Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần III: Những Bản Văn về Sáu Yoga của Naropa

11 Tháng Ba 201400:00(Xem: 9117)
Phần III: Những Bản Văn về Sáu Yoga của Naropa

SÁU YOGA CỦA NAROPA

Nguyễn An Cư và Trùng Hưng Việt dịch

Phần III
NHỮNG BẢN VĂN VỀ SÁU YOGA CỦA NAROPA



Giáo Huấn Khẩu Truyền về Sáu Yoga
Đại Thành Tựu giả Ấn Độ Tilopa


Kính lễ Chakrasamvara Vinh Quang.
Hãy tận dụng nhân quả nghiệp báo
Và chiết suất được tinh túy của tiềm năng làm người.

YOGA NỘI NHIỆT

Thân thiền giả, một nhóm những kinh mạch
năng lực,
Thô và tế, có những trường năng lượng,
Cần được đưa vào kiểm soát, sử dụng.
Phương pháp bắt đầu với những thực tập thân thể.
Những sinh khí được hút vào,
Làm đầy, giữ lại và hòa tan.
Có hai kinh mạch hai bên,
Kinh mạch trung ương avadhuti,
Và bốn luân xa (chakra)
Những ngọn lửa khởi từ nội nhiệt tumo(1) ở rốn.
Một dòng suối cam lồ giọt xuống
Từ chữ HAM ở đỉnh đầu,
Khơi dẫn bốn cái lạc.
Có bốn kết quả, như quả tương tự với nhân,
Và sáu thực tập bành trướng chúng.
Đây là giáo huấn của Charyapa.

YOGA THÂN HUYỄN

Mọi vật sống độngvô tri của ba cõi
Đều như những thí dụ về ảo ảnh, giấc mộng vân vân.
Hãy thấy điều này trong mọi lúc, cả khi chuyển động và dừng lặng.
Hãy quan sát một bổn tôn ảo ảnh phản chiếu trong một tấm gương ;
Hãy lấy một hình vẽ Vajrasattva, và xem xét
Hình ảnh phản chiếu xuất hiện sống động như thế nào.
Như hình tướng ấy là một hình tướng ảo ảnh,
Với tất cả mọi sự vật cũng thế.
Như vậy thiền giả quán sát mười hai sự so sánh
Và thấy sự thật mọi sự là ảo ảnh như thế nào.
Đây là giáo huấn của Nagarjuna (Long Thọ).
Hãy biết những giấc mộng là những giấc mộng,
thường trực thiền định về ý nghĩa sâu xa của chúng.
Hãy quán tưởng những chủng tử tự của năm đại
Với hạt, nada và vân vân.
Người ta tri giác chư Phật và những cõi Phật.
Thời gian ngủ là thời gian cho phương pháp
Đem đến sự thực hiện đại lạc.
Đây là giáo huấn của Lawapa.

YOGA TỊNH QUANG

Thiền giả làm việc với kinh mạch trung ương
Để tâm vào kinh mạch trung ương
Và tập trung vào hạt ở trái tim.
Những thị kiến sanh khởi, như những ánh sáng, tia sáng, cầu vồng,
Ánh sáng mặt trời và ánh sáng mặt trăng khi mọc,
Mặt trời, mặt trăng, và rồi
Những hình tướng xuất hiện của những bổn tôn và hình sắc.
Trong cách này vô số thế giới được tịnh hóa.
Con đường yoga kỳ diệu nhất này
giáo huấn của Nagarjuna.

YOGA TRUNG ẤM

Thiền giả vào lúc chết rút những năng lực
Của những giác quan và những nguyên tố
Và hướng những năng lực của mặt trờimặt trăng đến trái tim,
Làm khởi lên vô số samadhi (đại định).
Thức thường tham dự với những đối tượng bên ngoài,
Nhưng nó nhìn chúng như những vật của một giấc mộng.
Những hình tướng xuất hiện của cái chết kéo dài bảy ngày.
Hay nhiều nhất là bảy lần bảy,
Và rồi người ta phải nhận tái sanh.
Vào lúc đó hãy thiền định yoga bổn tôn
Hay chỉ đơn giản an trụ trong tánh không.
Sau đó khi thời gian tái sanh đến,
Hãy dùng yoga bổn tôn của một vị thầy mật thừa
thiền định về guru yoga với bất cứ cái gì xuất hiện.
Làm như vậy sẽ khiến kinh nghiệm trung ấm dừng lại.
Đây là giáo huấn của Sukhasiddhi.

NHỮNG YOGA CHUYỂN DI THỨC VÀ PHÓNG XUẤT MẠNH MẼ

Nhờ những yoga này, vào thời gian chuyển di
Và cũng nhờ phóng xuất mạnh mẽ vào thân khác,
Thiền giả có thể sử dụng chủng tử tự của bổn tôn
thực hành yoga bổn tôn phối hợp với
Hơi thở ra và vào, dài và ngắn
Và phóng xuất thức đến bất kỳ nơi đâu mình muốn.
Những người muốn chuyển di đến một cõi cao
Có thể chuyên tâm vào hai chữ YAM, cũng như
HI-KA, và HUM-HUM.
Thức được phóng đến trái tim
Của bổn tôn không tách lìa khỏi guru,
Và từ đó đến bất cứ cõi Phật nào mong muốn.
Đây cũng là giáo huấn của Sukhasiddhi.

Lời kết : Được viết ra từ lời dịch của đại thành tựu giả Tilopa ; được dịch bởi Pandit trí giả Ấn Độ Naropa và Marpa Lodrakpa Chokyi Lotru ở thánh địa Kash-miri, tức núi Pushpahara.
 

Những Câu Kệ Kim Cương của
Truyền Thống Thì Thầm nơi Tai
Đại Thành Tựu giả Ấn Độ Naropa

Kính lễ Phật Vajradhara siêu việtviên thành.

Eh-ma-hoh !
Giáo lý toàn hảo tối thượng của tất cả chư Phật,
Con đường của hạt tối thượng của trí huệ chiến thắng,
Là một thực tại vượt ngoài ngôn ngữ.
Nhưng một lần tôi nghe những lời này của con đường vĩ đại vô sanh :
“Ta, Vajradhara, sẽ nói về nghĩa tốt lành ấy.
Hãy kính lễ, hỡi Jnana Dakini, và lắng nghe.“

NHỮNG TƯ CÁCH CỦA VỊ THẦY VÀ HỌC TRÒ
Vị thầy cao cả là người đã
Uống say với kinh nghiệm của Giới, Định, Huệ.
Học trò đủ tư cách là người có
Tin tưởng, nghị lực, thông minh và lòng bi,
Nhớ nghĩ về những bất toàn của cuộc đời thế tục
Và đã vượt khỏi mọi lưu tâm đến thế gian.

QUÁN ĐẢNH NHẬP MÔN VÀ NHỮNG YOGA GIAI ĐOẠN PHÁT SANH
Lúc bắt đầu người ta cần nương dựa vào truyền thống mật thừa Chakrasamvara
Bằng cách có bốn quán đảnh để vào mạn đà la sáu mươi hai vị thần bổn tôn ;
Có lẽ cũng nhận bốn quán đảnh của mười lăm dakini.
Hãy làm trưởng thành tâm theo cách này, và thực hành trí huệphương tiện phối hợp.
Hãy nỗ lực hành bảy yoga, chẳng hạn những cái giống như vua và tể tướng ;
hòa hợp tất cả thành một vị, hãy chuyên tâm vào giới luật Samaya.

YOGA NỘI NHIỆT
Cột trụ của con đường là sự tự cháy bừng của nội nhiệt lạc phúc.
Với tư thế thân theo bảy điểm, hãy thiền định
Về một hình tướng của bổn tôn, thân thể như một vỏ rỗng.
Hãy hình dung kinh mạch trung ương avadhuti, những kinh mạch hai bên lalana và rasana,
Và bốn luân xa, âm AH và HAM,
Sự bừng cháy (của nội nhiệt) và nhỏ giọt (của các hạt).
Và sự đi vào (kinh mạch trung ương)
Của những năng lực sinh khí đi xuống
Hãy thiền định về trì tụng kim cương với năm năng lực gốc.
Hãy giữ lại và ổn định (những năng lực), và khởi dẫn kinh nghiệm về trí huệ.
Hãy hòa nhập bốn lạc và hòa lẫn những năng lực gốc và những hạt.
Năng lực và thức đi vào kinh mạch trung ương ;
Tâm vượt khỏi ý niệm sanh khởi, những xúc cảm méo mó được tự-bình lặng,
Và một dòng không dứt của lạc phúc và sáng chói tuôn chảy.

YOGA THÂN HUYỄN
Hãy thấy bản tánh của Pháp thân và trầm mình trong Pháp thân.
Để tăng cường tỉnh giác này, hãy thiền định về bản chất như huyễn, tự-giải thoát của tám quan tâm thế gian.
Hãy thấy mọi sự trong sanh tửniết bàn là những ảo tưởng ;
Chúng là như huyễn, như một cầu vồng và như trăng trong nước.
Những hiện tượng tác động này xuất hiện với tâm :
Nếu chúng là thật và tĩnh đọng như chúng có vẻ thế, thì làm sao thay đổi có thể xảy ra ?
Nhưng bởi vì chúng là những hình tướng hư vọng, trong bản chất chúng không thật.
Hãy thấy mọi hình tướng là những xuất hiện trống không, như tiếng dội trong hang.
Bám nắm vào nhị nguyên lắng xuống, và người ta thoát khỏi thích và ghét.
Với căn cứ là quán chiếu này, mọi hành động trở nên thoát khỏi bám chấp
Và người ta tiến đến thành tựu thân cầu vồng và Pháp thân.

YOGA GIẤC MỘNG
Vào ban đêm, hãy cố gắng cầu khẩn sự tự-tịnh hóa của những giấc mộng mê mờ ;
Hãy giữ ba cửa với cái móc của chánh niệm.
Giữ lại, tịnh hóa, tăng cườngchuyển hóa những nội dung của những giấc mộng,
loại bỏ mọi chướng ngại cho sự thực hành.
Người ta cỡi trên mặt trờimặt trăng, du hành đến mọi cõi Phật,
Và nhìn xem ! Mọi ảo tưởng “tốt” và ”xấu” đều trở thành tự-giải thoát.

YOGA TỊNH QUANG
Cuối cùng để chiếu rạng địa thứ mười và hoàn thành mục tiêu vĩ đại,
Và nhất là để tách lìa tịnh quang khỏi bóng tối vô minh,
Hãy trau dồi những phương pháp yoga và đi vào bốn Định (samadhi) ;
Và hãy nhìn ! Hạt thiêng liêng không bị ba độc giam giữ nữa.
Người ta giữ gìn khoảng giữa của giấc ngủ và giấc mộng với những ý tưởng,
Và hòa nhập bốn giai đoạn và hòa lẫn sự thực hành của ngày và đêm.
Một kinh nghiệm không ngăn ngại và không thể diễn tả về tịnh quang sanh khởi,
Nó là trí huệ bổn nguyên thoát khỏi bám nắm vào sáng tỏtánh không.
Và nhìn thấy bản thân Đại Ấn.

YOGA CHUYỂN DI THỨC
Trong phương pháp làm ra vàng của chuyển di thức,
Nhờ đó Phật quả được thành tựu mà không cần thiền định,
Hãy chờ đợi những dấu hiệu của cái chết xảy ra, và rồi
Để tâm trong một trạng thái hoan hỷ không bám nắm.
Hãy đóng chín cửa thoát ra, áp dụng những căn bản mật thừa,
trang hoàng sự thực hành với những nguyện vọng tâm linh.
Năng lực và tâm được hòa trộn với HUM trong kinh mạch trung ương,
Thần chú KSHA sáng chói ; (tâm) được phóng ra khỏi thân
Qua con đường của cổng brama, và được phóng
Đến Pháp thân của guru và rồi đến một cõi Phật.

YOGA CỦA TRAU DỒI CÁI THẤY
Để làm bật cháy sự rạng rỡ của trí huệ Đại Ấn,
Hãy giữ ba cửa bất động và siết chặt năm giác quan.
Thấy mà không thấy gì ; hãy nhìn thẳng vào bản tánh của tâm.
Để tâm vào chánh vị của nó, không tạo tác và không một đối tượng.
Không nhìn ra ngoài, hãy chứng ngộ bản tánh của tâm,
Từ nền tảng không tạo tác của nó, từ sự bắt đầu tự nhiên.
Hãy đặt nó trong truyền thống vĩ đại của người bình thường ;
Không chuyển động, thấy ra bầu trời bao la
Của Pháp thân bất sanh bất diệt.
Dù nhiều hiện tượng xuất hiện như những đối tượng bên ngoài,
Chúng chỉ là tâm của chính mình và không có hiện hữu nào khác,
Nào kể gì những méo mó, ý niệm, và bám nắm nhị nguyênbiểu lộ.
Và hãy nhìn xem ! Những thứ đó tan mất theo dòng của chúng.
Tinh túy của tâm là vô sanh, tánh không, Pháp thân.
Những hiện diện sáng chói không dứt sanh khởiHóa thân.
Đại lạc vô trụ của hợp nhất là Báo thân.
Đây là nghĩa của Đại Ấn hay (tiếng Tây Tạng) chak-gya chenpo,
Ở đây chak ám chỉ mọi sự được nhìn với trí huệ bất nhị ;
Gya ám chỉ lạc của sự cởi thoát những nút thắt của tâm thái sanh tử ;
Và chenpo có nghĩa rằng nó là Pháp thân tự-giải thoát
Sanh từ ngọn đèn của hợp nhất hoàn hảo, và không từ cái gì khác.
Hai che chướng là tự-giải thoát ; chủ thể và đối tượng không còn phân cực.
Tâm sanh diệt, và mọi sự vật trong sanh tửniết bàn, tan mất.
Phạm vi của hiểu biết là tự-tròn đầy với mọi đức tính
Và người ta trở thành một vị Phật tự-sanh, vượt khỏi tư tưởnglời nói.

NHỮNG YOGA TRUNG ẤM
Nghĩa sâu xa của đi vào trung ấm được phát lộ
Và cắt đứt ba trung ấm :
Trung ấm của sanh đến tử, trung ấm của giấc mộng, và trung ấm của trở thành.
Không cho, đó là cho ; không thấy, đó là cái thấy tối thượng.
Đây là tâm tự-tỉnh giác rỡ ràng, trống không vượt khỏi ý niệmthoát khỏi mọi che chướng ;
Đại lạc, cảnh giới của thực tại, trí huệ thanh tịnh rốt ráo,
Vốn bất khả phân, biểu lộ như là ba thân. Hãy nhìn !
Những người chưa chứng ngộ thực hành với ba trung ấm cần hòa hợp
Những yoga giai đoạn phát sanh, yoga thân huyễn và yoga tịnh quang và Pháp thân.
Những nguyên tố – đất, nước, lửa, không khí – tuần tự hòa tan ;
Tâm tám mươi ý niệm được dừng lại, và ba thị kiến đi qua.
Yếu tố trắng, yếu tố đỏ, và bản thân tâm gom vào hoa sen.
Khi điều này xảy ra, hãy nhìn xem khuôn mặt của tâm tịnh quang ;
Hãy hòa lẫn (hai tịnh quang) mẹ và con thành không thể tách lìa.

NHỮNG KẾT QUẢ CỦA THỰC HÀNH
Hành giả tốt nhất trên con đường của Phật quả Pháp thân
Thành tựu giác ngộ ngay trong đời này nhờ những yoga này.
Hành giả bậc trung hoàn thành giác ngộ trong trung ấm.
Như một con cá trong nước, họ làm những chuyển hóa thuộc Báo thân.
Năm điệu múa, năm ánh sáng, ba độc, những nghiệp lực,
Thích và ghét : khi đi đến tái sanh
Họ áp dụng năm sự hòa lẫn và lấy tất cả làm con đường.
Đối với những người trước kia đã tu hành bốn ấn,
Trung ấm của trở thành là nơi chốn cho tự-giải thoát.
Những hành giả bậc kém trở nên thoát khỏi thích và ghét
thành tựu một tái sanh với thân lưu xuất.
Dùng những giáo huấn tổng quát, họ loại trừ những trở ngại
nhận biết các ma.
Họ đi vào những thực tập thân kim cương khác nhau,
Như sáu yantra gốc với ba mươi chín nhánh,
Và dùng mỗi hoạt động như một nguồn cho những tích tập
Nếu người ta có thể hoàn thành ba giai đoạn thực hành này không lầm lỗi,
Trong bốn khoảnh khắc ba niềm vui được phát lộ.
Những hạt thanh tịnh rơi rắc từ trên và khởi sanh từ dưới ;
Những nút thắt trong các luân xa được cởi mở,
Và những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương.
Những năng lực sinh khí và những méo mó xúc tình – 21.600 và năm gốc –
Được dừng lại và trí huệ bổn nguyên sanh khởi.
Từ Pullimaru trở lên, hai mươi bốn thắng cảnh và gần như thắng cảnh
Đã được đầy ; những giáo lý từ miệng của một Hóa thân hay Báo thân hoàn hảo,
Một trăm thấu thị đã hoàn thành, và người ta tìm thấy một bình kho tàng.
Trong một đời người ta đi qua những giai đoạn của con đường giác ngộ
đạt đến trạng thái của một vị Phật Vajradhara.
Trong mười ba thế hệ giáo lý này
Cần được dấu kín như là sự trao truyền miệng.
Nó là tinh túy của tất cả Kinh và Tantra
Và đem đến giải thoát cho người có phước
Hãy dùng nó để thành tựu cái đầy ý nghĩa.

Lời kết : Là trọn vẹn bản văn Những Câu Kệ Kim Cương : Một Giáo Huấn cho Jnana Dakini. Nó từ miệng hiền triết Ấn Độ Mahapandita Naropa, và được dịch (thành tiếng Tây Tạng) và rồi được xác quyết bởi dịch giả Marpa Chokyi Lotru ở thắng cảnh thiêng liêng được biết với tên là Pushpahari.


Bản Chép Tay Con Đường Thậm Thâm Sáu Yoga của Naropa : Một Nguồn Tài Liệu của Mọi Chứng Ngộ
TT. Thabs lam na ro’i chos drug gi lag rjes dngos grub kun byung bởi Gyalwa Wensapa Lobzang Dondrup
1505-1566

Kính lễ Guru Vajradhara, cùng với vô số bổn tôn mạn đà la.

Để đi vào thực hành Sáu Yoga của Naropa người ta phải hiểu ba chủ đề : thực tại của nền tảng ; những giai đoạn đi trên con đường ; và cách thức biểu lộ những kết quả.

THỰC TẠI CỦA NỀN TẢNG
Thực tại của nền tảng của kinh nghiệm chúng ta gồm ba chủ đề : thực tại của thân ; thực tại của tâm ; và thực tại của thân và tâm chung nhau.

Thực tại của Thân
Thực tại của thân có ba : thô, vi tế và rất vi tế.
Thân thô là thân bình thường làm bằng thịt, máu, xương và sanh từ tinh trùng và trứng của cha mẹ.
Thân tế ám chỉ những kinh mạch chứa năng lực, những năng lực trôi chuyển, và những hạt có năng lực sáng tạo đỏ và trắng (nghĩa là âm và dương).
Thân rất vi tếnăng lực vi tế nâng đỡ thức của bốn cái không, đặc biệt là cái không thứ tư, được gọi là “cái không rốt ráo”, nó là tâm tịnh quang.
Thực tại của Tâm
Về phần tâm, nó cũng có ba chiều kích giống như vậy : thô, tế và rất vi tế.
Tâm thô là cái tâm đồng khởi với năm thức giác quan.
Tâm tế là cái tâm đồng khởi với sức mạnh điều khiển của sáu méo mó gốc, hai mươi méo mó phụ và tám mươi khởi tâm ý niệm.
Tâm rất vi tế là chiều kích của thức cùng một bản chất với bốn cái không, và đặc biệt cái thứ tư, “cái không rốt ráo”, nó là tâm tịnh quang.
Thực tại của cả Thân và Tâm chung nhau
Khi chúng sanh gặp gỡ cái chết, những phương diện rất vi tế của những năng lực sinh khí và của thức trở thành một thực thể. Thực thể này là thực tại chung của cả thân và tâm.

NHỮNG GIAI ĐOẠN ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG
Những giai đoạn đi trên con đường gồm hai loại kỹ thuật chính : những kỹ thuật để rút năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương và những kỹ thuật được áp dụng sau khi những năng lực đã được rút vào (kinh mạch trung ương).
Những Kỹ Thuật để Rút Những Năng Lực Sinh Khí vào Kinh Mạch Trung Ương

Kỹ thuật để rút những năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương bằt đầu với sự phát sanh hình ảnh của chính mình như là Phật Vajradhara kết hợp đôi, và hình dung những kinh mạch năng lực cùng với những chữ (âm) mật chú ở những luân xa. Rồi người ta thiền định về nội nhiệt và về những hạt chảy lỏng. Điều này làm cho năng lực sinh khí đi vào, ở lại và hòa tan.

Dấu hiệu chỉ sự đi vào của những năng lực sinh khí là, khi một hơi thở được hít vào để trắc nghiệm sự tiến bộ của người ta, không khí đi qua cả hai lỗ mũi một cách êm nhẹ, trơn tru. Dấu hiệu chỉ rằng những năng lực đã được làm ở lại là những thị kiến về những hòa tan cơ bản và cũng về sự hòa tan của ba trạng thái thị kiến xảy ra. Những hòa tan này phải được nhận biết một cách cá nhân.

Trước hết đất hòa tan vào nước và có một thị kiến như thấy một ảo ảnh. Rồi nước tan vào lửa, và có một thị kiến giống như khói. Tiếp theo lửa tan vào không khí, và có một thị kiến như đom đóm lập lòe. Nguyên tố không khí bắt đầu tan vào thức thì được gọi là “xuất hiện”, và có một thị kiến giống như ánh sáng mờ của một ngọn đèn sáp. Không khí hòa tan hoàn toàn vào “xuất hiện” và có một thị kiến màu trắng, như một bầu trời trong sáng mùa thu đầy ánh trăng tròn. Cái này tan vào thức thì gọi là “gần gần” (ở trước dịch là “tăng trưởng”), và có một thị kiến màu đỏ, như bầu trời trong sáng đầy ánh sáng mặt trời. Cái này tan vào “gần đạt” (ở trước dịch là “đạt đến”), và có một thị kiến bóng tối bao trùm, như bầu trời trước bình minh, không mặt trăng mặt trời. “Gần đạt“ bấy giờ tan vào tịnh quang ; có một thị kiến rạng rỡ trong sáng, như bầu trời lúc rạng đông, thoát khỏi ba hoàn cảnh. Người ta phải nhận biết những kinh nghiệm này khi chúng xảy ra. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Pháp thân trong trạng thái thức”.

Khi đến lúc xuất khỏi định tịnh quang, người ta đề khởi bản năng mạnh mẽ loại qua một bên những hợp uẩn cũ kỹ và khởi lên trong hình tướng một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Rồi khi người ta khởi lên từ tịnh quang, những hợp uẩn già nua sẽ bị bỏ qua một bên và trong tâm hình thành hình ảnh một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Đồng thời người ta áp dụng những kỹ thuật khơi dẫn những giai đoạn của sự hòa tan (mô tả ở trên) theo thứ tự ngược lại. Như vậy người ta đi từ tịnh quang đến gần đạt, đến gần gần, và đến xuất hiện. Người ta kinh nghiệm những dấu hiệu của sự hòa tan cơ bản (tức là hòa tan của những nguyên tố) theo chiều ngược lại : một ánh sáng mờ của đèn sáp, những lập lòe như đom đóm, khói và cuối cùng, ảo ảnh. Đây là tiến trình được biết như là “hòa nhập với Báo thân trong trạng thái thức”.

Người ta đi vào những giai đoạn thiền định về những chuyển hóa liên kết với hình tướng Báo thân ấy và tập chú cái định của người ta vào đó. Khi quyết định xuất khỏi định, người ta làm điều này bằng cách thiền định về những hợp uẩn cũ kỹ của người ta như là Con Người Biểu Tượng (samayasattva), với Con Người Trí Huệ (jnanasattva) ở trái tim. Đây là tiến trình được biết như là “hòa nhập với Báo thân trong trạng thái thức”.

Đồng thời với sự việc này, khi không khí bắt đầu qua hai lỗ mũi trở lại và năm thức giác quan sống lại, bất cứ hình tướng xuất hiện nào xảy ra đều được thấy là tánh không, tánh không như lạc, và lạc như mạn đà la và những bổn tôn của nó. Đây là sự thực hành được trau dồi trong những thời sau-thiền định.

Tương tự, khi đi ngủ người ta cố gắng giữ lại tịnh quang của giấc ngủ và quyết tâm sanh khởi như một bổn tôn Báo thân trong trạng thái mộng. Khi người ta chuẩn bị ngủ người ta đi vào những thiền định về những kinh mạch, năng lực và luân xa, làm cho những hạt tan chảy và những lạc sanh khởi. Những năng lực sanh khí đi vào, ở lại và hòa tan trong kinh mạch trung ương. Mọi dấu hiệu của tiến trình hòa tan xảy ra, từ “đất vào nước”, cho đến sự khởi hiện của tịnh quang. Bốn cái không khởi hiện trong bản chất của bốn cái lạc. Đồng thời khi tịnh quang xảy ra, người ta đi vào thiền định về lạc hòa hợp với (trí huệ) tánh không. Đây là tiến trình được biết là “hòa nhập với Pháp thân trong giấc ngủ”.

Khi đến lúc khởi lên từ tịnh quang ấy, người ta quyết tâm sanh khởi với một thân giấc mộng bằng cách bỏ qua một bên thân hợp uẩn cũ kỹ và mang lấy hình tướng của một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Rồi khi người ta khởi lên từ tịnh quang (của giấc ngủ) thân giấc mộng xuất hiện. Tuy nhiên, người ta không làm điều đó trong thân các hợp uẩn cũ ; mà thân giấc mộng sanh khởi với tâm như là một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Đây là cái được biết như “hòa nhập với Báo thân trong giấc mộng”.

Người ta tập chú cái định vào những thiền định của những tiến trình chuyển hóa của Báo thân ấy. Khi đến lúc thức dậy từ giấc ngủ, người ta làm điều đó bằng cách khởi lên với những hợp uẩn cũ được hình dung như là Con Người Biểu Tượng với Con Người Trí Huệ ở trái tim mình. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Hóa thân khi thức dậy”.

Đồng thời với điều này, khi không khí bắt đầu qua hai lỗ mũi và năm thức giác quan sống lại, bất cứ hình tướng nào xuất hiện đều được thấy là tánh không, tánh không như lạc, và lạc như những bổn tôn mạn đà la. Đây là sự thực hành được trau dồi trong những thời sau-thiền định.

Thiền giả không có khả năng hoàn thành những chứng ngộ giai đoạn cao nhất trước thời gian chết cần trau dồi quyết tâm áp dụng những kỹ thuật để lưu giữ tịnh quang của cái chết, sanh khởi trong Báo thân trong trung ấm và nhận lấy sự sanh với tái sanh của một vị thầy mật thừa, hay mantracharyin. Bấy giờ lúc cái chết đến gần, người ta cần thiền định về những kinh mạch, những năng lực, những luân xa… như ở trên, và thiền định về sự cháy hừng và tan chảy. Điều này khiến cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương và ở lại rồi hòa tan, phát sanh những dấu hiệu của những hòa tan, cho đến những dấu hiệu của tịnh quang xảy ra. Khi tịnh quang của cái chết khởi hiện, người ta chú tâm vào thiền định về tánh không. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Pháp thân vào lúc chết”.

Khi đến lúc sanh khởi từ tịnh quang, người ta phát khởi bản năng bỏ qua một bên những hợp uẩn cũ và, khi lấy một thân trung ấm, sanh khởi trong hình tướng một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Bấy giờ từ tịnh quang người ta phát khởi hình ảnh của thân trung ấm như là Phật Vajradhara kết hợp đôi, và những hợp uẩn cũ được bỏ qua một bên. Đồng thời những dấu hiệu của tiến trình hòa tan biểu lộ theo chiều ngược, thức trở ngược lại từ tịnh quang đến gần đạt… cho đến thị kiến ảo ảnh. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Báo thân trong trung ấm”.

Người ta vẫn chú tâm vào những cấp bậc định trong những thiền định của những chuyển hóa Báo thân. Rồi khi muốn nhận lấy tái sanh, người ta tìm một môi trường di truyền thích hợp trong những hạt trắng và đỏ của cha mẹ tương lai để hoàn thành tái sanh như là một pháp khí đặc biệt của một vị thầy mật thừa. Đây là tiến trình được biết như là “hòa nhập với Hóa thân vào lúc tái sanh”.

Chúng sanh vào bụng mẹ theo cách này sẽ đi qua năm giai đoạn lớn lên, như giai đoạn chỉ là một khối kết những tế bào… Đến lúc rời bụng mẹ, qua tuổi ấu thơ và thanh niên, rồi đi vào thực hànhhoàn thành phần còn lại của con đường, như thế thành tựu Phật quả.

Kỹ thuật được Áp dụng sau khi những Năng lực đã được rút vào (kinh mạch trung ương)

Sau khi chuyên tâm vào những phương pháp này để hướng dẫn những năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương, về sau người ta hoàn thành một nhập định thông thạo trong tiến trình. Người ta sớm tri giác những dấu hiệu tiếp cận giai đoạn trong đó thân huyễn có thể được phát sanh. Với điều kiện bên ngoàiquán tưởng karmamudra, người ta đi vào điều kiện bên trong, tức là thiền định về những kinh mạch, luân xa… và thiền định về cháy hừng và chảy lỏng. Những năng lực sinh khí được làm cho đi vào kinh mạch trung ương và ở lại và hòa tan, phát sanh những dấu hiệu của hòa tan, từ ảo ảnh v.v… cho đến dấu hiệu của tịnh quang. Bốn cái không hiện khởi trong bản chất của bốn lạc. Khi tịnh quang bổn nguyên (hay vốn sẵn, bẩm sanh) sanh khởi, người ta thiền định về lạc hòa hợp với tánh không. Đây là kỹ thuật đi vào tịnh quang bổn nguyên ‘tương tự’, và với nó căn cứ của thân huyễn được sanh thành.

Khi đến lúc xuất khởi khỏi tịnh quang, người ta phát khởi bản năng để qua một bên những hợp uẩn cũ và lấy hình tướng của một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Rồi khi người ta sanh khởi từ tịnh quang, năng lực sinh khí của năm ánh sáng chiếu diệu, trên đó tịnh quang bổn nguyên cưỡi lên, được dùng như nguyên nhân chất thể ; và tâm dùng như điều kiện hiện diện đồng thời. Căn cứ trên những cái đó, những uẩn cũ được bỏ qua và người ta sanh khởi trong hình tướng của một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi, trang hoàng bằng những tướng chánh và phụ. Đây là giai đoạn của “thân huyễn chưa thanh tịnh”. Đồng thời người ta kinh nghiệm tiến trình hòa tan ngược lại, đi từ tịnh quang đến gần đạt v.v… cho đến dấu hiệu ảo ảnh.

Trong những hệ thống tantra như Guhyasamaja thân huyễn này được minh họa và giải thích bằng cách dùng mười hai cái tương tự.(2)

Vào lúc ấy ba yếu tố xảy ra đồng thời : sự dừng dứt của cái tương tự với cái bổn nguyên (nghĩa là thức tịnh quang “tương tự” hay “ẩn dụ”), sự viên mãn của gần đạt trong tiến trình hòa tan, và sự khởi lên trong hình tướng thực sự của một “thân huyễn chưa thanh tịnh”. Bấy giờ người với thân huyễn ấy chú tâm vào những giai đoạn của định.

Người ta đi vào những giai đoạn của định như thế nào ?

Trước hết người ta thiền định về những “pha” của tiến trình hòa tan, nó khiến cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan. Điều này làm khởi lên những dấu hiệu của các định, từ ảo ảnh đến tịnh quang. Khi đến lúc khởi lên khỏi tịnh quang người ta phát sanh quyết tâm có một thân huyễn chưa thanh tịnh chuyển hóa thành một thân huyễn thanh tịnh. Bấy giờ khi người ta sanh khởi từ tịnh quang, thân huyễn chưa thanh tịnh bị bỏ qua một bên và hình ảnh của thân huyễn thanh tịnh sanh khởi trong tâm. Đồng thời với cái đó, người ta kinh nghiệm tiến trình hòa tan theo chiều ngược lại. Người ta đi từ tịnh quang đến gần đạt v.v…, cho đến dấu hiệu ảo ảnh. Người đi vào hình tướng Báo thân ấy bấy giờ sanh khởi như Hóa thân, lưu xuất ra những mạn đà la được duy trìduy trì. Khi người ta muốn sanh khởi từ thiền định, người ta làm điều đó bằng cách thiền định về những uẩn cũ như là Con Người Biểu Tượng với Con Người Trí Huệ ở trái tim.

Ở trong bình chứa (pháp khí) này người ta chỉ dạy Pháp cho những người tu hành và trau dồi những hoạt động sau-thực hành, bao gồm cả những sinh hoạt như ăn, uống…

Hành giả của giai đoạn thân huyễn này trau dồi những thiền định cao cấp ấy và sau cùng thấy những dấu hiệu rằng sự thành tựu giai đoạn gọi là “đại hợp nhất của tu hành” đang đến gần. Nó đi vào điều kiện bên ngoàiđiều kiện bên trong là những thiền định về những giai đoạn hòa tan… làm cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan. Những dấu hiệu của những hòa tan xảy ra, từ ảo ảnh đến tịnh quang. Bốn cái không sanh khởi trong bản chất bốn lạc. Vào khoảnh khắc của tịnh quang bổn nguyên, người ta đi vào thiền định về lạc hòa hợp với tánh không.

Vào lúc đó năm yếu tố đồng thời xảy ra : trạng thái “gần đạt trong tiến trình hiển lộ” ngừng dứt ; lạc bổn nguyên khơi dẫn một chứng ngộ trực tiếp chưa từng có về tánh không ; thân huyễn được tịnh hóa trong tịnh quang thực sự, xuất hiện như một cầu vồng trong bầu trời rạng rỡ ; người ta hoàn thành giai đoạn không ngăn ngại trong đó đối trị trực tiếp với những che chướng xúc cảm (phiền não chướng) được sanh ra trong dòng tâm ; và dòng tương tục của người ta trở thành dòng tương tục của một vị thánh.

Lúc tiến trình khởi lên khỏi tịnh quang bắt đầu, sức mạnh hướng dẫn trước kia trong thực hành sẽ vào cuộc, đặt người ta ở cánh cửa qua đó thân huyễn thanh tịnh có thể được hoàn thành. Khi người ta khởi lên từ tịnh quang, với vai trò của nguyên nhân chất thể được vào cuộc bởi năng lực vi tế của năm ánh sáng chiếu diệu, trên đó thức tịnh quang bổn nguyên và thực sự cỡi lên, và vai trò của điều kiện hiện diện đồng thời được vào cuộc bởi tâm, người ta khởi lên trong một “thân huyễn thanh tịnh” thực sự. Thân huyễn thực sự này là một dòng không đứt đoạn trong một hình tướng như của Phật Vajradhara kết hợp đôi, trang hoàng bởi những tướng chánh và phụ, với những uẩn cũ để lại đàng sau.

Đồng thời biểu lộ những dấu hiệu của tiến trình hòa tan ngược lại, từ tịnh quang đến gần đạt cho đến dấu hiệu ảo ảnh. Vào lúc đó năm yếu tố cùng xảy ra : ‘thức tịnh quang bổn nguyên thực sự’ ngừng dứt ; trạng thái ‘gần đạt’ trong tiến trình hòa tan được sanh ra ; sự khởi lên của “thân huyễn thanh tịnh” ; người ta hoàn thành con đường giải thoát rốt ráo thoát khỏi những che chướng xúc cảm ; và dòng tương tục của người ta trở thành dòng tương tục của một A La Hán.

Con người của hình tướng Báo thân ấy bấy giờ chú tâm vào định.

Cái gì là những giai đoạn của định ấy? Người ta tập chú vào thiền định nhất tâm về tánh không và rồi khiến cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan, làm khởi lên những dấu hiệu, cho đến tịnh quang xảy ra. Vào lúc đó người ta đã đạt đến chỗ, nơi đó trạng thái đại hợp nhất có thể được hoàn thành không trở ngại, nơi thân và tâm có thể được cùng hòa hợp thành một thực thể duy nhất. Ở đây thân là thân huyễn thanh tịnh trang hoàng bởi những tướng chánh và phụ, và tâm là thức tịnh quang thực sự.

Khi đến lúc sanh khởi từ kinh nghiệm tịnh quang ấy, sức mạnh hướng dẫn trước kia từ sự thực hành vào cuộc, và người ta thấy mình ở cánh cửa qua đó thân của “đại hợp nhất trong tu hành” có thể trở thành thân của “đại hợp nhất vượt khỏi tu hành”. Khởi lên từ tịnh quang, người nơi giai đoạn của “đại hợp nhất của tu hành” tri giác hình ảnh thân thể của giai đoạn “đại hợp nhất vượt khỏi tu hành”. Đồng thời những dấu hiệu của tiến trình ngược lại xảy ra, từ tịnh quang đến gần đạt v.v… cho đến ảo ảnh.

Báo thân ấy nắm giữ tiềm năng của Hóa thânHóa thân lưu xuất một mạng hoạt động, như biểu lộ những mạn đà la được duy trìduy trì.

Khi người ta muốn sanh khởi khỏi thiền định, người ta đi vào những hợp uẩn cũ hay những hợp uẩn cũ khác, tùy cái nào thích hợp. Rồi, ở trong bình chứa đó, người ta chỉ dạy Pháp cho những người tu hành và trau dồi những hoạt động sau-thực hành…

CÁCH BIỂU LỘ NHỮNG KẾT QUẢ

Thiền giả ở giai đoạn đại hợp nhất của tu hành trau dồi những định của cấp độ đó trong cả thiền định chính thức và sau-thiền định, và sau cùng thấy những dấu hiệu của sự tiếp cận với chứng đắc “đại hợp nhất vượt khỏi tu hành”. Người ta có điều kiện bên ngoàiquán tưởng karmamudra và điều kiện bên trong là thiền định nhất tâm về tánh không, làm cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan. Những dấu hiệu xảy ra, bắt đầu bằng ảo ảnh v.v… cuối cùng đến những dấu hiệu của tịnh quang biểu lộ. Bốn cái không sanh khởi trong bản chất của bốn lạc.

Giây phút tịnh quang bổn nguyên này biểu lộ, người ta đi vào thiền định về lạc hòa hợp với (trí huệ) tánh không. Khoảnh khắc thứ nhất của tịnh quang này là giai đoạn không ngăn ngại trong đó những chướng ngại tri giác (sở tri chướng) được vượt qua. Khoảnh khắc thứ hai của nó cũng là khoảnh khắc đầu tiên của Phật quả toàn giác, trong đó người ta an trụ trong định toàn hảo về bản tánh tối hậu của tất cả hiện hữu, cùng lúc thấy trực tiếp mọi thực tại quy ước rõ ràng như một miếng trái cây trong lòng bàn tay. Thân của đại hợp nhất của tu hành trở thành đại hợp nhất vượt khỏi tu hành, Báo thân thực sự phát ra hàng ngàn Hóa thân lưu xuất để làm lợi lạc cho những ai tu hành. Như vậy người ta hoàn thành Phật quả trọn vẹn trong bản tánh của ba thân.

Như một sơ bộ để đạt đến giai đoạn đại hợp nhất vượt khỏi tu hành, người ta phải đi qua giai đoạn đại hợp nhất của tu hành. Như một sơ bộ cho cái đó người ta phải hoàn thành thân huyễn, và để cho điều đó người ta trước hết thiền định về những kinh mạch, luân xa, cháy bừng, tan chảy v.v…

Lần lượt, như một sơ bộ (cho những thực hành của giai đoạn thành tựu này) người ta phải đi đến chỗ kết thúc của những thực hành giai đoạn phát sanh thô và tế, chúng lấy sanh, chết và trung ấm, những căn cứ cần tịnh hóa, như là những con đường của ba thân. Để cho điều này người ta phải đã nhận quán đảnh trọn bộ và trưởng thành, chín chắn trong việc tuân thủ những giới luật được trao vào lúc quán đảnh. Hơn nữa, trước khi vào thực hành mật thừa người ta cần tu hành tâm thức trong con đường chung, từ trau dồi một tương quan làm việc hiệu quả với một vị thầy tâm linh, cho đến tu hành thiền định phối hợp shamatha (chỉ) và vipassyana (quán).

Như vậy hành giả như viên ngọc quý đi vào con đường sâu xa của Sáu Yoga của Naropa theo cách này đã vào con đường trọn vẹn và không lỗi lầm cho sự thành tựu giác ngộ trong một đời ngắn ngủi, dù trong thời đại suy đồi này.

Lời kết : Những ghi chú về dòng những giáo lý của Vajradhara Lobzang Dondrup, với không có gì vượt quá và không có gì bỏ sót, được sao chép và ấn hành bởi nhà sư Phật giáo Basowa Tenpai Gyaltsen (đệ tử của ngài Lobzang Dondrup).
 

(1) Tummo : Tôi dịch từ Sanskrit chandahi là “nội nhiệt”. Từ tương đương của Tây Tạng là tummo, trong đó âm thứ nhất nghĩa là “mãnh liệt” và ám chỉ lạc ấm áp sanh khởi từ thực hành, và âm thứ hai, một phần tử giống cái, ám chỉ trí huệ là đối tượng của cái lạc ấy. Tum là giống đực và mo giống cái, chỉ ra sự cần thiết phải quân bình giữa hai yếu tố dương và âm – nghĩa là năng lựctrí huệ – trong sự tu tập.
(2) Mười hai cái tượng tự : một xuất hiện như ảo ảnh, những vật trong một giấc mộng, một ảo giác, một phản chiếu trong gương, tia chớp trong bầu trời, một tiếng vang trong hang núi, một cầu vồng, mặt trăng trong nước, một thành phố của Càn thát bà, những hình đám mây làm mắt mê lầm, và hình dạng do huyễn thuật.
 
 

NHỮNG SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN

Những Khai Thị Từ Đức Liên Hoa Sanh Về Con Đường Đại Toàn Thiện – Padmasambhava
Trí HuệĐại Bi – Dalai Lama Thứ 14
Một Tia Sấm Chớp Sáng Trong Đêm Tối – Dalai Lama Thứ 14
Kho Tàng Tâm Của Các Bậc Giác Ngộ – Dilgo Khyentse
Đại Toàn Thiện Tự Nhiên – Khenpo Nyoshul
Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng – Dalai Lama Thứ 14
Con Đường Kim Cương Thừa Về Sự Tịnh Hóa – Lama Yeshe
Cuộc Đời Siêu Việt Của 16 Vị Tổ Karmapa Tây Tạng – Karma Thinley
Mật Thừa Tây Tạng – Tsong Khapa và Dalai Lama Thứ 14
Những Yoga Tây Tạng Về Giấc Mộng Và Giấc Ngủ – Tenzin Wangyal Rinpoche
Những Giáo Huấn Của Gampopa – Lama Yeshe Gyamtso và Evans Wentz
Tu Hành Tâm Linh Liên Hệ Với Trung Ấm – Tulku Pema Wangyal
Năng Lực Chữa Lành Của Tâm – Tulku Thondup
Phật Tâm – Longchen Rabjam
Milarepa ¬– Lobsang P. Lhalungpa
Con Đường Căn Bản Đến Giác Ngộ – Chošgyam Trungpa
Tử Thư Tây Tạng – Chošgyam Trungpa và Francesca Fremantle
Nghệ Thuật Để Sống Trọn Vẹn Ý Nghĩa Cuộc Đời – Akong Tulku Rinpoche
Đại Ấn – Karmapa Thứ Chín Wangchug Dorje
Sông Lửa Sông Nước – Taitetsu Unno
Vài Chú Giải Về Thiền Đốn Ngộ – Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Một Kho Tàng Các Giáo Huấn Siêu Việt – H. H. Orgyen Kusum Lingpa
Bát Nhã Tâm Kinh Thiền Giải – Đương Đạo
Những Chữ Vàng – Garab Dorje
Bức Thư Bồ Tát Long Thọ Gởi Cho Vua Gautamiputra – Sakya Trizin
Yoga Giấc Mộng Và Sự Thực Hành Ánh Sáng Tự Nhiên – Namkhai Norbu
Tịnh Độ Tư Tưởng Luận – Các đại sư Tịnh Độ Trung Hoa
Uống Dòng Suối Núi – Milarepa
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Chúa Jésus – Dalai Lama Thứ 14
Mười Tư Tưởng Pháp Hoa Trong Đời Sống Hàng Ngày – Đương Đạo
Tánh Giác Lộ Toàn Thân – Karma Chagmé
Chánh Pháp Nhãn TạngThiền sư Đạo Nguyên
Sống Trong Tham Thiền Chu Kỳ Ngày Và Đêm – Namkhai Norbu
Thực Tại Thiền – Đương Đạo
Sáu Yoga Của Naropa – Garma C. C. Chang và Glenn H. Mullin
Xã Hội Giác Ngộ – Chošgyam Trungpa
Đánh Thức Trí Thông Minh – J. Krisnamurti
Viên Ngọc Như Ý – Dilgo Khyentse
Chú Giải Về P’howa – Chagdud Khadro
Những Lối Vào Pháp Thân – Dudjom Lingpa
Ngữ Lục Bồ Đề Đạt Ma – Nguyên Hảo dịch
Yên Tĩnh Và Trong Sáng – Lama Mipham
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31297)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10449)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11135)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12620)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10729)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16465)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10735)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22764)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11901)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11396)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10582)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12249)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11093)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9934)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10233)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11791)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10607)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9700)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11176)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13747)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9504)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12517)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9602)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10330)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10433)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10206)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9795)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10968)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11931)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10073)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10693)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9458)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9813)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8676)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9415)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14425)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8701)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12444)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10325)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8972)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10469)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9231)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8698)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10413)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9056)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8284)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11917)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9625)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10142)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10159)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18966)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9330)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8907)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9487)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8926)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14652)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10013)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8264)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8815)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8878)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8647)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9249)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14448)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8953)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8657)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8959)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10430)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8539)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9906)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24139)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10073)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10933)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8902)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9377)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7935)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9173)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15230)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10241)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9472)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17273)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21195)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12060)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10150)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19073)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25827)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7891)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14647)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10551)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11257)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9424)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18479)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12251)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11791)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10605)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13242)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9893)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9190)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9288)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15716)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant