Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bốn Mươi Ba Công Án Của Trần Thái Tông

08 Tháng Bảy 201408:28(Xem: 8467)
Bốn Mươi Ba Công Án Của Trần Thái Tông

BỐN MƯƠI BA CÔNG ÁN CỦA TRẦN THÁI TÔNG

Nhất Hạnh dịch

Công Phu Khóa Hư Cử Niêm Tụng

Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất giatại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.

Công án thứ nhất

Cử: Thế Tôn chưa rời cung Đâu Suất đã giáng sinh vương cung, chưa ra khỏi mẫu thai đã hoàn tất sự nghiệp cứu độ

Niêm: Gươm kích chưa vung, tướng quân đã để lộ
tung tích.

Tụng: Đứa bé hình hài chưa có ấy
Nửa đêm đưa dắt người đồng hương
Rong chơi khắp biển trời lồng lộng
Không cần phao nổi, không đò giang.

Công án thứ hai

Cử: Thế Tôn khi sơ sinh, một tay chỉ trời một tay chỉ đất: “trên trời dưới đất, duy ta độc tôn”.

Niêm: Một đám bạch vân qua cửa động
Bao nhiêu chim chóc lạc đường về

Tụng: Vì muốn giáng sinh cung Tịnh Phạn
Độ sinh nên phải lộ hành tung
Bảy bước chân đi, trời đất chỉ
Biết bao Phật tử táng gia phong.

Công án thứ ba

Cử: Thế Tôn cầm đóa hoa đưa lên, Ca Diếp mỉm cười.[1]

Niêm: Dương đôi mắt ra mà nhìn: tư duy đàm thuyết phía trước còn cách nghìn dãy núi.

Tụng: Thế Tôn tay nắm một cành hoa
Ca Diếp hôm nay trở lại nhà
Nếu gọi đó là “truyền pháp yếu”
Con đường Nam Bắc hẵng còn xa

Công án thứ tư

Cử: Có nhà triết học ngoại đạo [2] đến tham vấn Phật, nhưng không muốn nghe danh từ hữu cũng không muốn nghe danh từ vô.

Niêm: Trừ là con cái trong nhà ta, còn ai lại dám đi vào chốn ấy nữa.

Tụng: Cửa lao khôn buộc, nào ai biết
Ngôn ngữ mất rồi, níu tựa đâu?
Chẳng phải ngựa hay trên cõi thế
Bỗng dưng sao có được cơ mầu?

Công án thứ năm

Cử: Thế Tôn vừa bước lên pháp tọa, Văn Thù đánh khánh bạch: “Hãy lắng nghe pháp của Pháp Vương: Pháp của Pháp Vương là như thế”.

Niêm: Gẩy khúc Dương Xuân trên chỗ không có tơ đồng, ngàn đời sau âm thanh mãi còn bất tuyệt.

Tụng: Tuy nói nên lời không dấu vết
Sừng dấu đuôi còn để ló ra
Nâng một cành tiêu không có lỗ
Vì ngươi, thổi khúc Thái Bình Ca

Chú thích:

[1]. Ca Diếp, Mahakasyāpa, là một trong mười vị đệ tử của Phật. Một hôm trên đại hội Linh Sơn, Phật cầm một cành hoa nhìn đại chúng không nói năng gì. Tất cả đại chúng đều giữ im lặng. Duy có Ca Diếp mỉm cười. Phật nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay phú chúc cho Ma Ha Ca Diếp”.

[2]. Một nhà triết học ngoại đạo tới hỏi Phật; nhưng không
muốn nghe về hữu mà cũng không muốn nghe về vô. Phật ngồi yên lặng hồi lâu trên pháp tọa, không nói năng gì. Nhà triết học khen ngợi: “Đức Thế Tôn đã phá tan màn mây vô minh khiến cho tôi thấy được chân lý”. Nói rồi làm lễ Phật và rút lui. A Nan hỏi Phật: “Người ngoại đạo đó đã chứng được gì? Tại sao ông ta làm lễ Phật rồi bỏ đi?” Phật nói: “Con ngựa hay chỉ cần thấy bóng của cây roi là đã chạy rồi”.

Công án thứ sáu

Cử: Tần Quốc Vương cầm kiếm gọi Tôn Giả, Tổ thứ 24, hỏi rằng: “Sư chứng được pháp uẩn không chưa?” Tổ nói: “Chứng”. Vua hỏi: “Lìa sinh tử chưa?” Tổ nói: “Lìa”. Vua hỏi: “Có bố thí cho ta đầu Sư được không?” Tổ nói: “Thân còn không phải là của ta, huống là đầu”. Vua bèn chém. Sữa trắng tuôn lên. Tay vua tự rớt xuống.

Niêm: Gươm trắng kề đầu tướng, như chém gió mùa Xuân.

Tụng: Trên nước sáng lòe gươm báu chém
Trở ngại điều kia chẳng có gì
Xin biết hôm nay rời khói sóng
Ai hay riêng lại có tư duy.

Công án thứ bảy

Cử: Đạt Ma đại sư tới Lạc Dương núi Thiếu Thất, chín năm ngồi xoay mặt vào vách.

Niêm: Mở mắt nhìn cho tỏ, đừng có mê ngủ.

Tụng: Chim bằng liệng cánh về Nam Hải
Chỉ uổng công lao vạn dặm đường
Đêm trước vì tham ăn tiệc sướng
Sáng nay say ngủ khó hồi dương.

Công án thứ tám

Cử: Nhị tổ xin Đạt Ma an tâm giùm. Đạt Ma nói:
“Đem tâm tới đây ta an cho”. Nhị tổ đáp: “Tìm tâm mãi không đặng”. Đạt Ma nói: “Thế là ta an tâm cho ngươi rồi”.

Niêm: Đứa trẻ lên ba thì múa trống, ông già tám chục lại chơi cầu.

Tụng: Tâm đã là không, nói với ai?
Hồn nhiên đâu lúc ở bào thai?
Lão tăng nói khoác: “An rồi đó”
Lừa kẻ bàng quan mà không hay.

Công án thứ chín

Cử: Văn Thù thấy một phụ nữ tọa tam muội một bên Phật. Văn Thù đánh thức người ấy mãi không được. Phật bảo Võng Minh đánh thức, Võng Minh đánh thức được ngay.[3]

Niêm: Đứa con oan gia làm tan nát cả gia phong ta.

Tụng: Trước Phật sao còn niệm sơ, thân
Định ấy còn chưa được chính chân
Nếu quả hóa công không hậu bạc
Xuân về, đâu lại chẳng mùa Xuân?

Công án thứ mười

Cử: Mã tổ Đạo Nhất, ba mươi năm sau cơn loạn
Hồ, chưa từng thiếu muối thiếu tương.

Niêm: Dù là không mảy may vi phạm thì cũng còn cầm đũa mà mút ngón tay.

Tụng: Lưu Linh đã lỡ nên bầu bạn
Nhà là quán rượu ngủ quanh năm
Dù tự khoe mình trang hảo hán
Đóng vai mất áo giữa đường chăng?

Công án thứ mười một

Cử: Bách Trượng trở lại tham vấn Mã Tổ. Mã Tổ
hét một cái, Bách Trượng đại ngộ.

Niêm: Chùy ngọn đâm nghìn nhát, không bằng thuổng cùn ấn xuống một nhát.

Tụng: Xưa kia, xe, sách [4] chưa hòa hợp
Bốn bên giặc giã dậy bầy ong
Một lần vung kiếm thiêng trên ngựa
Đường đạo từ nay tin tức thông.

Công án thứ mười hai

Cử: Quốc sư [5] một hôm kêu thị giả ba lần, thị giả dạ ba lần. Quốc sư nói: “Đâu phải là ta phụ ngươi, chính là ngươi phụ ta đó”.

Niêm: Như người uống nước, nóng lạnh tự mình biết.

Tụng: Đôi bên xướng họa vẫn tương đương
So sánh vào đâu biết đoản trường?
Gan ruột đã bày ra tất cả
Lòng ta ta biết, ý ta tường.

Chú thích:

[3]. Khi Văn Thù tới Phật hội thì chư Phật đã tục tục giải tán đi về. Chỉ có một phụ nữ tiến đến gần pháp tọa của đức Thế Tôn rồi ngồi nhập thiền định. Văn Thù liền thưa với Phật: “Tại sao một phụ nữ còn được tiến lại gần pháp tọa của Ngài còn con thì không?” Phật nói: “Ngươi hãy đánh thức người đàn bà này dậy rồi hỏi ngay người đó”. Văn Thù đi quanh ba lần và búng ngón tay. Người đàn bà không xuất định. Văn Thù bay lên trời Phạm Thiên và dùng thần thông kéo người đàn bà đứng dậy. Cũng không thành công. Phật nói: “Dù cho cả trăm ngàn Văn Thù hợp lại cũng không thể đánh thức người đàn bà này. Chỉ có Bồ Tát Võng Minh cách đây hằng hà sa thế giới mới có thể đánh thức được”. Sau đó, Võng Minh xuất hiện từ dưới đất lên và đảnh lễ Phật. Phật ra hiệu cho Võng Minh. Võng Minh búng ngón tay và người đàn bà xuất định. Nên nhớ Văn Thù Bồ Tát tượng trưng cho trí tuệ còn Võng Minh thì trái lại.

[4]. Xe và sách: Sách Trung Dung có câu: “Nay cùng ở dưới gầm trời, xe chung đường, sách chung chữ”. Ý nói: có sự liên lạc thông cảm giữa mọi người trong thiên hạ.

[5]. Huệ Trung Quốc Sư, người Chiết Quang, pháp tử của Lục Tổ Huệ Năng.

Công án thứ mười ba

Cử: Đại Quy nói: “Khái niệm về có và về không như giây leo quấn cây lớn”. Sơ Sơn hỏi: “Cây lớn ngã, giây quấn khô, thì có và không đi về đâu?” Nói rồi cười ha ha.

Niêm: Nước tuy chảy đi nhưng vẫn còn nơi biển cả
Trăng tuy lặn mất nhưng không lìa khỏi bầu trời.

Tụng: Sóng lặng khi nào gió đứng yên
Mất công hướng ngoại luống lao phiền
Một tiếng cười tan nghi vạn mối
Phân thành sỏi ngọc rõ đôi bên.

Công án thứ mười bốn

Cử: Bách Trượng nói: “Thế nào gọi là pháp không vì người mà nói?” Nam Tuyền trả lời: “Không phải tâm, không phải Phật, cũng không phải vật”.

Niêm: Cả ngàn vị thánh đi tìm dấu chân nó cũng không
được; toàn thân nó ẩn tại hư không lớn.

Tụng: Công án là kia, hãy đối đầu Thẳng nhìn vào mặt của cao sâu Nhà Phật lưu mời không chịu ở Đêm đêm thói cũ ngủ bờ lau.

Công án thứ mười lăm

Cử: Nam Tuyền nói: “Tâm không phải là Phật, trí không phải là đạo”.

Niêm: Hô hấp tất cả lý lẽ huyền vi, trên đường về bước dưới ánh trăng.

Tụng: Vạn tiếng âm thầm tinh tú chuyển
Thái hư trầm lặng không vết gì
Nương gậy lên lần trông bốn phía
Tịch tịch liêu liêu nào ngại chi?

Công án thứ mười sáu

Cử: Lâm Tế sau khi xuất thế, chỉ dùng có phép bổng yết để khai thị đồ chúng. Hễ thấy một vị tăng nào vào cửa là hét.

Niêm: Giữa trưa mồng năm tháng năm, miệng lưỡi
độc địa tiêu trừ sạch hết.

Tụng: Vừa tới cửa ngoài nghe tiếng hét
Tỉnh giấc hôn trầm lũ cháu con
Một tiếng sấm Xuân vừa chấn động
Khắp nơi cây cỏ nẩy mầm non.

Công án thứ mười bảy

Cử: Nam Tuyền nói: “Bình thường tâm thị đạo”.[6]

Niêm: Lạnh thì nói rằng lạnh, nóng thì nói rằng nóng.

Tụng: Ngọc trắng nguyên lai không tội trạng
Cứ gì mài giũa mới là xinh
Quê cũ không do đường lối ấy
Núi dốc buông tay, phó mặc mình.

Công án thứ mười tám

Cử: Triệu Châu nói: “Các người bị hăm bốn giờ trong một ngày sai sử, ta đây sai sử hăm bốn giờ trong một ngày”.

Niêm: Cậy thế khinh người, không căn cứ trên căn bản nào cả.

Tụng: Rồng thiêng cọp dữ nên thuần thục
Hăm bốn giờ vâng phép một ngày Biến sắt thành vàng dù phép lạ
Ai đem tiết lộ cho người hay ?

Công án thứ mười chín

Cử: Có vị tăng hỏi Lâm Tế: “Thế nào là vô vị chân nhân ?” Lâm Tế nói: “Cọng cứt khô”.[7]

Niêm: Bắn chim sẻ thì sợ mất đạn, đập chuột lại sợ dơ gậy.

Tụng: Cứt khô: vô vị chân nhân
Gia phong Phật tử nát bao lần
Kìa kìa chú mục mà quan sát:
Lội biển trâu bùn mất dấu chân.

Chú thích:

[6]. Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: “Đạo là gì?” Nam Tuyền đáp: “Tâm hàng ngày của ta là đạo”. Triệu Châu nói: “Như vậy thì không cần tu hành phải không?” Nam Tuyền nói: “Nếu ngươi có ý định tu hành thế là đạo không còn nữa”. Triệu Châu nói: “Nếu tôi không có ý định, thì làm sao tôi biết đó là đạo?” Nam Tuyền nói: “Đạo không phải ở nơi biết hay là không biết. Nếu nói là biết thì là biết cái gì; đó chỉ là vọng giác. Nếu nói nó là không biết, thì là vô ký mất. Nếu ngươi đạt đến trình độ không còn nghi ngờ gì nữa thì tự nhiên thái hư mở rộng, sự vật dung hợp. Đạo không nằm ở chỗ phân biệt và phê phán phải trái”.

[7]. Lâm Tế Lục: Triệu Châu một hôm khai thị đại chúng: “Các ngươi biết không, có một bậc vô vị chân nhân trên đống thịt đỏ thường hay ra vào ở cái cửa phía trước mặt các ngươi. Các ngươi có biết người ấy là ai không. Nếu không biết thì hỏi ta”. Có một vị tăng hỏi: “Thế nào là vô vị chân nhân?” Triệu Châu liền đánh một gậy và nói: “Vô vị chân nhân là cái cứt khô gì?” Trong bài Phổ Thuyết Sắc Thân ở Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông cũng nhắc đến đề tài Vô Vị Chân Nhân như sau: “Đã mang lấy thân thể này thì bỏ nó đi thật là một chuyện thiên nan vạn nan. Làm sao để không bị thân thể này ràng buộc? Nếu còn bị ràng buộc thì hãy nghe đây:

Vô vị chân nhân thịt đỏ au
Hồng hồng trắng trắng khéo lừa nhau
Ai hay mây cuốn, trời quang tạnh
Hiện rõ bên trời đỉnh núi cao”.

Công án thứ hai mươi

Cử: Triệu Châu nói: “Ta đã khám phá ra được bà giàNgũ Đài Sơn rồi”.[8]

Niêm: Kẻ phạm tội ngũ nghịch nghe sấm, không cho bịt tai.

Tụng: Đài Sơn nháy mắt không còn nữa
Chẳng cần bước mệt vẫn về nhà
Giặc hết, không ai chủ chiến
Gươm báu cần chi phải tuốt ra?

Công án thứ hai mươi mốt

Cử: Triệu Châu nói: “Phật bằng vàng không độ được lò, Phật bằng gỗ không độ được lửa, Phật bằng đất không độ được nước. Phật chân chính ngồi trong nhà”.

Niêm: Sơn là sơn, thủy là thủy. Phật ở đâu?

Tụng: Võng Xuyên [9] cảnh ấy đã thành tranh
Xưa cậy Vương Duy mới đắc danh
Uổng nét đan thanh không chỗ họa
Trời kia trăng sáng gió thơm lành.

Công án thứ hai mươi hai

Cử: Triệu Châu nói: “Ở Thanh Châu, tôi làm được một chiếc áo gai bố nặng tới bảy cân”.[10]

Niêm: Nói củ cải Trấn Châu còn nghe được, nói gai bố Thanh Châu chỉ khiến người ta rầu.[11]

Tụng: Một chiếc áo gai thật dị thường
Rương tre họ Triệu cất sao đương
Cân nhắc từng ly, phân với lượng
Tám chàng họ Mạnh chết không thương

Chú thích:

8. Có một bà già lập quán nước trên đường đi Đài Sơn. Những vị tăng hành cước sau khi uống trà xong thường hỏi: “Đường này đi lên Đài Sơn đây phải không bà cụ?” Bà già đáp: “Cứ đi thẳng lên đấy”. Khi vị tăng vừa đi khỏi vài ba bước là bà già nói thầm: “Cái ông thầy tu a dua này cũng thế”. Việc xảy ra nhiều lần, lọt đến tai Triệu Châu. Triệu Châu nói: “Như vậy để ta thử đi xem sao!” Đến nơi, uống nước xong Triệu Châu hỏi: “Này bà cụ, có phải con đường lên Đài Sơn đây không?” Bà già đáp: “Cứ theo đường ấy là được”. Triệu Châu vừa đi khỏi vài bước, bà cụ lại nói: “à cái ông thầy a dua này, lại cũng đi như thế nữa!” Triệu Châu không nói gì, về nói lại với đại chúng: “Cái bà già ở Đài Sơn ấy hôm nay ta đã khám phá ra tung tích rồi!”

9. Địa danh huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, phong cảnh thanh tú. Vương Duy đời Đường đã vẽ nhiều bức tranh về vùng này.

10. Câu nói này của Triệu Châu là để trả lời câu hỏi của một vị tăng: “Vạn pháp đi về một, một đi về đâu?”

11. Có vị xuất gia hỏi thiền sư Triệu Châu: “Nghe nói Ngài có đích thân gập thiền sư Nam Tuyền, phải không?” Triệu Châu nói: “Ở Trấn Châu củ cải lớn lắm”.

Công án thứ hai mươi ba

Cử: Có vị tăng hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tính không?” Đáp: “Không”. Rồi có kẻ hỏi trở lại câu hỏi đó. Châu đáp: “Có”.

Niêm: Hai lần chọn một lần thi.

Tụng: Trước mặt tùy cơ nói hữu, vô
Lời ra, diệt hết cả quần Hồ
Một đời tự phụ trang anh hán
Rốt cuộc vẫn còn chưa trượng phu.

Công án thứ hai mươi bốn

Cử: Triệu Châu nói: “Chốn có Phật thì không được ở lại; chốn không Phật thì phải vượt qua cho mau”.

Niêm: Nước dồn lại thành vụng, gậy đánh xuống thành vết.

Tụng: Nơi có nơi không đều mất hết
Lời kia rốt cuộc vẫn chưa tròn
Sau bữa niêm hoa, tường thuật lại
Không rời nửa bước tới tây phương.

Công án thứ hai mươi lăm

Cử: Thủ Sơn cầm chiếc gậy tre nói: “Gọi cái này là gậy tre thì sẽ nhận một gậy, mà không gọi nói là gậy tre thì sai trái. Vậy thì gọi nó là cái gì?”[12]

Niêm: Đừng cựa quậy; ai cựa quậy sẽ lảnh đủ ba mươi gậy.

Tụng: Phải trái đôi bên phải rạch ròi
Nói cho minh bạch, đấy là ai?
Tuy là đường rộng thênh thang đó
Vẫn còn lận đận lắm chông gai.

12. Sau đó một vị tăng tên Quy Tỉnh đoạt chiếc gậy, liệng xuống đất nói: “Là cái gì?” Thủ Sơn nói: “Cái ông thầy mù chột”. Nghe câu ấy, Quy Tỉnh đại ngộ.

Công án thứ hai mươi sáu

Cử: Có vị tăng hỏi Động Sơn: “Phật là gì?” Động
Sơn nói: “Ba cân gai trên vách”.

Niêm: Gọi là một vật rốt cũng không đúng.

Tụng: Phật vốn là gì? Xin đáp rõ
Ba cân gai ấy của Động Sơn
Tuy không lặn lội phong trần nữa
Vẫn còn lấy cảnh chỉ bày tâm.[13]

Công án thứ hai mươi bảy

Cử: Có vị tăng hỏi Hiện Tử hòa thượng về ý của Tổ sư từ Tây Vức tới. Hiện nói: “Cái đài bàn cúng rượu trước miễu thờ thần”.

Niêm: Chưa phải sư tử con thì còn chưa miễn chạy theo cục đất.

Tụng: Dứt hết cội nguồn không chỗ tựa
Mượn điều trước mắt gọi chiều sâu
Tổ ý nếu là bàn cúng rượu
Gọi quần là khố được hay sao?

Công án thứ hai mươi tám

Cử: Vô Nghiệp quốc sư nói: “Nếu trên đầu một mũi lông mà quan niệm phân biệt phàm thánh chưa dứt thì vẫn chưa miễn được cái cảnh đi vào thai lừa bụng ngựa”. Bạch Vân Đoan hòa thượng nói: “Thiết sử trên đầu một mũi lông mà quan niệm phân biệt phàm thánh đã dứt, thì cũng vẫn chưa miễn được cái cảnh đi vào thai lừa bụng ngựa kia mà”.

Niêm: Đốt núi thì cọp chạy, khua bụi thì rắn hoảng.

Tụng: Lời nói vẫn còn chưa khí phách
Cần chi đập bụi để xà kinh
Trường An lối cũ đà thông thạo
Thì hỏi thăm chi nữa lộ trình?

Công án thứ hai mươi chín

Cử: Huyền Sa khai thị chúng: “Các vị lão túc nói thường hết lòng tiếp vật độ sinh. Giá có một kẻ vừa mù vừa câm vừa điếc đi tới, làm sao tiếp độ? Cầm chùy đưa phất trần lên thì kẻ kia không thấy, giảng thiền tam muội thì kẻ kia không nghe, dạy đọc kinh thì kẻ kia mở miệng không được”.

Niêm: Khát thì uống, đói thì ăn, lạnh thì choàng áo, nóng thì phẩy quạt.

Tụng: Buồn thì xịu xuống; vui, cười lên
Mũi giọc mày ngang lẽ tự nhiên
Nóng lạnh đói no tùy xử sự
Nghi ngờ chi nữa luống ưu phiền ?

13. Về câu hỏi “Ý của Tổ sư từ Tây Vức lại”. Một hôm Triệu Châu trả lời một vị tăng: “Cây bách ở trước sân”. Vị tăng nói: “Xin hòa thượng đừng lấy cảnh chỉ bày tâm”. Triệu Châu nói: “Lão tăng chưa từng lấy cảnh chỉ bày tâm bao giờ”. Vậy thì thế nào là “Ý của Tổ sư từ Tây Vức lại ?” Triệu Châu nói: “Cây bách ở trước sân”.

Công án thứ ba mươi

Cử: Thoại Nham thường tự gọi: “Này chủ nhân ông! Tỉnh tỉnh dậy! Từ nay về sau đừng để cho người ta khinh khi nữa !”

Niêm: Kêu được thì chỉ chảy máu miệng ra thôi, nào có ích gì đâu. Chẳng bằng ngậm miệng lại mà đợi mùa Xuân tàn.

Tụng: Tài lược trầm cơ đã dụng công
Ngờ đâu chưa đáng mặt anh hùng
Nếu quả tướng tài vô địch thật
Mặt trời bắn thử rớt hay không ?

Công án thứ ba mươi mốt

Cử: Tam Thánh [14] nói: “Ta gặp người thì ra, nhưng chẳng phải là ra vì người”. Hưng Hóa nói: “Ta gặp người thì không ra, nếu ra là vì người mà ra”.

Niêm: Một con rùa mù làm bạn với hai con ba ba què.

Tụng: Khi khát nào ai uống nước tương
Cả ngày bụng lép, nói “ăn” suông
Dao sắc đôi chiều, đừng liếm mật
Có ngày đứt lưỡi, chớ khinh thường.

Công án thứ ba mươi hai

Cử: Nam Tuyền thấy Đặng Ẩn Phong tới, liền chỉ vào tịnh bình mà nói: “Tịnh bình là cảnh, ông không nên dính vào cảnh”.

Niêm: Nói rằng có cảnh, nhưng dính vào đâu ?

Tụng: Gương trong thanh tịnh, bụi đâu ra,
Lau rửa mà chi nhọc sức ta
Nhàn tịnh vui theo từng cảnh giới
Cơm xong hãy uống một chung trà.

[14]. Tam Thánh: tên chữ và cũng là danh hiệu của thiền sư Tuệ Nhiên, môn đệ thiền sư Lâm Tế, người biên chép Lâm Tế Lục

Công án thứ ba mươi ba

Cử: Thạch Đầu nói: “Như vậy cũng không được, không như vậy cũng không được, vừa như vậy vừa không như vậy cũng không được”.

Niêm: Chư hạnh vô thường, tất cả đều chứa chấp khổ não.

Tụng: Muốn kể cho người câu chuyện hay
Hiềm vì cửa động đám mây bay
Dù có tài tình trong lúc nói
Vạn dặm còn xa ý chỉ này.

Công án thứ ba mươi tư

Cử: Có vị tăng hỏi: “Cảnh giới Giáp Sơn thế nào?” Sơn đáp: “Sau khi vượn mẹ ôm con về rừng xanh, hoa rụng tơi bời nơi thung lũng biếc”.

Niêm: Đem theo cây gậy, gặp sân khấu ở đâu thì múa chơi ở đó.

Tụng: Giáp Sơn u tịch không ai tới,
Ai thấy cho tường cảnh giới xa?
Gặp bậc siêu phàm đôi mắt tuệ
Thì nghe trống ngọ giữa canh ba.

Công án thứ ba mươi lăm

Cử: Có vị tăng hỏi Mục Châu: “Trong một hơi thở, có thể thông qua một đại tạng kinh không ?” Châu nói: “Có anh chàng bán bánh Tất La [15] thì dắt tới đây mau”.

Niêm: Buông xuôi hai tay mà về được tới nhà, không cần bước mỏi.

Tụng: Kinh tạng chuyển hồi trong hơi thở
Tìm cành nhặt lá để làm chi
Diệu nghĩa thâm uyên đà hiện sáng
Tham vấn sơn tăng được ích gì ?

Công án thứ ba mươi sáu

Cử: Trong một kỳ chúng hội dưới sự chủ tọa của Lâm Tế, cả hai vị thủ tọa của hai thiền đường đồng thời hét lớn. Có vị tăng hỏi: “Như thế còn có chủ khách nữa thôi ?” Lâm Tế nói: “Thì chủ khách rõ ràng đó”.

Niêm: Cũng chỉ là khỉ bạch nói lăng nhăng.

Tụng: Phật tại trời cao reo tiếng gió
Ý sâu công án thế mà thôi
Cũng nhờ phân được rành cương giới
Mới hiểu lòng dân giúp đỡ đời.

15. Tất La là một thứ bánh. Sách Tây Dương Tạp Trở kể chuyện có người nằm mơ vào ăn bánh Tất La trong quán, đến khi tỉnh dậy anh chàng bán quán tới nhà nói: “Ông là khách vào quán ăn hết hai cân bánh Tất La sao chưa trả tiền mà lại bỏ đi ?”

Công án thứ ba mươi bảy

Cử: Huyền Sa nói: “Ta cũng như chủ nhân một thửa ruộng, đem cắt bán hết cho người khác, duy còn lại một cái cây ngay giữa trung tâm, ta giữ trong quyền sở hữu của ta”.

Niêm: Biển lớn không dung nạp tử thi.

Tụng: Nếu quả là người chân liễu ngộ
Thì tâm vô niệm hết phân vân
Dù xem vàng vạc như hơi bụi
Mắt vẫn còn rơi một mảy trần.

Công án thứ ba mươi tám

Cử: Có vị tăng hỏi Thiền Sư Huệ Tư về đại ý Phật pháp. Tư nói: “Gạo ở Lư Lăng giá bao nhiêu?”

Niêm: Bóng trúc quét thềm, bụi trên thềm không lay động
Vầng trăng chiếu nước, mặt nước không vết ghi.

Tụng: Ngữ khí quả là trang hảo hán
Tùy theo căn tính độ quần sinh Lư Lăng giá gạo bao nhiêu nhỉ?
Rút lại gang tay vạn lý trình.

Công án thứ ba mươi chín

Cử: Có vị tăng hỏi Văn Thù [16]: “Vạn pháp đi về một, một đi về đâu?”
Thù nói: “Sông Hoàng Hà chín khúc”.

Niêm: Có lúc vì trăng sáng quá, chẳng biết rằng thuyền đã vượt quá Thương Châu.

Tụng: Chín khúc sông Hoàng khai tuệ nhãn
Đường xa không bước vẫn về nhà
Mở mắt bao lần quan sát lưới
Không dè chim hạc đã bay qua!

Công án thứ bốn mươi
Cử:
Nam Tuyền hỏi Triệu Châu: “Chú là sa di có chủ hay sa di chưa có chủ?” Triệu Châu nói: “Có chủ”. Nam Tuyền hỏi: “Chủ là ai?” Triệu Châu chấp tay trước ngực nói: “Hôm nay trời lạnh, mong hòa thượng giây phút nào cũng có hạnh phúc”.[17]

Niêm: Khéo tay thì dùi cũng như kim.
Kẻ khéo sử dụng thì vẫn thấy tiện lợi.

Tụng: Chú Triệu chấp tay mà nói khéo Né hai thái cực, đứng trung dung Đâu biết Hoa Lam Hàn lệnh thuật Nào hay chàng Hội rút về không?

Công án thứ bốn mươi mốt

Cử: Có vị tăng hỏi Một Am: “Thế nào là nạp y hạ
sự?”[18] Am nói: “Kim đâm không thủng”.

Niêm: Tĩnh tọa không còn một mảy bụi, hư không chẳng có lối thông thương.

Tụng: Mũi sắt dùi đồng xuyên chẳng thủng
Cầm lên mềm mại như bông tơ
Hư không lành lặn không khe hở
Đêm về hoa mộc nở thơm tho.

Công án thứ bốn mươi hai

Cử: Bàng cư sĩ [19] tuyên bố:
“Đây là trường thi tuyển Phật, ai tâm không thì trúng tuyển vinh quy”.

Niêm: Danh đề tháp nhạn, không cho nạp quyển trắng đâu nhé.20

Tụng: Lông chim mà kết được giày rơm
Tuyển Phật trường kia vượt vũ môn
Nếu nói tâm không thì trúng tuyển
Coi chừng bầm tím vết roi đòn.

Công án thứ bốn mươi ba

Cử: Từ Minh hỏi Chân Điểm Trụ: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Chân nói: “Không có mây sinh trên đỉnh núi mà có mặt trăng rụng trong lòng sóng nước”. Minh hét: “Đầu bạc răng long mà còn có kiến giải tệ như thế ư?” Chân khóc một hồi rồi nói: “Như thế tôi quả thật chẳng biết thế nào là đại ý Phật pháp”. Từ Minh nói: “Không có mây sinh trên đỉnh núi mà có mặt trăng rụng trong lòng sóng nước”. Chân bèn đại ngộ.

Niêm: Kẻ nhàn giả thì cho đó là nhàn, kẻ trí giả thì cho đó là trí.

Tụng: Đây đó cùng chung một điệu đàn
Lòng xin trao gửi với tri âm
Non cao sông rộng dù sai khác
Trăng sáng mây quang nghĩ đại đồng.

Chú thích:

16. Văn Thù Viên Minh, người Phúc Châu. Sau khi đắc pháp đi du hành tại Ngũ Đài Sơn cảm thụ được sự hóa hiện của Văn Thù Bồ Tát, nên ở lại lập Văn Thù Viện. Sống tới 136 tuổi.

17. Bích Nham tập

18. Chiếc áo tầm thường của tăng sĩ kết lại bằng nhiều mảnh vải vụn.

19. Bàng cư sĩ, tên là Bàng Uẩn người Hồ Nam, tinh thâm
Nho học, quy y Phật pháp, tham học với Thạch Đầu hòa thượng.

20. Bất dung duệ bạch: không được nộp quyển trắng. Quyển
trắng là quyển của thí sinh không làm được bài nào.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31581)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10510)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11207)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12724)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10795)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16620)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10798)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12002)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11478)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10669)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12318)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10001)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10316)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11897)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10687)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12354)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9791)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11244)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13825)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9571)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12610)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9684)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10443)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10538)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10297)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9883)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11041)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11997)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10133)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9531)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9885)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8757)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9487)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14504)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8766)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12540)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10404)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9061)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10547)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9322)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8780)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10494)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9172)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8347)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12009)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9688)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10219)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19111)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9390)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8963)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9572)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9011)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14730)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10073)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8339)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8934)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8958)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8730)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9356)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14573)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9025)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8752)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9027)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10514)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8627)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24255)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10155)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11008)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8989)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9456)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7995)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9232)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15330)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10324)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9560)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21361)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12147)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10223)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19214)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26006)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7966)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14745)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10618)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9525)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18631)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12338)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11864)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10729)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13324)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15864)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant