì kinh điển. Ngài xả bỏ báo thân với lứa tuổi 45 thật qúa sớm. Tiếc thay cho hàng hậu học bị mất đi một bậc Chơn Sư. Cứ mỗi độ mùa xuân về không ai trong chúng ta có thể quên đi Thiền sư Thích Mãn Giác qua thi kệ «Cáo Tật Thị Chúng»
Là một chúng sanh, nhất là con người khi chúng ta đã có ý thức thì chúng ta biết phân biệt, biết cảm nhận, biết lãnh thọ cái vui, cái buồn, thương ghét, còn mất, có không, đến đi, phải trái, trắng đen, sáng tối tất cả đều nằm trong thế gian pháp, nhị nguyên ( hai mặt đối đãi nhau) hay tục đế ( sự thật của cuộc đời ). Ở xứ người chúng ta từ trẻ đến gìa ai ai cũng nô nức tổ chức tết, đón mừng năm mới. Nhưng cái vui ấy làm sao đầm ấm bằng xuân ở quê hương. Vâng! bao nhiêu vẻ đẹp,niềm vui, hưởng lạc, sung túc, vui buồn gì đi nữa cũng không ra khỏi thế tục, tất cả không nằm ngoài thập nhịp nhân duyên, Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Đây là mười hai cái xích nó móc với nhau như một guồng máy vận hành đưa kiếp người quanh quẫn trong sanh tử luân hồi đau khổ. Bởi vì chúng ta sống trong sự đối đãi, so sánh, phân biệt , khen chê. «Xuân xứ người khác xuân quê ta. Xuân bắc âu tuyết rơi là đà, cũng có hương hoa cùng bánh mứt nhưng đâu ấm bằng xuân quê hương». Chúng ta chưa biết tu tập, đang sống trong tục đế, cho nên chúng ta còn phân biệt, khen chê, bị mười hai nhân duyên nó xích với nhau; nên chúng ta còn khổ hoài hoài. Trong thập nhị nhân duyên, duyên thứ tư là danh sắc, ở cái duyên này phần đông ai cũng dính mắc, khó mà thoát khỏi, chính vì chúng ta bị dính mắc vào ngũ uẫn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên chúng ta bị đau khổ. Còn duyên thứ năm cũng làm cho chúng ta đắm đuối không kém, đó là lục nhập. Lục nhập là sáu căn: Nhãn,nhĩ, tỷ,thiệt,thân và ý. Sáu căn này tiếp xúc với sáu trần, duyên với sáu thức làm cho chúng ta say đắm trong ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy. Chính ở nơi ngũ dục này nó khiến chúng ta chạy theo danh lợi, tiền tài, sắc đẹp để rồi gây biết bao nhiêu sự khổ lụy cho chính bản thân mình và cho những người chung quanh mình,cho xã hội, cho quốc gia, nói rộng hơn là gây đau khổ cho cả nhân loại. Nếu như chúng ta biết vâng lời Phật dạy, quay về nương tựa ba ngôi báu Phật, Pháp Tăng, để rồi từng bước một tu tập bước lên từng nấc thang giải thoát để nhận diện được lý vô thường, đạt tới thánh qủa Tư đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán. Hay thấu triệt được Chơn Như theo Bồ tát đạo để bước lên Phật qủa thì sẽ không còn đau khổ nữa.
Thơ : Không Vướng Bụi Trần
Mắt trông thấy sắc rồi thôi
Tai nghe thấy tiếng, nghe rồi thì không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Nhẹ nhàng ta bước ra vòng trần ai
Bài thơ này muốn nhắc nhở chúng ta đừng dính mắc vào mười hai nhân duyên, tránh xa danh sắc thì sẽ được thong dong tự tại.

Thơ: Ruồi Than Trong Lưới Nhện
Tham dục lao vào chốn tử sanh
Vô minh nghiệp thức dẫn vòng quanh
Ao tù ngũ trược càng thêm trược
Khổ khổ thì ra cũng tại mình .
Bài thơ «Ruồi Than Trong Lưới Nhện» một trong nhiều bài thơ hay trong tuyển tập « Góp Nhặt Lá Vàng » của Hòa thượng Thích Chơn Điền, bút pháp của Ngài là Ngốc Tử thì sao? Tuyệt vời qúa, Ngài nhắc chúng ta đừng để ngũ dụcsai khiến, để rồi khổ; khổ hay sướng, vui hay buồn cũng do mình cả. Hãy biết thực hành pháp thiểu dục, tri túc để được an vui, dù chúng ta có nằm dưới đất, sống nhà tranh vách đất, chúng ta cũng thấy hạnh phúc, an vui, khi chúng ta biết đủ và không tham. Có như vậy thì mùa xuân sẽ nở rộ trong ta và khắp muôn nơi.
«Xuân ta, xuân tây đến rồi đì» Vì chúng ta đứng trên phương điện tục đế mà nhìn; nên mới có phân biệt đến và đi của mùa xuân, chứ trên thực tế mùa xuân chẳng đến cũng chẳng đi.Trong mắt thiền sư mới tu luyện mười năm đầu thì thấy núi là núi, sông là sông.Tu mười năm sau thì thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông. Rồi mười năm nữa trôi qua, lúc này thiền sư thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Sao lạ quá nhỉ ? Vâng không có gì lạ hết, có tu tập sẽ thấy không đến, không đi, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không lão,không bệnh, không chết. Đó là cái lý tánh Bát Nhã, Chơn Như, cái nhìn của người tu là như vậy. Người có tu tập hành trì nhìn vạn vật rất thản nhiên, tự tạibình dị, khi chưa tu thấy cảnh vật khác, khi có tu thì thấy cảnh vật khác, khác nhiều lắm. Rất đơn giản để thấy, chúng ta đơn cử một sự việc như thế này: Một người hoàn toàn chưa biết đạo Phật, bây giờ có nhân duyên biết đến giáo lý Phật Đà sao mà thanh thoát quá, cao siêu quá, thoát tục qúa, hạnh phúc quá, liền muốn hành trì, tu tập, đi chùa, lễ Phật, tụng kinh , gỏ mõ, làm công qủa, tạo phước, ban đầu rất là tinh tấn, an nhiên, tự tại. Nhưng tu tập một thời gian sau thì bồ đề gai nổi lên, vì có những sự việc bất như ý, thấy sao mà một số người đồng đạo tu không đúng như lời Phật dạy, để rồi sanh tâm phiền não, khổ đau nổi lên. Rồi sanh tâm xa lánh chùa chiền, xa lánh thầy cô và bạn đồng tu. Cho nên chúng tôi cũng có bài thơ «Vào Chùa» để khuyến tấn chính mình và mọi người:
«Mẹ ơi ngoài đó con cứ tưởng
Vào chùa an lạc tựa chao tương
Ngờ đâu vào đây con mới biết
Nhân Ngã thị phi là chuyện thường.

Bước đầu con thấy trời sao lạ
Vào Chùa sao còn chuyện hơn thua
Mắt con ràng rụa từng giọt lệ
Muốn về với mẹ cảnh bán mua

Cảnh bán mua không phải cảnh Chùa
Vào chùa chớ nghĩ chuyện hơn thua
Người ta động tâm con chớ động
Thế mới thật là cảnh trong chùa.

Người ta động tâm con chớ động
Thế mới thật là cảnh trong Chùa.»

Nhưng rồi mặc dù có sóng gió ( bát phong ), có chao đảo trên bước đường tu tập, đầy dẫy những ưu phiền; Nhưng vẫn còn duyên phước nên cố gắng tu tậphành trì, nghe kinh, tham khảo sâu vào giáo lý Phật đà. Sau một thời gian thâm nhập kinh tạng, tham, sân, si, phiễn não cũng được hoán chuyễn nhờ đó mà thân tâm được an lạc, hiền hòa; nhờ vậy mà tâm tánh trở lại như hồi mới phát tâm tu tập. Như thế đó, một hành gỉa tu một thời gian sau sẽ thấy khác, mình tu thì cứ lo tu, ai đó làm gì thì cứ làm. Nghiệp ai nấy trả, qủa ai nấy hưởng. Không nên nhìn lỗi của người này, phải của người kia. Không ngó qua, nhìn lại để kiểm soát lỗi người. Được như vậy mới cảm nhận được tâm an lạc, giải thoát, an nhiên, tự tại, thoải mái, hạnh phúc. Đó chính là «Xuân Trong Ta».
«Thời gian, không gian xuân khác gì ? Ai bảo tìm xuân ngoài ngõ vắng, trong ta sẳn có một mùa xuân». Thời gian thì vô tận, điểm bắt đầu không có mà cũng chẳng có chỗ cuối cùng. Không gian thì bao la, rộng lớn, không có thước để đo mà cũng không có con số để tính. Thời giankhông gian đã có từ vô thỉ, vô chung. Từ Đạo Hạnh thiền sư ( 1072 – 1116 ), cũng nói lên cái thực tại hiện hữu từ muôn kiếp, qua bài thơ:
« Tác hữu trần sa hữu.
Vi không nhất thiết không.
Hữu không như thủy nguyệt.
Vật trước hữu không không.
Nghĩa là: « Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không, đố xem ánh nguyệt dòng sông, nào ai hay biết có không là gì ?. Cho chúng tôi cũng xin mạo muội phỏng dịch bài thơ đúng năm chữ theo nguyên văn:
«Có đã có từ lâu.
Không tất cả đều không.
Có không trăng đáy nước.
Ai bảo có, bảo không ?».
Mọi sự việc đã hiện hữu như vậy rồi, thời giankhông gian thì bất di bất dịch không thay đổi, thì mùa xuân cũng như thế. Xuân vẫn là xuân, nơi đâu cũng giống nhau cả. Nếu mùa xuân mà có khác nhau thì cũng chỉ vì cái tâm vọng động của chúng ta bị dính mắc, phân biệt cho nên mới thấy «Xuân» nơi này khác với «xuân» nơi kia. « xuân xứ người khác với xuân quê ta. Xuân bắc Âu tuyết rơi là đà ». Thật sự mùa xuân vĩnh viễn đã nằm sẳn trong ta rồi, hạnh phúc đã có sẳn trong mỗi chúng ta rồi. Bởi vì chúng ta không nhận biết đó thôi; nên mới duyên theo ngũ dục mà chạy đi tìm kiếm mùa xuân, hạnh phúc bên ngoài. « Ai bảo tìm xuân ngoài ngõ vắng, trong ta sẳn có một mùa xuân ».
Mọi người ơi! Hãy giữ lấy những gì chúng ta đang có, hãy biết tin yêu, qúi trọng cái hạnh phúc dù nhỏ nhất mà chúng ta đang có. Hãy sống chung thủy và thật lòng với nhau khi ta đang sống hạnh phúc, ta đang có một gia đình đầm ấm, hãy biết mình có như vậy, được như vậy, hạnh phúc như vậy là đủ rồi, là hài lòng lắm rồi. Chớ nên tham lam, đòi hỏi thêm cho nhiều để rồi thất vọng, ê chề, đau khổ, bất hạnh. Đừng để một khi sự việc đổ vỡ rồi mới biết hối hận, muốn quay trở lại thì coi chừng việc đã muộn màng.
hoa_mai_5
Như vậy thì chúng ta nên: « Hãy sống với xuân từng sát naAn lạc nào hơn xuân trong nhà. Đừng để xuân đi rồi tìm kiếm.Trong ta sẳn có một mùa xuân». Phật dạy hiện pháp lạc trú, được đề cập trong các bài kinh Nhất dạ hiền giả. “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, tương lai lại chưa đến, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính ở đây…”. là phương pháp dứt trừ vọng tưởng, làm chủ tâm ý; không mơ ước viển vông, không nuối tiếc, sầu muộn, bận lòng bởi những gì đã qua; không để cho tâm ý bị những gì đã qua và những gì chưa tới ràng buộc, chi phối. Qua đó chúng ta luôn luôn từng giờ, từng khắc, từng nháy mắt, chúng ta hãy thận trọng và trân qúi với cái hạnh phúcchúng ta đang có. Hãy đi ngược trở vào nội tâm của chúng ta để tìm thấy cái an lạc , hạnh phúc. Đừng để lục trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) nó dẫn dắt chúng ta xa rời Chơn Tâm.
Mùa xuân trong ta, hạnh phúc trong ta, an lạc trong ta, niềm vui trong ta chứ không ở nơi đâu cả, đừng hoài công mà chạy đi tìm « Xuân» hạnh phúc bên ngoài. « Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa. An lạc nào hơn xuân trong nhà ». Xuân trong nhà là mùa xuân của tự tánh Chơn Như, là hình ảnh của giải thoát « Phật », nhắc đến mùa xuân, nói đến tết. Nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết ai ai cũng đều chúc nhau một mùa Xuân Di Lặc. Hình ảnh của một vị cao tăng có đôi má núng đồng tiền, nụ cười lúc nào cũng nở trên môi.
Như vậy Bồ tát Di lặcliên hệ gì đến mùa Xuân, hạnh nguyện của Ngài như thế nào? Ngài có điều gì đặc biệtbí ẩn hay không mà ai ai cũng luôn nhắc đến Ngài. Theo kinh điển thì Đức Di Lặc là một vị Bồ tát được Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các bộ kinh như: Di Lặc thượng sanh, Di Lặc hạ sanh, Di Lặc bổn nguyện, Kinh Bi Hoa, Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, Kính Đại Bát Niết Bàn, nhất là trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hầu hết các bộ kinh đều có nhắc đến Bồ tát Di Lặc. Thời Đức Phật còn tại thế, Bồ tát Di Lặc cũng đã thị hiện ở miền Nam Thiên Trúc ( Nam Ấn Độ), ở trong dòng Bà la môn. Sau gặp Phật, Ngài xuất gia, tu theo hạnh Bồ tát và được gần gủi để học đạo với Đức Thích Ca rồi. Theo kinh điển; Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni cho biết hiện nay Bồ tát Di Lặc đang ở trên cung trời Đâu Xuất. Với tinh thần Phật giáo Đại thừa thì Bồ tátbáo thân, ứng thânhóa thân. Tùy theo căn cơ chúng sanh mà các Ngài ứng hóa vô lượng thân không thể nghĩ bàn; vì vậy Bồ tát Di Lặc đã nhiều lần hóa thân vào cõi ta bà để độ chúng sanh mọi nơi và mọi thời đại và mọi tình huống. 
Theo sử Trung Hoa có kể lại hai hóa thân của Bồ tát Di Lặc đáng nhớ; đó là vào thế kỷ thứ 6. cách đây trên 1500 năm về trước, đời nhà Tùy, gần chùa Quốc Thanh. Một vị tăng gọi là Ngài Tăng Can ở trong một cái am gần chùa và đi thuyết giáo khắp nơi. Có lắm lúc Ngài cỡi cọp về, chúng trong chùa thấy hoảng kinh. Khi đến khi đi không ai lường được. Có lần Ngài ôm về một đứa bé gởi trong chùa đặt tên là Thập Đắc. Thỉnh thoảng có một ông ăn mặc rách rưới ở trong núi tuyết đi ra, tuyết phủ đầy mình gọi là Hàn Sơn. Hàn SơnThập Đắc được coi như là hai người ăn mày trong chùa. Các ngài là hai vị hóa thân ăn mặc rách rưới ngủ ngoài hành lang. Tới bữa ăn thì đợi chúng ăn xong hết, còn những thừa cặn gì đó ngài trút lại dùng. Có khi các ngài còn lượm cơm dưới sàn nước, rửa lại mà ăn. Chúng trong chùa coi các ngài như hai kẻ ăn mày không kém, nhưng mà có cái lạ là nhiều khi hai ngài ứng khẩu làm thơ. Những bài thơ của các ngài khó mà hiểu được. Một hôm bất chợt, sau một bữa trưa chúng tăng nghỉ hết, hai ngài trèo lên cổ của ngài Văn Thù và ngài Phổ Hiền ngồi. Một vị tăng ở dưới tăng xá thình lình đi lên, thấy như vậy ngạc nhiên quá mới chạy đi báo cho thầy trụ trì hay. Thầy trụ trì lôi hai ông xuống rầy quở đủ thứ hết. Hai vị đó là bạn thân của ngài Tăng Can. Ngày tháng trôi qua; Ngài Tăng Can tịch. Một hôm ông trưởng giả có bệnh nan y, ông nằm chiêm bao thấy ngài Tăng Can xưng là đức Di Lặc bảo ông đến đảnh lễ Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền và chỉ cho ông một phương thuốc uống hết bệnh. Muốn đảnh lễ hai vị đó thì vào chùa Quốc Thanh hỏi tên Hàn Sơn,Thập Đắc vì hai vị đó là Bồ-tát Văn ThùPhổ Hiền. Ông trưởng giả theo lời chỉ tìm thuốc uống lành bệnh, mới tìm đến chùa Quốc Thanh để gặp hai vị Hàn Sơn, Thập Đắc. Khi đó thầy trụ trì thấy ông trưởng giả tới hỏi hai chú ăn mày trong chùa thì thầy ngại quá không muốn chỉ. Nhưng ông trưởng giả mong mỏi gặp hai vị đó. Buộc lòng thầy trụ trì mời hai vị ra. Hai vị nắm tay đi ra. Vừa thấy hai vị ông trưởng giả qùi xuống lạy. Hai vị mới cười và nói: “Cái lão Tăng Can đã làm cho tông tích của chúng ta bại lộ rồi.” Hai Ngài, cõng nhau chạy tuốt vô rừng biến mất. Do đó mới biết hai vị là hiện thân của Văn Thù, Phổ Hiền, còn ngài Tăng Can là hiện thân của đức Di Lặc. Nhưng biết thì chuyện đã rồi, bây giờ muốn đãnh lễ qúi Ngài để kiếm chút phước thì không biết đâu mà tìm.
Vào thế kỷ thứ 10. Ngài cũng thị hiện với thân tướng của vị Hòa Thượng thường mang túi vải dạo khắp thiên hạ, người đời quen gọi là Ngài là Bố Đại Hòa Thượng. Ngài xưng hiệu là Khế Thử, người Minh Châu, huyện Phụng Hóa, tỉnh Triết giang- Trung Quốc. Vị Tăng Nhân kỳ lạ này, miệng thường nở nụ cười, bụng rất to, nói năng hoạt bát, đi tới đâu lấy đất làm nhà ngủ nghỉ. Ngài đi đây đó vô định, tùy chốn mà an, có lúc vùi thân trong tuyết mà ngủ, tuyết không bám vào thân, sống đời rất tiêu diêu tự tại.Nét mặt Ngài luôn luôn nở nụ cười bao dung. Trong sử có kể : Một hôm Hòa thượng Thảo Đường gặp Ngài hỏi: “Đại ý Phật pháp thế nào?” Đang quảy bị trên vai Ngài liền để xuống. Vị Hòa thượng hỏi thêm: “Chỉ có thế thôi hay có con đường tiến lên?” Ngài mang cái bị để lên vai và đi. Đó là câu trả lời của Ngài. Những hình ảnh đó là thế nào? Như vậy mà người ta vẫn chưa biết thế nào, tung tích ra sao? Nhưng một hôm Ngài sắp thị tịch, Ngài trở về chùa. Ngồi bên bàn thạch Ngài làm một bài kệ rồi tịch. Bài kệ đó như thế này:
Di Lặc chân Di Lặc
Phân thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân tự bất thức
Ngài nói rằng:Di Lặc thật Di Lặc. Phân thân trong muôn ức. Thường thường chỉ dạy người đời. Người đời tự không biết. Nhờ bài kệ đó mà người ta mới biết Bố Đại Hòa thượnghóa thân của đức Di Lặc. Vì vậy muốn vẽ hình đức Di Lặc người ta liền vẽ hình Bố Đại Hòa thượng. Đó là đức Di Lặc ở Trung Hoa. Bây giờ chúng ta thờ phượng là thờ hình ảnh đức Phật đó. Chớ đức Bồ-tát Di LặcẤn Độ thì mình không biết. Còn đức Di Lặc ở cung trời Đâu-suất lại càng không biết. Chúng ta chỉ biết Di Lặc hóa thân ở Trung Hoa với một hình tượngBố Đại Hòa thượng.
Phat_Di_Lac
Đức Phật Di Lặc trong ký ức mọi ngườiĐức Phật hoan hỷ, hình ảnh này toát lên niềm hạnh phúc và sự may mắn, rất xứng đáng cho biểu tượng mùa xuân. Nụ cười trên gương mặt Phật Di Lặc biểu hiện vô lượng từ tâm, bất luận già trẻ gái trai, mọi người thấy gương mặt này đều muốn mỉm cười theo. Tướng lỗ tai dài biểu hiện lòng từ ái khắp cả mọi người, lỗ tai khéo biết nghe, hoan hỉ với mọi âm thanh, ai tán dương cũng cười, ai chỉ trích la mắng cũng cười, tự tại với mọi thái độ người đời. Tướng bụng to biểu hiện Phật Di Lặclòng từ bi rộng lớn, dung chứa mọi chuyện trong thiên hạ. Đối với kẻ trí người ngu, người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn, Ngài đều có tâm bình đẳng không chấp trước. Tướng ngực phanh ra, biểu hiện sức mạnh của lòng dạ can đảm chân thành, bình đẳng không hai. Túi vải biểu hiện sự chứa đựng vô lượng diệu pháp, bố thí những gì có được cho chúng sanh. « Hàm tiếu nụ cười xuân Di Lặc, hiện nụ cười này xuân trong ta ».
Xuân trong ta là như vậy: Đón Xuân Di Lặc, người học Phật không phải đến chùa chỉ cầu phúc lộc cho đời sống cá nhân, như cầu về tiền tài, danh vọng, mà phải phát tâm rộng lớn học theo hạnh nguyện của Đức Phật Di Lặc. Nở nụ cười, chịu đựng, buông xả, vị tha. Không bị chướng ngại bởi những lời nói bên ngoài. Nếu những lời chửi mắng gièm pha, nguyền rủa tới lỗ tai, mà mình coi như gió thoảng cành dương. cho nó nương đi đâu thì đi, đừng vướng mắc để cho mình an nhiên tự tại. Làm được như vậy. Đó là tấm lòng gắn bó với tha nhân, nuôi lớn lòng từ tâm và sự nhẫn nại, nỗ lực rèn luyện tâm linh, truyền bá giáo lý vào lòng nhân loại, giúp đời bớt khổ. Mọi người phải hằng phát tâm kết duyên lành với Tam Bảo, nuôi lớn chí nguyện Cầu Giác Ngộ. Đón xuân Di Lặc như thế mới tiếp nhận được nguồn pháp lạc trong giáo lý Phật Đà. « Xuân Trong Ta »
Xuân về muôn hoa đua sắc thắm. Người người hớn hở đón mừng xuân. Đó là thú vui của cuộc đời, là mùa xuân gỉa tạm ngoại cảnhchúng ta đang đua nhau đi tìm, để rồi quên mất mùa xuân Chơn Thường vĩnh viễn ở trong ta. ” Ai bảo tìm xuân ngoài ngõ vắng.Trong ta sẳn có một mùa xuân ” . Cho nên chúng ta: ” Đừng để xuân đi rồi tìm kiếm. Hãy sống với xuân từng sát na ”. ”Xuân Trong Ta”. ( Hết )
Đôn Hậu. 15.01.2014

Thích Viên Giác TVGPhiLong


bai-giang-xuan-trong-ta_760

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31647)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10525)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11222)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12749)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10805)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16653)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10814)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22964)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12019)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11491)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10683)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12336)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11193)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10018)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10327)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11906)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10697)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12373)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9812)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11269)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13840)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9578)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12623)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9697)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10456)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10548)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10320)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9898)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11053)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12015)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10142)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10784)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9542)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9895)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9495)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14518)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8776)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12553)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10422)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9083)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10557)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9335)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8796)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10510)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9191)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8364)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12028)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9696)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10215)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10226)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19132)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9408)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8985)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9586)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9017)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14752)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10093)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8348)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8948)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8974)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8736)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9367)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14593)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9034)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8771)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9045)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10531)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8638)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9990)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24280)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10176)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11024)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8994)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8002)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9265)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15348)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10337)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9578)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17440)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21392)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12159)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10233)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19237)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26038)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7975)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14786)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10632)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11348)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9531)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18677)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12356)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11885)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10750)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13342)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9995)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9267)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9378)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15898)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant