Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tương quan giữa Thiền và Tịnh

09 Tháng Tư 201400:00(Xem: 11288)
Tương quan giữa Thiền và Tịnh


Tương quan giữa Thiền và Tịnh


Võ Thị Thanh Thảo

 

Hơn 2500 năm trước, một Vĩ nhân xuất hiện trên đời, trong bối cảnh Ấn Độ đang đắm chìm trong 62 học thuyết ngoại đạo chấp thủ ngã và ngã sở, bị vây bủa bởi chiều dày lịch sử phân chia giai cấp, nhân loại khổ đau, nhưng không tìm ra lối thoát. Sự xuất hiện của Ngài như vầng thái dương toả rạng, phá tan mọi tối tăm của màn vô minh trong đêm dài bất tận. Ngài đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại, giải phóng con người thoát khỏi khổ đau. Đó chính là đức giáo chủ Gotama. Ngài xuất hiện trên thế gian này vì lợi lạchạnh phúc của trời và người[1]. Ngài đã để lại một kho tàng giáo lý đồ sộ, là di sản bất sanh bất diệt.

 

TƯƠNG QUAN GIỮA THIỀN VÀ TỊNH 

 Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông. Mục đích tu hành duy nhất của 2 Tông phái này cũng không ngoài bổn nguyện giải thoát sanh tử, lìa khổ được vui.

 Nói về phương pháp để tu hành của Phật giáo thì rất nhiều bao gồm 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Chúng ta có thể so sánh các pháp môn như các loài hoa quý, tuy nhiều mùi thơm, lắm sắc đẹp, mà không loài nào không nỡ trong vườn tịnh giới của Đức Phật. Cũng vậy, mặc dù vô lượng pháp môn tu như: Thiền, Mật, Hoa nghiêm, Tịnh Độ…đều thuộc về Đạo Phật. Giống như nước ở trăm sông, ngàn suối khi chảy về biển cả và hòa lẫn với nước biển đồng mang một mùi vị đó là vị mặn. Giáo pháp của Phật cũng thế, dù có vô vàn pháp môn tu nhưng đều đưa đến một mục đíchgiải thoát. Chúng sanh thì đa bệnh, Phật pháp lại đa phương. Vì lẽ đó người viết chọn đề tài: “Sự Tương Quan Giữa Thiền và Tịnh” để làm bài thu hoạch của mình. Tuy nhiên với đề tài này mang tính chất rộng lớn, bao quát nhiều lãnh vực khi nghiên cứu để trình bày được đầy đủ. Do vậy người viết không thể chuyển tải được hết mọi vấn đề, chỉ trình bày theo sự hiểu biết trong khả năng giới hạn của mình. Mong rằng một số kiến thức có được sẽ là thiết thực, hữu hiệu cho con người, góp phần xây dựng ngôi nhà đạo pháp tại thế gian.

 Với đề tài này người viết dựa vào bài giảng của giáo thọ sư kết hợp với những tài liệuliên quan đến đề tài để trình bày những nội dung sau:

  • Khái Quát Về Thiền và Tịnh
  • Sự Tương Quan Giữa Thiền và Tịnh
  • Nhận Định Chung

 Để hoàn thành, người viết dựa vào phương pháp phân tích, bình giảng để trình bày về nội dung. Đồng thời cũng nêu lên vài quan điểm tương đồng của hai pháp môn này để mọi hành giả cùng tham khảo.

 Khái Quát về Thiền và Tịnh

 Thiền là một trong những Nội dung tu tập cực kỳ quan trọng của Phật giáo. Có thể nói, nếu không thực hànhthành tựu thiền sẽ không chứng được tuệ giác, giải thoát

 Theo định nghĩa chung, Thiền: tiếng Phạn là Dhyàna (Pàli: Jhàna), phiên âm là Thiền na, dịch ý là tĩnh lự. Tĩnh là sự yên lặng; Lự là suy tư. Tĩnh lựđình chỉ mọi tư tưởng hay cột tâm ý chuyên chú vào một đối tượng duy nhất. Thiền còn gọi là “tư duy tu”, “khí ác”, tức xả ly tất cả các tâm niệm ác, ngũ triền cái (dục, sân, hôn trầm, trạo cử, nghi) [2].

Thiền định (Samadhi) là phương pháp gom tâm trụ nó vào một đề mục cố định để giữ cho tâm được vắng lặng. Định của thiền địnhtâm sở nhất tâm, trụ tâm nằm trên một đề mục cố định duy nhất. Sự định tâm, chuyên chú này có tác dụng thiêu đốt các nghịch pháp phiền não (Tapo).

 Nội dung cơ bản của Thiền được cư sĩ Hồng Quang định nghĩa giản dị đễ hiểu: “Thiền là tập trung tâm vào một điểm mà không suy nghĩ và một vấn đề nào khác”.[3] Được phân làm 2 loại Thiền Giác Ngộ và Thiền Sức Khỏe.

Tịnh, theo định nghĩa của Tịnh Độ Tông: còn gọi là Liên tông, hoặc Niệm Phật Tông. Lấy ngài Phổ Hiền Bồ Tát làm Sơ Tổ, tông này chủ trương “Niệm Phật vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc”. Khi hành giả về cõi này thì không còn luân hồi nữa.[4]

Nay chúng ta muốn tìm hiểu pháp môn này thì phải biết rõ về hai chữ Tịnh Độ nghĩa là gì?

Tịnh: nói đủ là thanh tịnh, tức là không có nhiễm ô, dơ bẩn, đó là ý nghĩa tiêu cực. Về phương diện tích cực, không tạp nhiễm lỗi lầm phiền não, tức là thanh tịnh, đầy đủ công đức, trí huệ.

Độ: là cõi nước, thế giới hay nơi chốn nương tựa chung.

Vậy Tịnh độ là cõi nước thanh tịnh trang nghiêm nơi đó tâm địa chúng sanh không nhiễm ô, không phiền não, luôn an vui tu tập để tiến đến cứu cánh giải thoát viên mãn. Đây là thế giới trang nghiêm vi diệu

Tương Quan giữa Thiền và Tịnh

 Như chúng ta biết, con người ai ai cũng mong ước có một cuộc sống khỏe mạnh ít bệnh hoạn, nhưng không ai tránh khỏi hoạn hoại này. Để có được biện pháp thiết thực cần yếu cho con người đức Phật đã dạy chúng ta một loại linh dược, không tốn tiền mà vô cùng quý giá, đã hơn 2500 năm qua nhân loại chưa biết đến, hoặc đã biết nhưng không chứng minh được lợi ích của loại thuốc này, loại thần dược đó chính là “Thiền và Tịnh” là hai vị thuốc nếu khéo tác hợp nó sẽ cho ra kết quả vô cùng hữu hiệu.

 Nói đến tu Tịnh và tu Thiền, bề ngoài nghe dường như mâu thuẫn, song bên trong đã đồng nhất không sai biệt, để dung hoà hiện thực với siêu nhiên.

 Nếu Thiền định là lắng đọng tư duy, và tập trung tư tưởng, không để cho niệm lự dấy lên, và thắp sáng ngọn đèn chánh niệm, để duy trì thường trực tính năng biết nhiệm mầu hay tri kiến của mình, thì người tu Tịnh độ lúc nào cũng ở trong Thiền, vì hành giả luôn luôn ở trong tĩnh lặng của Thiền. Ý của hành giả không đuổi theo trần cảnh và tâm của người này nhiếp câu niệm Phật trong định thì chúng ta đã dung hòa giữa Thiền và Tịnh song tu thì càng hiệu nghiệm hơn.

 Trong xã hội hiện nay, theo như trong kinh điển gọi là thời mạt pháp, có rất nhiều chướng duyên, đã mang thân người không ai tránh khỏi những căn bịnh hiểm nghèo khó vượt qua lưỡi búa của tử thần, khiến cho con người thường hay lo sợ, hải hùng hay thối mất chí nguyện hướng thiện và hướng thượng của mình, con người phần nhiều mang nặng những căn nghiệp tham, sân, si từ vô thỉ kiếp, khi gặp những tình huống căng thẳng trong cuộc sống giao tiếp ngoài xã hội, thường mắc phải những cảnh trái ý nghịch lòng, liền sanh tâm sân hận, lo âu phiền muộn luôn mong cầu sự trợ lực của những bậc thần linh, cho nên có thể nói rằng tu tập pháp môn Niệm Phật cầu sự gia trì của chư Phật là phương pháp rất gần gủiphù hợp, làm cho con người có được niềm tin trong cuộc sống.

Mặt khác, qua sự nghiên cứu của các học giả cho thấy: con người khi tinh thần bị khủng hoảng hay giận hờn, cơ thể tiết ra những hóa chất và được dẫn vào đường máu để gia tăng sự đối kháng. Lúc đó người bị căng thẳng có các triệu chứng như: Thở mạnh, nhịp tim đập nhanh, nhức mỏi…Các phản ứng vật lý vừa kể nhằm đẩy mạnh khả năng của người lúc cơ thể bị đe dọa. Tuy nhiên, cơ thể con người thường không có lối thoát cho những năng lượng dư thừa. Vì thế, việc đầu tiên mà con người chống lại stress (căng thẳng) là, tạo điều kiện cho cơ thể thư giản trở lại bằng cách lắng đọng tâm tư, thở nhẹ nhàng, thiền giúp con người vượt qua sự căng thẳng của cơ thể sẽ được thư thái.[5] “Thiền còn giúp chúng ta chữa được bệnh, chống lão hóa, làm cho con người đẹp hơn, thông minh hơn, khỏe mạnh hơn, sống có hạnh phúc hơn..”.[6]

Thế nên, khi tìm hiểu kỷ chúng ta đã có một kết quả khả quang hơn là, giao điểm giữa Thiền và Tịnh có thể giúp cho hành giả càng vững vàng trên tiến trình thực tập ở chổ: Trước hết, người niệm Phật sẽ có được sự an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Ngay trong lúc chúng ta chuyên tâm trì niệm Hồng danh Đức Phật A Di Đà, tâm không còn chạy theo những ý niệm bất thiện tức là cần có (định tâm), những tư tưởng loạn động không còn bị những tâm niệm tham lam, sân hậnsi mê quấy nhiễu. Tâm của chúng ta ví như một căn phòng, và trì niệm Hồng danh Đức Phật là thắp lên trong căn phòng tâm thức của chúng ta một ngọn đèn, khi ánh đèn sáng tỏ đã được thắp lên thì bóng tối trong gian phòng ấy sẽ tự nhiên bị đẩy lùi, bị tiêu mất. Hơn nữa, khi ta niệm Phật thì tâm trí không còn nhớ nghĩ đến những điều xấu xa (điều phục tâm), miệng và thân không tạo ra nghiệp ác. Một giờ niệm Phật, là một giờ không tạo nghiệp bất thiện; một ngày chuyên niệm Phật, thì trong ngày đó chúng ta tránh được các nghiệp ác. Không tạo các nghiệp ác cũng đồng nghĩa là tâm không bị giày vò bởi những lo âu, phiền muộn. Mà lo âu phiền muộn chính là nguồn gốc phát sanh bệnh. Do đó, Thiền và Tịnh như các đạo tràng thường hành thì chỗ đồng hành gặp nhau không có ranh giới.

Đạo Phật có muôn ngàn pháp môn, tượng trưng có 2 pháp môn Thiền và Tịnh là phổ biến hơn cả. Các pháp môn Niệm Phật như con mọt đục ống tre từng mắt mà lên, còn pháp môn ngồi thiền định tâm như con mọt đục ngay mình tre mà ra. Tuy hai phương pháp đều đưa con mọt ra khỏi ống tre cả, nhưng phương pháp Thiền kết quả mau chóng hơn các phương pháp khác.Chính vậy, Tịnh Độ tôngThiền tông hiện nay là hai Tông phái được phổ biến rộng rãi nhất và cũng được nhiều Tông phái khác phổ biếnhành trì.

- Tịnh độ thì chú trọng vào niềm Tin của cá nhân và sự cứu độ của Đức Phật A Di Đà. Pháp tu chủ yếu là chú tâm chuyên nhứt vào niệm danh hiệu Phật A Di Đàquán tưởng đến thế giới Cực lạc. Cho nên nói Tu Tịnh độ (thuần tuý) là hướng về ngoại cảnh hay hành Pháp tướng, nương vào Tha lực bằng cách niệm danh hiệu Phật A Di Đà, để trút bỏ phiền não, nhiễm ô, mong đạt tới sự an lạc ngay trong hiện tại thân được nhẹ nhàng khinh an sẽ giảm thiểu được các căn bịnh. Tâm không suy nghĩ sằng bậy thì tâm không bị nhiễm ô, hiện tại thân khỏe tâm an và tương lai chứng đắc Niết bàn Tịnh độ.

 - Thiền định cũng vậy, là một phương cách giúp tinh thần được thư dãn. Hai phương pháp luyện tập này có những điểm tương đồng với nhau, nhưng Thiền tập đi sâu vào trạng thái tâm linh, nội tại của con người hơn là những bài luyện tập về thể lực. Thiền định là hướng về nội tâm, hành Pháp tính, dựa vào Tự lực, quán sát tự tính để diệt trừ chúng sinh tính trong lòng mình, mong cho tâm tỏ ngộ.

Trong nhiều pháp môn tu có thể nói Thiền Tịnh Song Tu là một phương pháp kết hợp mật thiết dễ hành trì, và hành giả có thể cảm nhận được sự lợi ích từ pháp tu của mình ngay trong hiện tại cũng như trong tương lai. Trong bài Niệm Phật luận, Trần Thái Tông viết “Ư niệm Phật thì chánh thân đoan toạ, bất hành tà hạnh, thị tức thân nghiệp dã. Khẩu tụng chân ngôn, bất đạo tà ngữ, thị tức khẩu nghiệp dã. Ý tồn tinh tiến, bất khởi tà niệm, thị tức ý nghiệp.” [7] (Trong lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay, không làm việc tà, như vậy là tắt được nghiệp thân, Miệng tụng lời chân chính, không nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệp miệng (định thân). Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là tắt được nghiệp ý (định tâm). Công năng niệm Phật là thế, nhưng phương thức hành trì của mỗi đối tượng dựa trên sự phân chia căn trí cao thấp.

Qua thực tế cho thấy, sự căng thẳng thiếu cân bằng của cơ thể và tâm hồnnguyên nhân chính tạo ra bệnh và lây lan những bệnh khác. Tâm có thể tạo ra bệnh thì tâm cũng có công năng chữa lành bệnh. Học cách hành thiền và niệm danh hiệu Phật có thể làm cho Thân tâm quân bình. Đồng thời, cải thiện được sức khỏetinh thần của con người được ngày một phấn chấn hơn.

Người con Phật chẳng những là người y pháp tu họccần phảitư tưởng trạch pháp, trong vô lượng pháp môn tu bao gồm 8 vạn 4 ngàn pháp môn, nhưng chúng ta có quyền dung hợp những phương pháp nào hợp với căn cơtrình độ của mình, mới có thể đưa đến hạnh phúc an lạc trong hiện tại thân khỏe tâm an và giải thoát trong tương lai, thì không thể không tham cứu kỷ càng về hai pháp môn Thiền và Tịnh. Vì đây là chiếc chìa khóa vạn năng giúp chúng ta thông suốt trong quá trình tu tập giải thoát.

Ngoài việc ngồi thiền và niệm danh hiệu Phật, chúng ta cần kết hợp phương pháp tập thể dục, chế độ ăn uống hợp lý.

 Thiền và thuốc song hành có lẽ là giải pháp tốt nhất. Ngoài những yếu tố vừa đưa ra, con người thường bệnh là vì có thêm sự rối rắm, bất ổn trong tâm của mình, do đó tập ngồi Thiền chuyên tâm vào câu niệm Phật là cách để giúp mình hồi phục lại được sự yên tỉnh, êm lắng và hài hoà trong tâm.

Thiền có thể giúp cho mình có sự sáng suốt, giúp giải toả những căng thẳng, lo lắng, bất an trong con người, giúp mình vượt qua những ám ảnh về tâm lý gây ra bởi những biến cố, những chấn thương mà mình đi qua trong quá khứ, hoặc có thể hoá giải những thói quen tiêu cực trong chính bản thân mình – những cách suy nghĩ, những cảm xúc tiêu cực, hoặc cách mình ứng xử với người khác.

Niệm danh hiệu Phật giúp chúng ta cột tâm vào một đối tượng chuyên chú nhứt tâm không dấy niệm bất cứ việc gì ngoài câu niệm Phật, tâm không khởi loạn tưởng chạy theo trần cảnh thì không có tham, sân, si. Tâm không còn tham, sân, si thì còn gì hạnh phúc hơn.

Vậy muốn có một cuộc sống an lạc hạnh phúc chúng ta cần phối hợp giữa Thiền và Tịnh. Cổ nhân dạy:

 "Có Thiền không Tịnh độ, mười người chín chần chừ, ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”[8]:

“Người tu Tịnh độ mà không tham Thiền, muôn người tu, muôn người được vãng sanh (nếu nhất tâm).

“Có thiền có tịnh độ, khác nào cọp mọc sừng, hiện đời làm thầy người, đời sau làm Phật, Tổ"[9].

Nghĩa là lối tu niệm Phật đã chắc chắn rồi, mà còn tham Thiền, lại càng chắc chắn hơn nữa ( 2023).



[1] Thích Chơn Thiện, Tăng Già Thời Đức Phật, Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2000, trang 45

[2] Ban Hoằng Pháp, Báo Giác Ngộ số 350. 12-10-2006. Thiền Chỉ & Thiền Quán. Tr 14.

[3] Hồng Quang, Thiền Và Những Lợi Ích Thiết Thực, Xuân 2013, tr 5

[4] Trần Nghĩa Hiếu, Từ Vựng Phật Học, NXB: Phương Đông, Tr 875

 [5] Hồng Quang, Thiền Và Những Lợi Ích Thiết Thực, Xuân 2013, Tr 13

[6] Sdd, tr 41

[7] Viện Văn Học, Thơ Văn Lý Trần, tập 2, Nxb. KHXH, HN, 1989, tr.84.

[8] Ấn Quang Đại Sư Gia Ngữ Lục, NXB Tổng hợp TPHCM, Năm 2006, Tr 318.

[9] Sđd, tr 316.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31576)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10505)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11207)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12718)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10793)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16613)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10792)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11998)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11474)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10669)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12312)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10001)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10315)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11897)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10685)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12351)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9789)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11243)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13823)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9571)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12607)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9681)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10440)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10537)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10297)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9883)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11037)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11992)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10133)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9531)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9883)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8757)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9487)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14502)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8763)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12538)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10404)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9058)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10544)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9321)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8778)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10493)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9172)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8347)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12008)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9687)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10218)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19107)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9384)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8963)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9570)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9011)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14730)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10072)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8339)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8934)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8958)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8728)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9353)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14568)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9023)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8749)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9026)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10511)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8626)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24254)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10153)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11007)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8988)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9455)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7994)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9229)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15327)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10321)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9560)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12147)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10223)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19211)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26000)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7960)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14735)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10618)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9524)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18628)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12338)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11862)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10729)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13323)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15856)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant