Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đường Về Cõi Phật A Di Đà

03 Tháng Hai 201507:50(Xem: 9384)
Đường Về Cõi Phật A Di Đà

Đường Về Cõi Phật A Di Đà


Cư sĩ Trúc LâmAn Bình

(thuyết giảng tại Tự Viện Linh Sơn Pháp quốc, tháng 5/1985)
=====================

 


I. Dẫn nhập:

Kinh Đại Bổn Di Đà nói: Một hôm Đức Phật Thích Ca dung nhan khác lạ, ngài A Nan mới hỏi có nhân duyên gì mà Đức Thế Tôn hoan hỷ như vậy? Đức Phật nói có pháp môn niệm Phật Di Đà rất thích hợp với chúng sanh, đặc biệt vào thời mạt pháp khi căn cơ chúng sanh bị giới hạn đi nhiều và bất cứ ai cũng có thể trì niệm được. Đây là nguyên do đầu tiên.

Bà Vaidehy cùng vua Bimbisara có sanh một vị hoàng tử tên là A Xà Thế, người con này vô cùng ngỗ nghịch, không bao giờ nghe lời chỉ dạy của phụ vương cũng như mẫu hậu. Ông nghe lời Đề Bà Đạt Đa (y nói rằng trong Đạo có Phật Thích Ca là lớn nhất, ngoài đời có vua Tần Bà Sa Lauy quyền hơn cả) về nhà bắt giam vua cha vô cớ. Hay tin này, bà Vaidehy rất đau khổ mới xin những người gác ngục vào thăm vua. Để có thể mang đồ ăn thức uống vào cho vua đang bị giam, bà lấy trái Ampala lớn như trái ổi (loại trái cây này chỉ có bên Ấn Độ) giả như mang một xâu chuổi, trong đó hoàng hậu để các đồ cần dùng no lòng. Cứ thế nhiều ngày trôi qua, tuy nhiên, sự việc này cuối cùng bị A Xà Thế phát giác và điều tra, sau đó bắt và hạ ngục luôn bà mẹ của mình.

Trong ngục tối của thành Vương Xá dưới chân núi Linh Thứu, mỗi đêm bà đều hướng lên Linh Sơn để cầu nguyện với Đức Phật: «Làm sao Thế Tôn cho con sống trong một thế giới nào không có những đứa con ngỗ nghịch!» . Đức Phật ở trên núi Linh Thứu mới phóng quang cho bà thấy cả 10 phương thế giới. Từ đó bà mới chọn cảnh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, có Phật Di Đà đáng kính đáng về (đây là theo nhân duyên cảm nhận, thực sự 10 phương Phật, phương nào cũng là cực lạc, cõi Phật nào cũng đều nên về cả). Bà phát nguyện khi xã báo thân này là sẽ về cõi Phật A Di Đà. Đây là nguyên do thứ hai.

Trong kinh nói rằng, Đức Phật Di Đà luôn luôn chờ đợi để tiếp đón chúng sanh lên 9 phẩm sen vàng, phần còn lại là ở nơi chúng sanh có muốn về cõi Phật hay là không.

II. Định nghĩa, đại nguyện, và cảnh giới:

Namo Amitàbha Buddha hay Nam Mô A Di Đà Phật nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức.

Namo nghĩa là quy mạng, nương về ở đây dịch âm từ tiếng Bắc Phạn, Tàu dịch là Nam Vô, người Việt đọc là Nam Mô; Amitàbha là Vô Lượng Thọ (mạng sống lâu không thể lường), Vô Lượng Quang (sáng suốt vô cùng tận), Vô Lượng Công Đức (ngài tu hành không biết bao nhiêu kiếp nên công đức không thể nào lường được); Buddha là Phật hay Phật Đà (là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, người nào có đủ ba hạnh đều gọi là phật cả). Trong mỗi chúng ta có sẵn những đức tánh vừa nêu trên, nhưng từ nhiều đời nhiều kiếp trở lại đây nó đã bị bụi trần vô minh che lấp, nên không thấy được. Đức Phật dạy ta pháp môn niệm Phật Di Đà nhằm hướng dẫn ta trở về con đường nầy, hơn nữa sự trở về này dù cho có Phật Di Đà làm trợ duyên tốt, nhưng trước tiên chính là mỗi người trong chúng ta cần phải đầu tư thật nhiều cố gắng, thì mới có thể về được cõi Phật.

Cõi Phật Di Đà hay là Tịnh Độ có nhiều tên gọi khác nhau như Cực Lạc, Tây Phương, An Dưỡng Quốc, An Lạc Quốc. Cảnh trí cõi Tịnh cho chúng ta thấy rằng chánh báo nào thì y báo nấy. Chánh báo là chỉ cho Đức Phật Di Đà, Y báu là cõi nước. Chánh báu là phước báu chánh của vị đó, còn Y báu là phước báu nương theo vị đó. Khi ta đã biết được cảnh trí Tịnh độ rồi (diễn tả chi tiết trong Kinh A Di Đà), thì mới hết lòng cầu về cõi Tịnh.

Nguyện về tịnh độ một nhà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa nở rồi biết tánh linh
Các ông Bồ Tát bạn lành với ta.

Khi chúng sanh chưa giác ngộ thì các vị Bồ Tát là cao, còn khi ta ngộ (sinh về Tịnh độ) thì các ngài là người bạn lành của chúng ta. Chúng ta muốn thật sự gia đình được đoàn tụ (không phải sau khi chết rồi, mỗi người mỗi nẻo luân hồi), thì chỉ nên đi một đường này. Tất cả chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả (Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu – chín phẩm hoa sencha mẹ). Khi chúng ta bắt đầu niệm Phật tại đây thì trong Ao Thất Bảo bên Tịnh độ hiện lên một hoa sen ghi danh hiệu của ta ở trên đó. Khi niệm Phật phải phát tâm Chánh Tín rằng chư Phật không bao giờ nói dối chúng sanh; hơn nữa phải tin tưởng giáo pháp của Phật đã chỉ dạy trong các kinh điển, và quan trọng hơn cả là phải tự tin nơi chính bản thân của mình. Còn nếu có người vẫn niệm Phật nhưng lòng còn nghi, thì sau khi chết sanh về nghi thành, và ở đó trong nhiều tháng, đây là lời trong Kinh Đại Bổn Di Đà đã ghi. Do đó nhất định không thể nào nghi được, phải có một ý chí sắt đá tin tưởng vào sự trì niệm danh hiệu Phật Di Đà và cầu sanh Tịnh độ. Muốn về Tịnh độ phải trang bị tư lương thật đầy đủ. Tư nghĩa là thực hành các loại công đức khác nhau, như làm lành lánh dữ (thọ Tam Quy trì ngũ giới), giúp đỡ kẻ yếu binh vực người ngay (ở đây cần hiểu rộng ra là người Phật tử ngoài chuyện tụng kinh niệm Phật, còn phải đóng góp tâm trí vào việc cứu vớt dân tộc Việt ra khỏi ách nạn cộng sản); Lương nghĩa là hành trang niệm Phật tụng kinh một cách chí thành khẩn thiết. Ngài Huệ Viễn là vị Tổ sư của pháp môn Tịnh độ dạy rằng: «Thà về Tịnh độHạ phẩm, còn hơn lên các cõi trời, vì lên trời còn bị đọa sau khi hết phước». Khi về Tịnh độ thì thần thức ta ở trong hoa sen, hoa nở mới gặp được Phật A Di Đà, tại đây sẽ được bậc Bất thối chuyển, không có thân tướng nam nữ khác biệt.

Còn về cảnh trí Tịnh Độ thì mỗi nơi chốn tiêu biểu cho số 7. Cho nên mới nói về đến Tây phương Tịnh độ được tắm ao thất bảo. Tắm ao thất bảo này để trừ thất bất khả tỵ (bảy việc không thể tránh khỏi) như: 1/ Sanh (theo nghiệp lành dữ), 2/ Già (tuổi lần xế chiều), 3/ bịnh, 4/ chết, 5/ tội (khổ quả tội nghiệp), 6/ phước (khổ quả thiện nghiệp), 7/ nhơn duyên (hòa hợp sanh ra, họa phước giàu nghèo). Ngoài ra còn có hương ngũ phận, lưu ly có đất sáng ngần, ma ni có nước trong ngần chảy quanh, thất trân có 7 lớp thành, 7 hàng cây báu 7 hàng lưới châu, có ngân các có kim lầu, có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe; Nghe rồi tỏ đạo bồ đề các ông Bồ tát bạn lành với ta. Do đó ta thấy rằng cõi chúng ta ở là Ta bà đầy cảnh khổ đau, dầu có phước đức như thế nào đi nữa thì cũng không thoát khỏi sanh, lão, bịnh, tử.

Trong tất cả các pháp hội khi Đức Thế Tôn còn tại thế, tất cả các bộ kinh ngài thuyết đều do có người hỏi cả; đặc biệt bộ Kinh Di Đà thì ngài đã vô vấn tự thuyết (không hỏi mà nói), như trong kinh tiểu bổn Di Đà, Đức Phật kêu ngài Xá Lợi Phất mà nói về công đức của bộ kinh này. Pháp môn Tịnh độ chỉ cho chúng ta đi về con đường an vui, sự trình bày của tôi hôm nay để cùng nhau đi về thế giới thanh tịnh an vui mà chư Phật, chư vị Tổ sư đã đi trước chúng ta một thời gian khá dài. Thế giới Tịnh độ thực ra không xa nơi chúng ta đang cư ngụ, nếu ta giác ngộ thì thế giới đó ở ngay chính trong ta, nên có một câu nói là Duy Tâm Tịnh Độ (nghĩa là muốn trở về cõi Tịnh thì trước nhất Tâm của ta phải Tịnh, vì Tâm tịnh tức Phật độ tịnh), là ở ý nghĩa đó. Đức Phật Di Dà rất từ bi, ngài phát 48 lời đại nguyện và lúc nào cũng đưa tay sẳn sàng tiếp đón thần thức của ta về với quốc độ của ngài, nhưng nếu tâm ta chưa thanh tịnh thì chưa thể nào về cõi Tịnh được.
Do vậy người niệm Phật phải luyện tập hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng cho được thuần thụcnhất tâm. Trong các bài sám có câu «Một lòng mỏi mệt không nài, cầu về tịnh độ ngồi đài liên hoa, cha lành vốn thiệt Di Đà, soi hào quang tịnh chói lòa thân con…». Nếu niệm Phật không tinh tấn thì không thể nào về được cõi Tịnh, và mọi người đều biết rằng ai ai cũng đều phải chết, có một vị Tổ sư nhắc rằng «Chớ đợi đến già mới niệm Phật, thiếu chi mồ trẻ đã qua đời». Khi chết ta phải tìm con đường để đi, điều cần yếu là đừng trở lại chốn này. Trong chúng ta đây là những người có được phước, so với đồng bào ta ở trong nước đang phải sống rất khổ cực dưới chế độ cộng sản, cho dù đủ ăn đủ mặc nhưng vẫn phải chịu những cái khổ khác không sao tránh khỏi, vì đây là thế giới đầy sự đau khổ, trong đó chúng sanh lấy khổ cho là vui, thân chịu trong cảnh khổ không tìm cách thoát ly. Về với Phật Di Đà là để có cơ duyên thuận tiện để tu hành chứ không phải về tới Tịnh độ là được thành Phật ngay, cho nên có 3 phẩm hóa sanh (thượng, trung và hạ) là ở nơi công đức tu trì của hành giả mà thôi.

Đức Phật thuyết giảng hơn tám muôn bốn ngàn pháp môn, nhưng ngài nói pháp môn niệm Phật Di Đà và cầu sanh Tịnh độBất Nhị Pháp Môn (nghĩa là pháp môn có một không hai), các pháp môn khác đều phải tự lực trước; riêng pháp môn này khi bắt đầu trì niệm hồng danh Đức Phật Di Đà, thì người trì niệm đã được an trụ trong hào quang, cũng như sự che chở của ngài, sự việc này đến do nơi 48 đại nguyện phát ra trước đây. Lời nguyện thứ 18 nói rằng: «Có chúng sanh nào, muốn sanh đến thế giới của ngài, chí thành tâm thiện chí thành tâm niệm danh hiệu của ngài 10 lần. Nếu người đó không sanh về cõi ngài thì ngài không chứng bực chánh giác». Do đó ta thấy pháp môn nầy nhờ vào đại nguyện của đức Phật Di Đà và các bực thánh chúng, đặc biệt là rất phổ cập và không khó để hành trì, hàng Phật tửtại gia hay xuất gia, gặp nhau nơi nào đi nữa, câu nói đầu tiên thoát ra từ cửa miệng là A Di Đà Phật!

III. Tư lương, điều kiệnkết luận:

Dưới đây là một vài điều kiện căn bản để làm tư lương trên đường về cõi Phật A Di Đà :

1/ Sự kiện trên có ý nghĩa đặc biệt nhằm gợi lại Phật tánh sẳn có nơi mỗi người (bản tánh của ta vốn sáng suốt, nhưng bị vô minh che lấp từ nhiều đời nhiều kiếp trở lại); thứ hai nhắc nhở tới bình đẳng Phật tánh giữa tất cả mọi loài cùng mười phương chư Phật. Cho nên trì niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà tức là tưởng nhớ tới danh hiệu của 10 phương chư Phật. Nhưng muốn thành tựu công đức này, một điều không thể nào quên được, đó là phải có niềm tin. Vì có niềm tin nên mới trì niệm, có niềm tin nên thực hành, và có niềm tin mới đi đến kết quả sau cùng. Cho nên mới nói rằng: Tín vi đạo nguyên công đức mẫu, Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn, Tín năng siêu xuất chúng ma lộ, Tín năng đắc nhập tam ma địa, Tín năng giải thoát sanh tử hải, Tín năng thành tựu Phật bồ đề. Bởi thế cho nên Nhân Vô Tín Bất Lập. Người tu niệm tin Phật không bao giờ nói dối chúng đệ tửthân khẩu ý của ngài đã thanh tịnh; tin Pháp là chơn lý không bao giờ dời đổi; tin sức mạnh của bản thân sẽ được đi về Tịnh độ. Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, tiềm ẩn tự tánh Di Đà, và tâm Tịnh độ, cho nên, ta phải chí thành tin tưởngtrì niệm mỗi ngày để ngày nào khi tắt thở, thì thần thức này đương nhiên sẽ đi về cõi Tịnh độ mà thôi.

2/ Về mặt phát nguyện phải hết sức thành khẩn, kinh Di Đà nói chúng sanh mong muốn về cõi Tịnh độ để thấy Phật Di Đà cũng như con mong muốn được gặp mẹ. Cho nên có câu trong bài sám tụng như sau: «…đã sanh về chín phẩm sen, mấy tai cũng xẩy, mấy duyên cũng tròn, Phật như thể mẹ tìm con, con mà gặp mẹ lại còn lo chi, lầu vàng đài các thiếu gì, ăn thời cơm ngọc, mặc thời áo châu, không ơn không oán không sầu, không già không chết có đâu luân hồi…». Qua đó ta thấy rằng Đức Phật giống như một bà mẹ hiền lúc nào cũng muốn đưa chúng ta về cảnh giới an lành, còn về hay không là tùy ở nơi mỗi người chúng ta. Chư vị thiền đức đã nhắc chúng ta rằng nơi cõi chúng ta đang sống là một cảnh chiêm bao lớn. Trong giấc chiêm bao lớn này, sống chếtchiêm bao nhỏ, khi giác ngộ rồi thì đại địa vô thốn thổ (cả trời đất bao la này không còn gì cả), vì chúng ta chưa ngộ nên cho tất cả mọi chuyện chung quanh đều là thật cả. Phải phát tâm mong muốn hết lòng, cầu về gặp cho bằng được bà mẹ hiền (Đức Phật Di Đà) đã chờ ta từ vô lượng kiếp tới nay.

3/ Mỗi ngày cần siêng năng niệm Phật để chuẩn bị tư lương đường về cõi Phật. Tư lương này ví nhưcông đức của ta cần tích lũy cho mai sau khi ta nhắm mắt lìa trần. Khi xa lìa thế gian chỉ có tư lương này là có thể đem theo ta vĩnh viễn, còn tiền bạc mà ta tạo dựng hay dành dụm khi còn sống thì không thể nào đem theo được; như Kinh Pháp Hoa có phẩm Thí Dụ ghi lại câu chuyện ông nhà giàu vì muốn cứu các người con mê muội quây quần chơi giỡn trong nhà lửa nên dùng các thứ xe làm phương tiện để cứu các con thoát chết. Khi các người con được ra khỏi nhà lửa (tam giới) thì người cha bảo đó chỉ là phương tiện để cứu các con mà thôi. Ở nơi đây cũng thế, pháp môn niệm PhậtĐức Phật thuyết giảngphương tiện để cứu vớt chúng sanh ra khỏi luân hồi (tam giới) và về cõi Tịnh. Về sự thực hành thì tôi đề nghị như sau: «mỗi ngày đêm 24 tiếng đồng hồ để lo toan việc đời cũng như ngũ nghĩ, cần để riêng 30 phút hoặc tối hay sáng tùy theo hoàn cảnh, ai đủ thời giờ thì trì niệm cả hai thời sáng và tối càng tốt.Trong nhà thờ Phật Di Đà, sau khi vào kinh tụng tiểu phẩm Di Đà, đến khi hồi hướng thì nguyện con tên…pháp danh…phát nguyện trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà khi xả báo thân này được sanh về tây phương cực lạc thế giới. Lưu ý là nên thực hành đều đặn, không nên hôm làm hôm nghĩ và cần có một xâu chuổi để niệm Phật. Trong kinh còn nhắc nhở rằng tu hành mà không phát nguyện thì khó mong thành tựu đạo quả.

Có 4 phương pháp thực hành:

1/ Trì danh niệm Phật: gìn giữ danh hiệu đức Phật, cũng như suy nghĩ về sự sáng suốt của ngài, vì không niệm Phật thì sẽ niệm chúng sanh. Đây là phương pháp niệm Phật ra tiếng (Sự niệm Phật).
2/ Quán tưởng niệm Phật: quán tưởng hình tượng Đức Phật Di Đà phóng quang mà niệm. Chú ý nên để hình tượng Phật Di Đà trước mặt để niệm Phật (Sự niệm Phật).
3/ Tham cứu niệm Phật: niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật phải tham khảo cứu xét mà niệm. Quan niệm rằng niệm Phậtniệm Tâm, niệm Tâmniệm Phật. Vì Tâm, Phật, cập chúng sanh ba việc đó không có sai khác. Vì không sai khác nên mới tham cứu, niệm từ nơi tâm, tâm ta là Phật. Phật tức tâm, tâm tức Phật. Chính ta có Phật, vì niệm Phật ở ngoài là niệm Phật ở trong (Lý niệm Phật). Ở phần này cho ta thấy không khác sự tham cứu thoại đầuthiền tông, đưa đến kết luận rằng Thiền và Tịnh không khác gì nhau cả. Nếu có khác là do tâm phân biệt của người tu hành mà ra, hễ có tâm phân biệt như thế thì chưa đúng là người tu thiền thật sự. Khi xưa, Bồ tát Khương Tăng Hội, vị Tỵ Tổ của Thiền tông Đông độ cũng như của Việt Nam đã cho rằng giữa thiền và tịnh độ thực ra không có gì khác biệt cả.
4/ Thật tướng niệm Phật: Trong khi niệm Phật quán sát tướng vũ trụ nhân sanh chỉ có một, không có nhiều. Khi còn mê muội thì thấy chúng nóthiên hình vạn trạng (pháp giới trùng trùng duyên khởi), còn khi giác ngộ rồi thì sơn hà đại địa vô thốn thổ. Quán sát tướng chân thật đó, thấy ra tất cả chúng sanh đều như ta không khác - ở đây Đức Phật nói Đồng Thể Đại Bi - người đau khổ tức là mình bị khổ đau. Do đó Bồ Tát Thấy Dân Kêu Ca, Do Vậy Gạt Lệ, Xông Mình Vào Nơi Chính Trị Hà Khắc Để Cứu Dân Khỏi Nạn Lầm Than mà cách đây 2000 năm đã được ghi trong Lục Độ Tập Kinh làm phương pháp hành đạo cứu nước cứu đời của các vị trí thức, nhân sĩ Phật giáo nước ta dùng làm phương châm chống lại sự xâm lăng của người Tàu phương Bắc. Truyền thống này còn lưu truyềnphổ biến cho tới mãi bây giờ. Trở lại phương pháp thứ tư Thật Tướng Niệm Phật cho ta thấy là thượng chí nhất tâm bất loạn, hạ chí thập niệm thành công.

Bồ đề vừa nắm trên tay
Bao nhiêu phiền não trần lao dứt liền
Phật hiệu Di Đà gắng sức tinh chuyên
Luân hồi sanh tử không còn từ đây

Những điều cần lưu ý khi sắp lìa trần.

1/ Trên vấn đề hộ niệm: Thực hành Vô úy thí bằng cách khuyên nhũ nhẹ nhàng người sắp chết đừng suy nghĩ những chuyện thế gian nữa, hãy bỏ hết, chỉ suy nghĩ duy nhất một việc đó là con đường trở về cõi Tịnh của đức Phật A Di Đà. Cần nên nhớ rằng, trước khi sắp chết người bịnh rất yếu về mặt tinh thần giống như con cua bị bỏ trong nồi nước nóng (thí dụ như nghĩ ngợi đủ chuyện, rồi tùy theo tâm niệm lúc đó mà vào địa ngục hay là lên Tịnh độ v.v…). Chúng ta phải dặn những người tới trợ niệm khuyên người bịnh phải dũng mãnh, và luôn nhớ Phật Di Đà.

2/ Cách bày biện trong căn phòng: cần tôn trí một hình Phật A Di Đà đang phóng hào quang tiếp dẫn, nơi để hình Phật khiến cho người bịnh được trông thấy dễ dàng nhằm gia tăng chánh niệm, cũng như hộ niệm dễ dàng.

3/ Hạn chế sự khóc lóc: Trong việc này phải cố gắng kềm chế sự xúc động, vì càng xúc động, càng khóc lóc nhiều sẽ không lợi lạc cho sự hộ niệm, mà ngược lại cản trở cho công cuộc hộ niệm cho người sắp chết cầu sanh Tây phương cực lạc. Trong những tình huống như thế này, theo quan niệm tổng quát, khi thân nhân sắp lìa trần những người còn ở lại khóc lóc thương tiếc nhiều chứng tỏ có sự thâm tình hoặc là có hiếu đối với cha mẹ. Nhưng đối với người tu niệm Phật Di Đà, TUYỆT ĐỐI KHÔNG ĐƯỢC KHÓC, vì khóc sẽ là chướng ngại lớn cũng như làm tiêu tan công đức niệm Phật của người sắp chết. Sau khi hộ niệm xong, người thân đã lìa trần một cách êm ái, lúc đó, hãy ra nơi khác mà khóc mà bày tỏ tình thương. Dù cho người sắp chết suốt đời tu niệm Phật, nhưng lúc lâm chung mà không được hộ niệm một cách tốt đẹp, thì sẽ mai một công đức của họ, thật tiếc vô cùng. Xin hãy thận trọng ở điểm này.

Lợi ích của sự niệm Phật:
1/ Khi niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh để cho tâm hồn chúng ta được sáng suốt; 2/ Niệm Phật tội chướng được tiêu trừ, gia tăng tín tâm với Phật Pháp; 3/ Trì niệm danh hiệu đức Phật Di Đà sẽ được sanh về cõi Tịnh độ, chứng được bậc vô sanh bất thối, sau đó tùy tiện trở lại chốn này hóa độ chúng sanh.

Công đức của việc trì niệm danh hiệu đức Phật Di Đà được ghi lại trong các bộ kinh tiểu bản Di Đà, đại bản Di Đà, Thập Lục Quán, Kinh Hoa Nghiêm v.v… Hội Liên Xã ở Tàu có ngài Huệ Viễn đại sư là người hành trì pháp môn niệm Phật cũng là vị Tổ của pháp môn Tịnh độ, ngài đã biết trước ngày giờ chết của mình trước bảy ngày và thông báo cho đại chúng. Tới ngày thứ bảy, ngài Huệ Viễn ngồi an nhiên thị tịch giữa ba hồi bát nhã tiễn đưa. Tại Việt Nam chúng ta thường đề cập tới trái tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Đức, đây cũng là một minh chứng hùng hồn về sự niệm Phật vãng sanh tịnh độ. Xin kể hầu quý vị liên hữu một câu chuyện vãng sanhchúng tôi được biết. Số là vị Sư tổ của tôi là Hòa thượng…(xin được miễn nêu danh tánh vì sự an toàn của thầy tôi) từ Bình Định vào Sài gòn tu hành ở những năm 30-40. Ngôi chùa mà vị Sư tổ trụ trì, khởi đầu được xây trên một nghĩa trang (sau khi được thỉnh về trụ trì, sư tổ mới biết được điều này), nên hằng đêm thường bị các linh hồn về quấy phá. Có một đêm, Sư tổ trông thấy con quỷ một giò rất lớn hiện lên và đứng nhìn vào chùa. Ngài không chút sợ hãi, đã bình tĩnh niệm Phật Di Đà một hồi lâu thì con quỷ nọ biến mất hẳn từ đó về sau. Nhờ chuyên trì kinh Pháp Hoa cũng như thành tâm niệm Phật Di Đà nên lần lần Phật tử chung quanh về hộ đạo rất đông đảo. Trước ngày thị tịch, Sư tổ bảo với Thầy tôi rằng, vào giờ ngọ trưa mai ta sẽ theo Phật, con ở lại lo liệu mọi chuyện. Quả nhiên như vậy, đúng ngọ ngày hôm sau lúc Sư tổ đang tụng kinh trên chánh điện thì chung quanh tự nhiên thoảng lên mùi hương rất nhẹ nhàng và thanh thoát, thì chính ngay lúc ấy, ngài đã quy Tây phương. Lúc đó thầy của tôi ngồi cạnh vẫn không hay, tay vẫn đều tiếng mõ, đến khi hồi kinh chấm dứt, không thấy Sư tổ đứng dậy lễ Phật thì mới biết đã viên tịch. Sau khi hỏa táng có nhặt được xá lợi, trong đó tôi có giữ một chiếc răng của Sư tổ mà thầy tôi đã cho cách đây hơn 20 năm khi rời khỏi Việt Nam. Chiếc răng xá lợi này hiện tôi vẫn còn tôn thờ cẩn thận.

Thưa quý liên hữu vừa rồi chúng tôi đã trình bày một cách khái quát phương pháp cũng như nguyên nhân mà Đức Từ Phụ của chúng ta đã từ bi ban bố cho chư Phật tử pháp môn niệm Phật Di Đà có một không hai này. Để khỏi phụ lòng của ngài, và cũng để thoát khỏi cảnh khổ sanh tử luân hồi, chúng ta hãy cùng nhau phát nguyện cầu sanh Tây phương cực lạc thế giới của Đức Phật A Di Đà vì :

Ái hà thiên xích lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Dục thoát luân hồi khổ
Tảo cấp niệm Di Đà

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật tác đại chứng minh

Cư sĩ Trúc LâmAn Bình cẩn kính.

Hoằng pháp thị gia vụ
Trí tuệ vi sự nghiệp

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11413)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10495)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10771)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9838)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9520)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12884)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13266)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13435)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19800)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12508)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13209)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13525)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 12991)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12346)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18554)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10672)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12382)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 10971)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11180)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14665)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22550)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11562)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10139)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34502)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17701)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32654)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22064)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11191)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17554)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17135)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10681)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10836)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9551)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10574)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10589)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10544)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12463)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12400)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9956)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13176)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9693)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9105)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11795)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13459)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12045)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11272)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11594)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10313)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10238)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10885)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28182)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10778)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7389)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9316)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11757)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11652)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11083)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10285)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10240)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13792)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14913)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10485)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11879)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10869)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10514)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10630)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9884)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10650)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9281)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 9964)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10165)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10489)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10586)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10512)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10102)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9814)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13513)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16293)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13457)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11519)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11092)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11065)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12164)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15311)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10598)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11680)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10595)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11064)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10002)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10372)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11398)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 10979)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12910)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24342)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12582)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10273)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28617)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19326)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10920)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23292)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant