Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần III: Những Bản Văn về Sáu Yoga của Naropa

11 Tháng Ba 201400:00(Xem: 9243)
Phần III: Những Bản Văn về Sáu Yoga của Naropa

SÁU YOGA CỦA NAROPA

Nguyễn An Cư và Trùng Hưng Việt dịch

Phần III
NHỮNG BẢN VĂN VỀ SÁU YOGA CỦA NAROPA



Giáo Huấn Khẩu Truyền về Sáu Yoga
Đại Thành Tựu giả Ấn Độ Tilopa


Kính lễ Chakrasamvara Vinh Quang.
Hãy tận dụng nhân quả nghiệp báo
Và chiết suất được tinh túy của tiềm năng làm người.

YOGA NỘI NHIỆT

Thân thiền giả, một nhóm những kinh mạch
năng lực,
Thô và tế, có những trường năng lượng,
Cần được đưa vào kiểm soát, sử dụng.
Phương pháp bắt đầu với những thực tập thân thể.
Những sinh khí được hút vào,
Làm đầy, giữ lại và hòa tan.
Có hai kinh mạch hai bên,
Kinh mạch trung ương avadhuti,
Và bốn luân xa (chakra)
Những ngọn lửa khởi từ nội nhiệt tumo(1) ở rốn.
Một dòng suối cam lồ giọt xuống
Từ chữ HAM ở đỉnh đầu,
Khơi dẫn bốn cái lạc.
Có bốn kết quả, như quả tương tự với nhân,
Và sáu thực tập bành trướng chúng.
Đây là giáo huấn của Charyapa.

YOGA THÂN HUYỄN

Mọi vật sống độngvô tri của ba cõi
Đều như những thí dụ về ảo ảnh, giấc mộng vân vân.
Hãy thấy điều này trong mọi lúc, cả khi chuyển động và dừng lặng.
Hãy quan sát một bổn tôn ảo ảnh phản chiếu trong một tấm gương ;
Hãy lấy một hình vẽ Vajrasattva, và xem xét
Hình ảnh phản chiếu xuất hiện sống động như thế nào.
Như hình tướng ấy là một hình tướng ảo ảnh,
Với tất cả mọi sự vật cũng thế.
Như vậy thiền giả quán sát mười hai sự so sánh
Và thấy sự thật mọi sự là ảo ảnh như thế nào.
Đây là giáo huấn của Nagarjuna (Long Thọ).
Hãy biết những giấc mộng là những giấc mộng,
thường trực thiền định về ý nghĩa sâu xa của chúng.
Hãy quán tưởng những chủng tử tự của năm đại
Với hạt, nada và vân vân.
Người ta tri giác chư Phật và những cõi Phật.
Thời gian ngủ là thời gian cho phương pháp
Đem đến sự thực hiện đại lạc.
Đây là giáo huấn của Lawapa.

YOGA TỊNH QUANG

Thiền giả làm việc với kinh mạch trung ương
Để tâm vào kinh mạch trung ương
Và tập trung vào hạt ở trái tim.
Những thị kiến sanh khởi, như những ánh sáng, tia sáng, cầu vồng,
Ánh sáng mặt trời và ánh sáng mặt trăng khi mọc,
Mặt trời, mặt trăng, và rồi
Những hình tướng xuất hiện của những bổn tôn và hình sắc.
Trong cách này vô số thế giới được tịnh hóa.
Con đường yoga kỳ diệu nhất này
giáo huấn của Nagarjuna.

YOGA TRUNG ẤM

Thiền giả vào lúc chết rút những năng lực
Của những giác quan và những nguyên tố
Và hướng những năng lực của mặt trờimặt trăng đến trái tim,
Làm khởi lên vô số samadhi (đại định).
Thức thường tham dự với những đối tượng bên ngoài,
Nhưng nó nhìn chúng như những vật của một giấc mộng.
Những hình tướng xuất hiện của cái chết kéo dài bảy ngày.
Hay nhiều nhất là bảy lần bảy,
Và rồi người ta phải nhận tái sanh.
Vào lúc đó hãy thiền định yoga bổn tôn
Hay chỉ đơn giản an trụ trong tánh không.
Sau đó khi thời gian tái sanh đến,
Hãy dùng yoga bổn tôn của một vị thầy mật thừa
thiền định về guru yoga với bất cứ cái gì xuất hiện.
Làm như vậy sẽ khiến kinh nghiệm trung ấm dừng lại.
Đây là giáo huấn của Sukhasiddhi.

NHỮNG YOGA CHUYỂN DI THỨC VÀ PHÓNG XUẤT MẠNH MẼ

Nhờ những yoga này, vào thời gian chuyển di
Và cũng nhờ phóng xuất mạnh mẽ vào thân khác,
Thiền giả có thể sử dụng chủng tử tự của bổn tôn
thực hành yoga bổn tôn phối hợp với
Hơi thở ra và vào, dài và ngắn
Và phóng xuất thức đến bất kỳ nơi đâu mình muốn.
Những người muốn chuyển di đến một cõi cao
Có thể chuyên tâm vào hai chữ YAM, cũng như
HI-KA, và HUM-HUM.
Thức được phóng đến trái tim
Của bổn tôn không tách lìa khỏi guru,
Và từ đó đến bất cứ cõi Phật nào mong muốn.
Đây cũng là giáo huấn của Sukhasiddhi.

Lời kết : Được viết ra từ lời dịch của đại thành tựu giả Tilopa ; được dịch bởi Pandit trí giả Ấn Độ Naropa và Marpa Lodrakpa Chokyi Lotru ở thánh địa Kash-miri, tức núi Pushpahara.
 

Những Câu Kệ Kim Cương của
Truyền Thống Thì Thầm nơi Tai
Đại Thành Tựu giả Ấn Độ Naropa

Kính lễ Phật Vajradhara siêu việtviên thành.

Eh-ma-hoh !
Giáo lý toàn hảo tối thượng của tất cả chư Phật,
Con đường của hạt tối thượng của trí huệ chiến thắng,
Là một thực tại vượt ngoài ngôn ngữ.
Nhưng một lần tôi nghe những lời này của con đường vĩ đại vô sanh :
“Ta, Vajradhara, sẽ nói về nghĩa tốt lành ấy.
Hãy kính lễ, hỡi Jnana Dakini, và lắng nghe.“

NHỮNG TƯ CÁCH CỦA VỊ THẦY VÀ HỌC TRÒ
Vị thầy cao cả là người đã
Uống say với kinh nghiệm của Giới, Định, Huệ.
Học trò đủ tư cách là người có
Tin tưởng, nghị lực, thông minh và lòng bi,
Nhớ nghĩ về những bất toàn của cuộc đời thế tục
Và đã vượt khỏi mọi lưu tâm đến thế gian.

QUÁN ĐẢNH NHẬP MÔN VÀ NHỮNG YOGA GIAI ĐOẠN PHÁT SANH
Lúc bắt đầu người ta cần nương dựa vào truyền thống mật thừa Chakrasamvara
Bằng cách có bốn quán đảnh để vào mạn đà la sáu mươi hai vị thần bổn tôn ;
Có lẽ cũng nhận bốn quán đảnh của mười lăm dakini.
Hãy làm trưởng thành tâm theo cách này, và thực hành trí huệphương tiện phối hợp.
Hãy nỗ lực hành bảy yoga, chẳng hạn những cái giống như vua và tể tướng ;
hòa hợp tất cả thành một vị, hãy chuyên tâm vào giới luật Samaya.

YOGA NỘI NHIỆT
Cột trụ của con đường là sự tự cháy bừng của nội nhiệt lạc phúc.
Với tư thế thân theo bảy điểm, hãy thiền định
Về một hình tướng của bổn tôn, thân thể như một vỏ rỗng.
Hãy hình dung kinh mạch trung ương avadhuti, những kinh mạch hai bên lalana và rasana,
Và bốn luân xa, âm AH và HAM,
Sự bừng cháy (của nội nhiệt) và nhỏ giọt (của các hạt).
Và sự đi vào (kinh mạch trung ương)
Của những năng lực sinh khí đi xuống
Hãy thiền định về trì tụng kim cương với năm năng lực gốc.
Hãy giữ lại và ổn định (những năng lực), và khởi dẫn kinh nghiệm về trí huệ.
Hãy hòa nhập bốn lạc và hòa lẫn những năng lực gốc và những hạt.
Năng lực và thức đi vào kinh mạch trung ương ;
Tâm vượt khỏi ý niệm sanh khởi, những xúc cảm méo mó được tự-bình lặng,
Và một dòng không dứt của lạc phúc và sáng chói tuôn chảy.

YOGA THÂN HUYỄN
Hãy thấy bản tánh của Pháp thân và trầm mình trong Pháp thân.
Để tăng cường tỉnh giác này, hãy thiền định về bản chất như huyễn, tự-giải thoát của tám quan tâm thế gian.
Hãy thấy mọi sự trong sanh tửniết bàn là những ảo tưởng ;
Chúng là như huyễn, như một cầu vồng và như trăng trong nước.
Những hiện tượng tác động này xuất hiện với tâm :
Nếu chúng là thật và tĩnh đọng như chúng có vẻ thế, thì làm sao thay đổi có thể xảy ra ?
Nhưng bởi vì chúng là những hình tướng hư vọng, trong bản chất chúng không thật.
Hãy thấy mọi hình tướng là những xuất hiện trống không, như tiếng dội trong hang.
Bám nắm vào nhị nguyên lắng xuống, và người ta thoát khỏi thích và ghét.
Với căn cứ là quán chiếu này, mọi hành động trở nên thoát khỏi bám chấp
Và người ta tiến đến thành tựu thân cầu vồng và Pháp thân.

YOGA GIẤC MỘNG
Vào ban đêm, hãy cố gắng cầu khẩn sự tự-tịnh hóa của những giấc mộng mê mờ ;
Hãy giữ ba cửa với cái móc của chánh niệm.
Giữ lại, tịnh hóa, tăng cườngchuyển hóa những nội dung của những giấc mộng,
loại bỏ mọi chướng ngại cho sự thực hành.
Người ta cỡi trên mặt trờimặt trăng, du hành đến mọi cõi Phật,
Và nhìn xem ! Mọi ảo tưởng “tốt” và ”xấu” đều trở thành tự-giải thoát.

YOGA TỊNH QUANG
Cuối cùng để chiếu rạng địa thứ mười và hoàn thành mục tiêu vĩ đại,
Và nhất là để tách lìa tịnh quang khỏi bóng tối vô minh,
Hãy trau dồi những phương pháp yoga và đi vào bốn Định (samadhi) ;
Và hãy nhìn ! Hạt thiêng liêng không bị ba độc giam giữ nữa.
Người ta giữ gìn khoảng giữa của giấc ngủ và giấc mộng với những ý tưởng,
Và hòa nhập bốn giai đoạn và hòa lẫn sự thực hành của ngày và đêm.
Một kinh nghiệm không ngăn ngại và không thể diễn tả về tịnh quang sanh khởi,
Nó là trí huệ bổn nguyên thoát khỏi bám nắm vào sáng tỏtánh không.
Và nhìn thấy bản thân Đại Ấn.

YOGA CHUYỂN DI THỨC
Trong phương pháp làm ra vàng của chuyển di thức,
Nhờ đó Phật quả được thành tựu mà không cần thiền định,
Hãy chờ đợi những dấu hiệu của cái chết xảy ra, và rồi
Để tâm trong một trạng thái hoan hỷ không bám nắm.
Hãy đóng chín cửa thoát ra, áp dụng những căn bản mật thừa,
trang hoàng sự thực hành với những nguyện vọng tâm linh.
Năng lực và tâm được hòa trộn với HUM trong kinh mạch trung ương,
Thần chú KSHA sáng chói ; (tâm) được phóng ra khỏi thân
Qua con đường của cổng brama, và được phóng
Đến Pháp thân của guru và rồi đến một cõi Phật.

YOGA CỦA TRAU DỒI CÁI THẤY
Để làm bật cháy sự rạng rỡ của trí huệ Đại Ấn,
Hãy giữ ba cửa bất động và siết chặt năm giác quan.
Thấy mà không thấy gì ; hãy nhìn thẳng vào bản tánh của tâm.
Để tâm vào chánh vị của nó, không tạo tác và không một đối tượng.
Không nhìn ra ngoài, hãy chứng ngộ bản tánh của tâm,
Từ nền tảng không tạo tác của nó, từ sự bắt đầu tự nhiên.
Hãy đặt nó trong truyền thống vĩ đại của người bình thường ;
Không chuyển động, thấy ra bầu trời bao la
Của Pháp thân bất sanh bất diệt.
Dù nhiều hiện tượng xuất hiện như những đối tượng bên ngoài,
Chúng chỉ là tâm của chính mình và không có hiện hữu nào khác,
Nào kể gì những méo mó, ý niệm, và bám nắm nhị nguyênbiểu lộ.
Và hãy nhìn xem ! Những thứ đó tan mất theo dòng của chúng.
Tinh túy của tâm là vô sanh, tánh không, Pháp thân.
Những hiện diện sáng chói không dứt sanh khởiHóa thân.
Đại lạc vô trụ của hợp nhất là Báo thân.
Đây là nghĩa của Đại Ấn hay (tiếng Tây Tạng) chak-gya chenpo,
Ở đây chak ám chỉ mọi sự được nhìn với trí huệ bất nhị ;
Gya ám chỉ lạc của sự cởi thoát những nút thắt của tâm thái sanh tử ;
Và chenpo có nghĩa rằng nó là Pháp thân tự-giải thoát
Sanh từ ngọn đèn của hợp nhất hoàn hảo, và không từ cái gì khác.
Hai che chướng là tự-giải thoát ; chủ thể và đối tượng không còn phân cực.
Tâm sanh diệt, và mọi sự vật trong sanh tửniết bàn, tan mất.
Phạm vi của hiểu biết là tự-tròn đầy với mọi đức tính
Và người ta trở thành một vị Phật tự-sanh, vượt khỏi tư tưởnglời nói.

NHỮNG YOGA TRUNG ẤM
Nghĩa sâu xa của đi vào trung ấm được phát lộ
Và cắt đứt ba trung ấm :
Trung ấm của sanh đến tử, trung ấm của giấc mộng, và trung ấm của trở thành.
Không cho, đó là cho ; không thấy, đó là cái thấy tối thượng.
Đây là tâm tự-tỉnh giác rỡ ràng, trống không vượt khỏi ý niệmthoát khỏi mọi che chướng ;
Đại lạc, cảnh giới của thực tại, trí huệ thanh tịnh rốt ráo,
Vốn bất khả phân, biểu lộ như là ba thân. Hãy nhìn !
Những người chưa chứng ngộ thực hành với ba trung ấm cần hòa hợp
Những yoga giai đoạn phát sanh, yoga thân huyễn và yoga tịnh quang và Pháp thân.
Những nguyên tố – đất, nước, lửa, không khí – tuần tự hòa tan ;
Tâm tám mươi ý niệm được dừng lại, và ba thị kiến đi qua.
Yếu tố trắng, yếu tố đỏ, và bản thân tâm gom vào hoa sen.
Khi điều này xảy ra, hãy nhìn xem khuôn mặt của tâm tịnh quang ;
Hãy hòa lẫn (hai tịnh quang) mẹ và con thành không thể tách lìa.

NHỮNG KẾT QUẢ CỦA THỰC HÀNH
Hành giả tốt nhất trên con đường của Phật quả Pháp thân
Thành tựu giác ngộ ngay trong đời này nhờ những yoga này.
Hành giả bậc trung hoàn thành giác ngộ trong trung ấm.
Như một con cá trong nước, họ làm những chuyển hóa thuộc Báo thân.
Năm điệu múa, năm ánh sáng, ba độc, những nghiệp lực,
Thích và ghét : khi đi đến tái sanh
Họ áp dụng năm sự hòa lẫn và lấy tất cả làm con đường.
Đối với những người trước kia đã tu hành bốn ấn,
Trung ấm của trở thành là nơi chốn cho tự-giải thoát.
Những hành giả bậc kém trở nên thoát khỏi thích và ghét
thành tựu một tái sanh với thân lưu xuất.
Dùng những giáo huấn tổng quát, họ loại trừ những trở ngại
nhận biết các ma.
Họ đi vào những thực tập thân kim cương khác nhau,
Như sáu yantra gốc với ba mươi chín nhánh,
Và dùng mỗi hoạt động như một nguồn cho những tích tập
Nếu người ta có thể hoàn thành ba giai đoạn thực hành này không lầm lỗi,
Trong bốn khoảnh khắc ba niềm vui được phát lộ.
Những hạt thanh tịnh rơi rắc từ trên và khởi sanh từ dưới ;
Những nút thắt trong các luân xa được cởi mở,
Và những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương.
Những năng lực sinh khí và những méo mó xúc tình – 21.600 và năm gốc –
Được dừng lại và trí huệ bổn nguyên sanh khởi.
Từ Pullimaru trở lên, hai mươi bốn thắng cảnh và gần như thắng cảnh
Đã được đầy ; những giáo lý từ miệng của một Hóa thân hay Báo thân hoàn hảo,
Một trăm thấu thị đã hoàn thành, và người ta tìm thấy một bình kho tàng.
Trong một đời người ta đi qua những giai đoạn của con đường giác ngộ
đạt đến trạng thái của một vị Phật Vajradhara.
Trong mười ba thế hệ giáo lý này
Cần được dấu kín như là sự trao truyền miệng.
Nó là tinh túy của tất cả Kinh và Tantra
Và đem đến giải thoát cho người có phước
Hãy dùng nó để thành tựu cái đầy ý nghĩa.

Lời kết : Là trọn vẹn bản văn Những Câu Kệ Kim Cương : Một Giáo Huấn cho Jnana Dakini. Nó từ miệng hiền triết Ấn Độ Mahapandita Naropa, và được dịch (thành tiếng Tây Tạng) và rồi được xác quyết bởi dịch giả Marpa Chokyi Lotru ở thắng cảnh thiêng liêng được biết với tên là Pushpahari.


Bản Chép Tay Con Đường Thậm Thâm Sáu Yoga của Naropa : Một Nguồn Tài Liệu của Mọi Chứng Ngộ
TT. Thabs lam na ro’i chos drug gi lag rjes dngos grub kun byung bởi Gyalwa Wensapa Lobzang Dondrup
1505-1566

Kính lễ Guru Vajradhara, cùng với vô số bổn tôn mạn đà la.

Để đi vào thực hành Sáu Yoga của Naropa người ta phải hiểu ba chủ đề : thực tại của nền tảng ; những giai đoạn đi trên con đường ; và cách thức biểu lộ những kết quả.

THỰC TẠI CỦA NỀN TẢNG
Thực tại của nền tảng của kinh nghiệm chúng ta gồm ba chủ đề : thực tại của thân ; thực tại của tâm ; và thực tại của thân và tâm chung nhau.

Thực tại của Thân
Thực tại của thân có ba : thô, vi tế và rất vi tế.
Thân thô là thân bình thường làm bằng thịt, máu, xương và sanh từ tinh trùng và trứng của cha mẹ.
Thân tế ám chỉ những kinh mạch chứa năng lực, những năng lực trôi chuyển, và những hạt có năng lực sáng tạo đỏ và trắng (nghĩa là âm và dương).
Thân rất vi tếnăng lực vi tế nâng đỡ thức của bốn cái không, đặc biệt là cái không thứ tư, được gọi là “cái không rốt ráo”, nó là tâm tịnh quang.
Thực tại của Tâm
Về phần tâm, nó cũng có ba chiều kích giống như vậy : thô, tế và rất vi tế.
Tâm thô là cái tâm đồng khởi với năm thức giác quan.
Tâm tế là cái tâm đồng khởi với sức mạnh điều khiển của sáu méo mó gốc, hai mươi méo mó phụ và tám mươi khởi tâm ý niệm.
Tâm rất vi tế là chiều kích của thức cùng một bản chất với bốn cái không, và đặc biệt cái thứ tư, “cái không rốt ráo”, nó là tâm tịnh quang.
Thực tại của cả Thân và Tâm chung nhau
Khi chúng sanh gặp gỡ cái chết, những phương diện rất vi tế của những năng lực sinh khí và của thức trở thành một thực thể. Thực thể này là thực tại chung của cả thân và tâm.

NHỮNG GIAI ĐOẠN ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG
Những giai đoạn đi trên con đường gồm hai loại kỹ thuật chính : những kỹ thuật để rút năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương và những kỹ thuật được áp dụng sau khi những năng lực đã được rút vào (kinh mạch trung ương).
Những Kỹ Thuật để Rút Những Năng Lực Sinh Khí vào Kinh Mạch Trung Ương

Kỹ thuật để rút những năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương bằt đầu với sự phát sanh hình ảnh của chính mình như là Phật Vajradhara kết hợp đôi, và hình dung những kinh mạch năng lực cùng với những chữ (âm) mật chú ở những luân xa. Rồi người ta thiền định về nội nhiệt và về những hạt chảy lỏng. Điều này làm cho năng lực sinh khí đi vào, ở lại và hòa tan.

Dấu hiệu chỉ sự đi vào của những năng lực sinh khí là, khi một hơi thở được hít vào để trắc nghiệm sự tiến bộ của người ta, không khí đi qua cả hai lỗ mũi một cách êm nhẹ, trơn tru. Dấu hiệu chỉ rằng những năng lực đã được làm ở lại là những thị kiến về những hòa tan cơ bản và cũng về sự hòa tan của ba trạng thái thị kiến xảy ra. Những hòa tan này phải được nhận biết một cách cá nhân.

Trước hết đất hòa tan vào nước và có một thị kiến như thấy một ảo ảnh. Rồi nước tan vào lửa, và có một thị kiến giống như khói. Tiếp theo lửa tan vào không khí, và có một thị kiến như đom đóm lập lòe. Nguyên tố không khí bắt đầu tan vào thức thì được gọi là “xuất hiện”, và có một thị kiến giống như ánh sáng mờ của một ngọn đèn sáp. Không khí hòa tan hoàn toàn vào “xuất hiện” và có một thị kiến màu trắng, như một bầu trời trong sáng mùa thu đầy ánh trăng tròn. Cái này tan vào thức thì gọi là “gần gần” (ở trước dịch là “tăng trưởng”), và có một thị kiến màu đỏ, như bầu trời trong sáng đầy ánh sáng mặt trời. Cái này tan vào “gần đạt” (ở trước dịch là “đạt đến”), và có một thị kiến bóng tối bao trùm, như bầu trời trước bình minh, không mặt trăng mặt trời. “Gần đạt“ bấy giờ tan vào tịnh quang ; có một thị kiến rạng rỡ trong sáng, như bầu trời lúc rạng đông, thoát khỏi ba hoàn cảnh. Người ta phải nhận biết những kinh nghiệm này khi chúng xảy ra. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Pháp thân trong trạng thái thức”.

Khi đến lúc xuất khỏi định tịnh quang, người ta đề khởi bản năng mạnh mẽ loại qua một bên những hợp uẩn cũ kỹ và khởi lên trong hình tướng một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Rồi khi người ta khởi lên từ tịnh quang, những hợp uẩn già nua sẽ bị bỏ qua một bên và trong tâm hình thành hình ảnh một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Đồng thời người ta áp dụng những kỹ thuật khơi dẫn những giai đoạn của sự hòa tan (mô tả ở trên) theo thứ tự ngược lại. Như vậy người ta đi từ tịnh quang đến gần đạt, đến gần gần, và đến xuất hiện. Người ta kinh nghiệm những dấu hiệu của sự hòa tan cơ bản (tức là hòa tan của những nguyên tố) theo chiều ngược lại : một ánh sáng mờ của đèn sáp, những lập lòe như đom đóm, khói và cuối cùng, ảo ảnh. Đây là tiến trình được biết như là “hòa nhập với Báo thân trong trạng thái thức”.

Người ta đi vào những giai đoạn thiền định về những chuyển hóa liên kết với hình tướng Báo thân ấy và tập chú cái định của người ta vào đó. Khi quyết định xuất khỏi định, người ta làm điều này bằng cách thiền định về những hợp uẩn cũ kỹ của người ta như là Con Người Biểu Tượng (samayasattva), với Con Người Trí Huệ (jnanasattva) ở trái tim. Đây là tiến trình được biết như là “hòa nhập với Báo thân trong trạng thái thức”.

Đồng thời với sự việc này, khi không khí bắt đầu qua hai lỗ mũi trở lại và năm thức giác quan sống lại, bất cứ hình tướng xuất hiện nào xảy ra đều được thấy là tánh không, tánh không như lạc, và lạc như mạn đà la và những bổn tôn của nó. Đây là sự thực hành được trau dồi trong những thời sau-thiền định.

Tương tự, khi đi ngủ người ta cố gắng giữ lại tịnh quang của giấc ngủ và quyết tâm sanh khởi như một bổn tôn Báo thân trong trạng thái mộng. Khi người ta chuẩn bị ngủ người ta đi vào những thiền định về những kinh mạch, năng lực và luân xa, làm cho những hạt tan chảy và những lạc sanh khởi. Những năng lực sanh khí đi vào, ở lại và hòa tan trong kinh mạch trung ương. Mọi dấu hiệu của tiến trình hòa tan xảy ra, từ “đất vào nước”, cho đến sự khởi hiện của tịnh quang. Bốn cái không khởi hiện trong bản chất của bốn cái lạc. Đồng thời khi tịnh quang xảy ra, người ta đi vào thiền định về lạc hòa hợp với (trí huệ) tánh không. Đây là tiến trình được biết là “hòa nhập với Pháp thân trong giấc ngủ”.

Khi đến lúc khởi lên từ tịnh quang ấy, người ta quyết tâm sanh khởi với một thân giấc mộng bằng cách bỏ qua một bên thân hợp uẩn cũ kỹ và mang lấy hình tướng của một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Rồi khi người ta khởi lên từ tịnh quang (của giấc ngủ) thân giấc mộng xuất hiện. Tuy nhiên, người ta không làm điều đó trong thân các hợp uẩn cũ ; mà thân giấc mộng sanh khởi với tâm như là một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Đây là cái được biết như “hòa nhập với Báo thân trong giấc mộng”.

Người ta tập chú cái định vào những thiền định của những tiến trình chuyển hóa của Báo thân ấy. Khi đến lúc thức dậy từ giấc ngủ, người ta làm điều đó bằng cách khởi lên với những hợp uẩn cũ được hình dung như là Con Người Biểu Tượng với Con Người Trí Huệ ở trái tim mình. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Hóa thân khi thức dậy”.

Đồng thời với điều này, khi không khí bắt đầu qua hai lỗ mũi và năm thức giác quan sống lại, bất cứ hình tướng nào xuất hiện đều được thấy là tánh không, tánh không như lạc, và lạc như những bổn tôn mạn đà la. Đây là sự thực hành được trau dồi trong những thời sau-thiền định.

Thiền giả không có khả năng hoàn thành những chứng ngộ giai đoạn cao nhất trước thời gian chết cần trau dồi quyết tâm áp dụng những kỹ thuật để lưu giữ tịnh quang của cái chết, sanh khởi trong Báo thân trong trung ấm và nhận lấy sự sanh với tái sanh của một vị thầy mật thừa, hay mantracharyin. Bấy giờ lúc cái chết đến gần, người ta cần thiền định về những kinh mạch, những năng lực, những luân xa… như ở trên, và thiền định về sự cháy hừng và tan chảy. Điều này khiến cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương và ở lại rồi hòa tan, phát sanh những dấu hiệu của những hòa tan, cho đến những dấu hiệu của tịnh quang xảy ra. Khi tịnh quang của cái chết khởi hiện, người ta chú tâm vào thiền định về tánh không. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Pháp thân vào lúc chết”.

Khi đến lúc sanh khởi từ tịnh quang, người ta phát khởi bản năng bỏ qua một bên những hợp uẩn cũ và, khi lấy một thân trung ấm, sanh khởi trong hình tướng một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Bấy giờ từ tịnh quang người ta phát khởi hình ảnh của thân trung ấm như là Phật Vajradhara kết hợp đôi, và những hợp uẩn cũ được bỏ qua một bên. Đồng thời những dấu hiệu của tiến trình hòa tan biểu lộ theo chiều ngược, thức trở ngược lại từ tịnh quang đến gần đạt… cho đến thị kiến ảo ảnh. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Báo thân trong trung ấm”.

Người ta vẫn chú tâm vào những cấp bậc định trong những thiền định của những chuyển hóa Báo thân. Rồi khi muốn nhận lấy tái sanh, người ta tìm một môi trường di truyền thích hợp trong những hạt trắng và đỏ của cha mẹ tương lai để hoàn thành tái sanh như là một pháp khí đặc biệt của một vị thầy mật thừa. Đây là tiến trình được biết như là “hòa nhập với Hóa thân vào lúc tái sanh”.

Chúng sanh vào bụng mẹ theo cách này sẽ đi qua năm giai đoạn lớn lên, như giai đoạn chỉ là một khối kết những tế bào… Đến lúc rời bụng mẹ, qua tuổi ấu thơ và thanh niên, rồi đi vào thực hànhhoàn thành phần còn lại của con đường, như thế thành tựu Phật quả.

Kỹ thuật được Áp dụng sau khi những Năng lực đã được rút vào (kinh mạch trung ương)

Sau khi chuyên tâm vào những phương pháp này để hướng dẫn những năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương, về sau người ta hoàn thành một nhập định thông thạo trong tiến trình. Người ta sớm tri giác những dấu hiệu tiếp cận giai đoạn trong đó thân huyễn có thể được phát sanh. Với điều kiện bên ngoàiquán tưởng karmamudra, người ta đi vào điều kiện bên trong, tức là thiền định về những kinh mạch, luân xa… và thiền định về cháy hừng và chảy lỏng. Những năng lực sinh khí được làm cho đi vào kinh mạch trung ương và ở lại và hòa tan, phát sanh những dấu hiệu của hòa tan, từ ảo ảnh v.v… cho đến dấu hiệu của tịnh quang. Bốn cái không hiện khởi trong bản chất của bốn lạc. Khi tịnh quang bổn nguyên (hay vốn sẵn, bẩm sanh) sanh khởi, người ta thiền định về lạc hòa hợp với tánh không. Đây là kỹ thuật đi vào tịnh quang bổn nguyên ‘tương tự’, và với nó căn cứ của thân huyễn được sanh thành.

Khi đến lúc xuất khởi khỏi tịnh quang, người ta phát khởi bản năng để qua một bên những hợp uẩn cũ và lấy hình tướng của một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Rồi khi người ta sanh khởi từ tịnh quang, năng lực sinh khí của năm ánh sáng chiếu diệu, trên đó tịnh quang bổn nguyên cưỡi lên, được dùng như nguyên nhân chất thể ; và tâm dùng như điều kiện hiện diện đồng thời. Căn cứ trên những cái đó, những uẩn cũ được bỏ qua và người ta sanh khởi trong hình tướng của một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi, trang hoàng bằng những tướng chánh và phụ. Đây là giai đoạn của “thân huyễn chưa thanh tịnh”. Đồng thời người ta kinh nghiệm tiến trình hòa tan ngược lại, đi từ tịnh quang đến gần đạt v.v… cho đến dấu hiệu ảo ảnh.

Trong những hệ thống tantra như Guhyasamaja thân huyễn này được minh họa và giải thích bằng cách dùng mười hai cái tương tự.(2)

Vào lúc ấy ba yếu tố xảy ra đồng thời : sự dừng dứt của cái tương tự với cái bổn nguyên (nghĩa là thức tịnh quang “tương tự” hay “ẩn dụ”), sự viên mãn của gần đạt trong tiến trình hòa tan, và sự khởi lên trong hình tướng thực sự của một “thân huyễn chưa thanh tịnh”. Bấy giờ người với thân huyễn ấy chú tâm vào những giai đoạn của định.

Người ta đi vào những giai đoạn của định như thế nào ?

Trước hết người ta thiền định về những “pha” của tiến trình hòa tan, nó khiến cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan. Điều này làm khởi lên những dấu hiệu của các định, từ ảo ảnh đến tịnh quang. Khi đến lúc khởi lên khỏi tịnh quang người ta phát sanh quyết tâm có một thân huyễn chưa thanh tịnh chuyển hóa thành một thân huyễn thanh tịnh. Bấy giờ khi người ta sanh khởi từ tịnh quang, thân huyễn chưa thanh tịnh bị bỏ qua một bên và hình ảnh của thân huyễn thanh tịnh sanh khởi trong tâm. Đồng thời với cái đó, người ta kinh nghiệm tiến trình hòa tan theo chiều ngược lại. Người ta đi từ tịnh quang đến gần đạt v.v…, cho đến dấu hiệu ảo ảnh. Người đi vào hình tướng Báo thân ấy bấy giờ sanh khởi như Hóa thân, lưu xuất ra những mạn đà la được duy trìduy trì. Khi người ta muốn sanh khởi từ thiền định, người ta làm điều đó bằng cách thiền định về những uẩn cũ như là Con Người Biểu Tượng với Con Người Trí Huệ ở trái tim.

Ở trong bình chứa (pháp khí) này người ta chỉ dạy Pháp cho những người tu hành và trau dồi những hoạt động sau-thực hành, bao gồm cả những sinh hoạt như ăn, uống…

Hành giả của giai đoạn thân huyễn này trau dồi những thiền định cao cấp ấy và sau cùng thấy những dấu hiệu rằng sự thành tựu giai đoạn gọi là “đại hợp nhất của tu hành” đang đến gần. Nó đi vào điều kiện bên ngoàiđiều kiện bên trong là những thiền định về những giai đoạn hòa tan… làm cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan. Những dấu hiệu của những hòa tan xảy ra, từ ảo ảnh đến tịnh quang. Bốn cái không sanh khởi trong bản chất bốn lạc. Vào khoảnh khắc của tịnh quang bổn nguyên, người ta đi vào thiền định về lạc hòa hợp với tánh không.

Vào lúc đó năm yếu tố đồng thời xảy ra : trạng thái “gần đạt trong tiến trình hiển lộ” ngừng dứt ; lạc bổn nguyên khơi dẫn một chứng ngộ trực tiếp chưa từng có về tánh không ; thân huyễn được tịnh hóa trong tịnh quang thực sự, xuất hiện như một cầu vồng trong bầu trời rạng rỡ ; người ta hoàn thành giai đoạn không ngăn ngại trong đó đối trị trực tiếp với những che chướng xúc cảm (phiền não chướng) được sanh ra trong dòng tâm ; và dòng tương tục của người ta trở thành dòng tương tục của một vị thánh.

Lúc tiến trình khởi lên khỏi tịnh quang bắt đầu, sức mạnh hướng dẫn trước kia trong thực hành sẽ vào cuộc, đặt người ta ở cánh cửa qua đó thân huyễn thanh tịnh có thể được hoàn thành. Khi người ta khởi lên từ tịnh quang, với vai trò của nguyên nhân chất thể được vào cuộc bởi năng lực vi tế của năm ánh sáng chiếu diệu, trên đó thức tịnh quang bổn nguyên và thực sự cỡi lên, và vai trò của điều kiện hiện diện đồng thời được vào cuộc bởi tâm, người ta khởi lên trong một “thân huyễn thanh tịnh” thực sự. Thân huyễn thực sự này là một dòng không đứt đoạn trong một hình tướng như của Phật Vajradhara kết hợp đôi, trang hoàng bởi những tướng chánh và phụ, với những uẩn cũ để lại đàng sau.

Đồng thời biểu lộ những dấu hiệu của tiến trình hòa tan ngược lại, từ tịnh quang đến gần đạt cho đến dấu hiệu ảo ảnh. Vào lúc đó năm yếu tố cùng xảy ra : ‘thức tịnh quang bổn nguyên thực sự’ ngừng dứt ; trạng thái ‘gần đạt’ trong tiến trình hòa tan được sanh ra ; sự khởi lên của “thân huyễn thanh tịnh” ; người ta hoàn thành con đường giải thoát rốt ráo thoát khỏi những che chướng xúc cảm ; và dòng tương tục của người ta trở thành dòng tương tục của một A La Hán.

Con người của hình tướng Báo thân ấy bấy giờ chú tâm vào định.

Cái gì là những giai đoạn của định ấy? Người ta tập chú vào thiền định nhất tâm về tánh không và rồi khiến cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan, làm khởi lên những dấu hiệu, cho đến tịnh quang xảy ra. Vào lúc đó người ta đã đạt đến chỗ, nơi đó trạng thái đại hợp nhất có thể được hoàn thành không trở ngại, nơi thân và tâm có thể được cùng hòa hợp thành một thực thể duy nhất. Ở đây thân là thân huyễn thanh tịnh trang hoàng bởi những tướng chánh và phụ, và tâm là thức tịnh quang thực sự.

Khi đến lúc sanh khởi từ kinh nghiệm tịnh quang ấy, sức mạnh hướng dẫn trước kia từ sự thực hành vào cuộc, và người ta thấy mình ở cánh cửa qua đó thân của “đại hợp nhất trong tu hành” có thể trở thành thân của “đại hợp nhất vượt khỏi tu hành”. Khởi lên từ tịnh quang, người nơi giai đoạn của “đại hợp nhất của tu hành” tri giác hình ảnh thân thể của giai đoạn “đại hợp nhất vượt khỏi tu hành”. Đồng thời những dấu hiệu của tiến trình ngược lại xảy ra, từ tịnh quang đến gần đạt v.v… cho đến ảo ảnh.

Báo thân ấy nắm giữ tiềm năng của Hóa thânHóa thân lưu xuất một mạng hoạt động, như biểu lộ những mạn đà la được duy trìduy trì.

Khi người ta muốn sanh khởi khỏi thiền định, người ta đi vào những hợp uẩn cũ hay những hợp uẩn cũ khác, tùy cái nào thích hợp. Rồi, ở trong bình chứa đó, người ta chỉ dạy Pháp cho những người tu hành và trau dồi những hoạt động sau-thực hành…

CÁCH BIỂU LỘ NHỮNG KẾT QUẢ

Thiền giả ở giai đoạn đại hợp nhất của tu hành trau dồi những định của cấp độ đó trong cả thiền định chính thức và sau-thiền định, và sau cùng thấy những dấu hiệu của sự tiếp cận với chứng đắc “đại hợp nhất vượt khỏi tu hành”. Người ta có điều kiện bên ngoàiquán tưởng karmamudra và điều kiện bên trong là thiền định nhất tâm về tánh không, làm cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan. Những dấu hiệu xảy ra, bắt đầu bằng ảo ảnh v.v… cuối cùng đến những dấu hiệu của tịnh quang biểu lộ. Bốn cái không sanh khởi trong bản chất của bốn lạc.

Giây phút tịnh quang bổn nguyên này biểu lộ, người ta đi vào thiền định về lạc hòa hợp với (trí huệ) tánh không. Khoảnh khắc thứ nhất của tịnh quang này là giai đoạn không ngăn ngại trong đó những chướng ngại tri giác (sở tri chướng) được vượt qua. Khoảnh khắc thứ hai của nó cũng là khoảnh khắc đầu tiên của Phật quả toàn giác, trong đó người ta an trụ trong định toàn hảo về bản tánh tối hậu của tất cả hiện hữu, cùng lúc thấy trực tiếp mọi thực tại quy ước rõ ràng như một miếng trái cây trong lòng bàn tay. Thân của đại hợp nhất của tu hành trở thành đại hợp nhất vượt khỏi tu hành, Báo thân thực sự phát ra hàng ngàn Hóa thân lưu xuất để làm lợi lạc cho những ai tu hành. Như vậy người ta hoàn thành Phật quả trọn vẹn trong bản tánh của ba thân.

Như một sơ bộ để đạt đến giai đoạn đại hợp nhất vượt khỏi tu hành, người ta phải đi qua giai đoạn đại hợp nhất của tu hành. Như một sơ bộ cho cái đó người ta phải hoàn thành thân huyễn, và để cho điều đó người ta trước hết thiền định về những kinh mạch, luân xa, cháy bừng, tan chảy v.v…

Lần lượt, như một sơ bộ (cho những thực hành của giai đoạn thành tựu này) người ta phải đi đến chỗ kết thúc của những thực hành giai đoạn phát sanh thô và tế, chúng lấy sanh, chết và trung ấm, những căn cứ cần tịnh hóa, như là những con đường của ba thân. Để cho điều này người ta phải đã nhận quán đảnh trọn bộ và trưởng thành, chín chắn trong việc tuân thủ những giới luật được trao vào lúc quán đảnh. Hơn nữa, trước khi vào thực hành mật thừa người ta cần tu hành tâm thức trong con đường chung, từ trau dồi một tương quan làm việc hiệu quả với một vị thầy tâm linh, cho đến tu hành thiền định phối hợp shamatha (chỉ) và vipassyana (quán).

Như vậy hành giả như viên ngọc quý đi vào con đường sâu xa của Sáu Yoga của Naropa theo cách này đã vào con đường trọn vẹn và không lỗi lầm cho sự thành tựu giác ngộ trong một đời ngắn ngủi, dù trong thời đại suy đồi này.

Lời kết : Những ghi chú về dòng những giáo lý của Vajradhara Lobzang Dondrup, với không có gì vượt quá và không có gì bỏ sót, được sao chép và ấn hành bởi nhà sư Phật giáo Basowa Tenpai Gyaltsen (đệ tử của ngài Lobzang Dondrup).
 

(1) Tummo : Tôi dịch từ Sanskrit chandahi là “nội nhiệt”. Từ tương đương của Tây Tạng là tummo, trong đó âm thứ nhất nghĩa là “mãnh liệt” và ám chỉ lạc ấm áp sanh khởi từ thực hành, và âm thứ hai, một phần tử giống cái, ám chỉ trí huệ là đối tượng của cái lạc ấy. Tum là giống đực và mo giống cái, chỉ ra sự cần thiết phải quân bình giữa hai yếu tố dương và âm – nghĩa là năng lựctrí huệ – trong sự tu tập.
(2) Mười hai cái tượng tự : một xuất hiện như ảo ảnh, những vật trong một giấc mộng, một ảo giác, một phản chiếu trong gương, tia chớp trong bầu trời, một tiếng vang trong hang núi, một cầu vồng, mặt trăng trong nước, một thành phố của Càn thát bà, những hình đám mây làm mắt mê lầm, và hình dạng do huyễn thuật.
 
 

NHỮNG SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN

Những Khai Thị Từ Đức Liên Hoa Sanh Về Con Đường Đại Toàn Thiện – Padmasambhava
Trí HuệĐại Bi – Dalai Lama Thứ 14
Một Tia Sấm Chớp Sáng Trong Đêm Tối – Dalai Lama Thứ 14
Kho Tàng Tâm Của Các Bậc Giác Ngộ – Dilgo Khyentse
Đại Toàn Thiện Tự Nhiên – Khenpo Nyoshul
Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng – Dalai Lama Thứ 14
Con Đường Kim Cương Thừa Về Sự Tịnh Hóa – Lama Yeshe
Cuộc Đời Siêu Việt Của 16 Vị Tổ Karmapa Tây Tạng – Karma Thinley
Mật Thừa Tây Tạng – Tsong Khapa và Dalai Lama Thứ 14
Những Yoga Tây Tạng Về Giấc Mộng Và Giấc Ngủ – Tenzin Wangyal Rinpoche
Những Giáo Huấn Của Gampopa – Lama Yeshe Gyamtso và Evans Wentz
Tu Hành Tâm Linh Liên Hệ Với Trung Ấm – Tulku Pema Wangyal
Năng Lực Chữa Lành Của Tâm – Tulku Thondup
Phật Tâm – Longchen Rabjam
Milarepa ¬– Lobsang P. Lhalungpa
Con Đường Căn Bản Đến Giác Ngộ – Chošgyam Trungpa
Tử Thư Tây Tạng – Chošgyam Trungpa và Francesca Fremantle
Nghệ Thuật Để Sống Trọn Vẹn Ý Nghĩa Cuộc Đời – Akong Tulku Rinpoche
Đại Ấn – Karmapa Thứ Chín Wangchug Dorje
Sông Lửa Sông Nước – Taitetsu Unno
Vài Chú Giải Về Thiền Đốn Ngộ – Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Một Kho Tàng Các Giáo Huấn Siêu Việt – H. H. Orgyen Kusum Lingpa
Bát Nhã Tâm Kinh Thiền Giải – Đương Đạo
Những Chữ Vàng – Garab Dorje
Bức Thư Bồ Tát Long Thọ Gởi Cho Vua Gautamiputra – Sakya Trizin
Yoga Giấc Mộng Và Sự Thực Hành Ánh Sáng Tự Nhiên – Namkhai Norbu
Tịnh Độ Tư Tưởng Luận – Các đại sư Tịnh Độ Trung Hoa
Uống Dòng Suối Núi – Milarepa
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Chúa Jésus – Dalai Lama Thứ 14
Mười Tư Tưởng Pháp Hoa Trong Đời Sống Hàng Ngày – Đương Đạo
Tánh Giác Lộ Toàn Thân – Karma Chagmé
Chánh Pháp Nhãn TạngThiền sư Đạo Nguyên
Sống Trong Tham Thiền Chu Kỳ Ngày Và Đêm – Namkhai Norbu
Thực Tại Thiền – Đương Đạo
Sáu Yoga Của Naropa – Garma C. C. Chang và Glenn H. Mullin
Xã Hội Giác Ngộ – Chošgyam Trungpa
Đánh Thức Trí Thông Minh – J. Krisnamurti
Viên Ngọc Như Ý – Dilgo Khyentse
Chú Giải Về P’howa – Chagdud Khadro
Những Lối Vào Pháp Thân – Dudjom Lingpa
Ngữ Lục Bồ Đề Đạt Ma – Nguyên Hảo dịch
Yên Tĩnh Và Trong Sáng – Lama Mipham
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19424)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18529)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16054)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29867)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25458)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21606)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17808)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20821)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26329)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33326)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52148)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22871)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23407)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39646)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21792)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22379)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6837)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22728)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69804)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44010)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23067)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35034)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44094)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42912)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44415)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24909)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24354)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39205)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39230)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17252)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18039)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19260)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35671)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24216)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19586)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20399)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18303)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18997)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18938)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17472)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19316)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30828)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19188)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20526)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19556)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19764)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29821)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17834)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19398)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19877)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58766)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24405)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23515)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39756)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26714)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40759)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22864)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22914)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21589)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18615)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22590)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21078)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19209)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20930)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20325)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30551)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20176)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17461)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16594)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16846)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14953)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14832)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22863)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16038)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16203)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15248)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26102)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17191)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15788)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19768)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17669)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14680)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14731)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19123)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15117)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33048)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17488)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19126)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21817)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23004)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16622)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16466)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16511)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22989)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26385)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12745)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29510)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27710)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25908)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18462)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant