Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nhân Duyên Phát Khởi Niệm Phật

30 Tháng Giêng 201520:20(Xem: 8940)
Nhân Duyên Phát Khởi Niệm Phật


NHÂN DUYÊN PHÁT KHỞI NIỆM PHẬT

Tác giả: Pháp Sư Viên Anh

Thích Nguyên Anh biên dịch


anh_dep_Phat_Giao___83_Đại sư Liên Trì nói rằng: “Một niệm siêu ba cõi, một lời ngang với Thánh hiền, thật là diệu dụng bất khả tư nghị, điều ấy chỉ có trong kinh A Di Đà mà thôi vậy!”. Kinh này là nhân duyên phát khởi pháp môn trì danh niệm Phật. Đức Thích Ca Mâu Ni quán thấy hết thảy chúng sinh vốn xưa nay là Phật, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, chỉ vì vọng tưởng vô minh che đậy nên không thể thấy được tự tánh Như Lai; tuy bị mê mờ, luân hồi trong ba cõi sáu đường nhưng Phật tánh vốn có ấy vẫn không bị mất đi.

Như kho bảo châu chôn ở trong nhà, viên minh châu buộc trong chéo áo chưa từng tán mất. Cho nên Đức Phật chỉ bày pháp môn niệm Phật là muốn khiến cho hết thảy chúng sinh phát tâm niệm Phật, mà ngộ nhập được tri kiến Phật vốn có ấy.

Các Đức Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên là “khai thị cho chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật”. Trong Kinh Pháp Hoa, Phật bảo với ngài Xá Lợi Phất rằng: “Này Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là chư Phật Thế Tôn, vì một nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời? Chư Phật Thế Tôn muốn cho hết thảy chúng sinh khai tri kiến Phật, đắc thanh tịnh giải thoáthiện ra nơi đời; muốn chỉ cho chúng sinh thấy tri kiến Phậtxuất hiện nơi đời; muốn cho chúng sinh ngộ tri kiến Phậtxuất hiện nơi đời; muốn cho chúng sinh nhập tri kiến Phậtxuất hiện nơi đời”. Tri kiến Phật tức là Bồ đề tứ trí (Thành sở tác trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tánh trí, Đại viên cảnh trí) của chư Phật, cũng tức là ba đức (Pháp thân, Niết bàn, Giải thoát) đang ẩn tàng trong chúng sinh. Chư Phật ngộ Phật tri kiếnthành đẳng chánh giác; chúng sinh vì mê nên phải luân hồi trong sinh tử. Nên biết mê và ngộ tuy có khác nhau nhưng Phật và chúng sinh xưa nay bình đẳng. Kinh Kim Cang nói rằng: “Pháp bình đẳng ấy không có cao thấp”. Tức là: Chúng sinh vốn đầy đủ tri kiến Phật bằng chư Phật không khác.

Hai chữ “tri kiến” là nói theo căn tánh. Căn tánh tức là Phật tánh. Tánh này thường ở đầu cửa sáu căn; ở mắt thời gọi là thấy, ở tai thời gọi là nghe, ở mũi thời ngửi, ở lưỡi thời nếm, ở thân thời xúc chạm (cảm giác), ở ý thời gọi là biết, nay chỉ đưa ra ý cănnhãn căn nên gọi là tri kiến (thấy biết), thật ra thì sáu tánh này chỉ là một tánh. Như Kinh Lăng Nghiêm nói, vốn chỉ là một tinh minh nhưng phân thành sáu hòa hợp. “Cái biết” của Phật là thật biết, không có cái gì mà chẳng biết; “cái thấy” của Phật là thật thấy, không có cái gì mà chẳng thấy. Nay chúng sinh do mê lầm nơi vọng tưởng chấp trước nên cái thấy biết trở thành vọng kiến vọng tri (không phải là cái thấy biết chân thật). Cổ đức có nói rằng: “Biết bao con chim đã mê lầm lót ổ trên một đám mây trắng giăng ngang miệng vực”. Nên biết vọng niệm không có tự tánh, toàn thể tức chân, Phật vì chúng sinh mà khai mở, mà chỉ thị khiến chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật, như chỉ cho biết trong nhà vốn đã có kho báu, viên minh châu vốn có sẵn trong chéo áo, hà tất cầu tìm.

Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện, thành tựu tự tánh Di Đàhoàn thành giai đoạn nhân duyên xuất thế này.

Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này. Thấy căn tánh của chúng sinh chỉ có tu trì theo pháp môn niệm Phật này, là pháp môn dễ nhất, lại dễ đắc độ, nên không ai đặt vấn đề mà tự thân thuyết (vô vấn tự thuyết), đó là cuốn Kinh A Di Đàchúng ta trì tụng hằng ngày. Ngài tự nói cho Xá Lợi Phất biết rằng: “Từ đây hướng về phía Tây trải qua 100.000 ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực lạc, nước Cực lạc ấy có Phật hiệuA Di Đà hiện đang thuyết pháp”. Cực lạcy báo, Di Đàchánh báo. Vì để muôn đời trì danh hiệu Phật nên Đức Thích Ca đã nói ra pháp môn vi diệu này. Pháp môn này thượng, trung, hạ căn đều có thể hành trì, tứ sinh lục đạo đều được siêu thoát, lợi ích của nó thật là không thể nghĩ bàn vậy.

Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật giải thích hai chữ “Cực lạc” rằng: “Xá Lợi Phất! Nước ấy vì sao có tên là Cực lạc? Vì những chúng sinh sinh về nước ấy không có các khổ não, chỉ có an vui, cầu gì được nấy nên gọi Cực lạc”. Trên đây là nói rõ các thứ trang nghiêm y báo chánh báo của cõi Tây phương, hầu phát khởi tín ngưỡng của chúng sinh; thứ đến là khuyến cáo chúng sinh mỗi người hãy nên phát nguyện, nguyện cầu vãng sinh Tây phương Cực lạc. Kinh rằng: “Này Xá Lợi Phất! Khi chúng sinh nghe đến cõi nước Cực lạc hãy nên phát nguyện sinh về nước ấy. Vì sao? Vì được ở cùng chư thiện tri thức”. Cuối cùngchí thành khuyên bảo nên trì danh hiệu Phật A Di Đà để được nhất tâm bất loạn. Kinh rằng: “Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tín nữ nghe nói đến Phật A Di Đàchấp trì danh hiệu hoặc một ngày, hai ngày... cho đến bảy ngày được nhất tâm bất loạn thời người ấy lúc lâm chung được Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng tay nâng kim đài hiện ra trước mặt, người ấy lúc lâm chung tâm không điên đảo tức được vãng sinh về thế giới Cực lạc”.

Như những điều đã dẫn trên đây thì cốt yếu của Kinh A Di ĐàĐức Phật muốn khuyến phát tín nguyện hạnh. Người tu pháp môn niệm Phật nên lấy tín nguyện hạnh để làm tư lương cho lộ trình vãng sinh nước Cực lạc. Nếu như đầy đủ được ba món tư lương này thì chắc chắn hành giả được lên ngôi cửu phẩm. Nên biết: Có vãng sinh được hay không hoàn toàn đều do nơi hành giả có hay không có tín nguyện; phẩm vị cao thấp là do ở chỗ hành trì cạn hay sâu. Tín nguyện hạnh này như đỉnh ba chân, thiếu một thời không đứng được. Tôi thường khuyến khích mọi người nên tu trì pháp môn Tịnh độ, đối với ba món tư lương này, mỗi món thêm một chữ, gọi là: Tín tất phải thâm tín (tin sâu); nguyện tất phải thiết nguyện (nguyện thiết tha); hành tất phải thật hành.

Nếu được như thế thì chắc chắn cầm chiếc vé vãng sinh Tây phương Cực lạc.

I. Tin sâu, sơ lược có bốn:

1/ Tin Đức Thích Ca Như Lai đã viên mãn tam giác (tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn), tứ trí.

2/ Tin cõi Tây phương Cực lạc là thực có, do Đức Phật A Di Đà đại từ đại bi làm giáo chủ, lúc còn ở nhân địa tu hành đã phát đại 48 hoằng thệ nguyện, nguyện sau khi tinh cần tu vạn hạnh thành tựu được công đức trang nghiêm chứ không phải là hư ảo.

3/ Tin chư Phật ở sáu phương đều xuất ra tướng lưỡi dài rộng che khắp tam thiên đại thiên thế giới tán thán pháp môn Tịnh độ, là công đức không thể nghĩ bàn. Chư lịch đại Thánh hiền hoằng dương pháp môn Tịnh độtu hành bằng con đường tắt trong các con đường tắt, cho đến muôn kinh vạn luận nơi đâu cũng chỉ rõ ràng. Thánh hiền xưa nay ai ai cũng đề xướng pháp môn Tịnh độ, quyết định là những lời chân thật không phải dối lừa.

4/ Tin rằng cõi Ta bà ngũ trược là do chiêu cảm ác nghiệp của chúng sinh; cõi Cực lạc thanh tịnh sạch đẹp, thành tựu do những tịnh nghiệp của chúng sinh. Niệm Phật được thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý, khi tịnh nghiệp đã thành thì vãng sinh Tịnh độphù hợp với nhân quả chớ không phải là hư cuống. Quả thật lúc đầy đủ bốn niềm tin này thì cho dù ai đó nói có pháp môn nào đó siêu việt hơn, khuyên ta tín ngưỡng ta cũng không đổi ý. Bởi vì ta đã tin tưởng vào pháp môn niệm Phậtpháp môn tối thắng hơn hết, đây chính là tin sâu.

II. Nguyện thiết tha, lược có bốn loại:

1.- Nguyện không phụ tánh linh của mình. Tánh này là Phật tánh tự nhiên mà mỗi chúng sinh đều có đủ. Chỉ vì do phiền não mê lầm, kết nghiệp trói buộc mà phải luân hồi trong biển khổ sinh tử. Nay may mắn được sinh làm người, được nghe Phật pháp, lại được nghe đến danh hiệu Phật A Di Đà, công đức bổn nguyện tín ngưỡng sâu xa nên tự phát nguyện, nguyện suốt đời thọ trì pháp môn niệm Phật để cầu liễu sinh thoát tử, cầu vãng sinh Tịnh độ, cầu thành Phật đạo để không cô phụ tánh linh.

2.- Nguyện ly khổ đắc lạc. Chúng ta theo nghiệp mà sinh vào thế giới Ta bà năm trược này, bị các khổ, tam khổ, bát khổ, vô lượng chúng khổ nói không cùng tận. Nay thử đem Ta bà, Cực lạc so sánh. Ta bàtam khổ: 1/ Khổ khổ; tức là chúng sinh trong năm đường (ngũ thú chúng sinh) chịu thân sinh tử này đã là khổ mà lại còn phải chịu bao nhiêu cái khổ bức bách nên gọi là khổ khổ (cái khổ này chồng lên cái khổ kia). 2/ Hoại khổ; từ trời Lục Dục cho đến trời Tam Thiền tuy có lạc thọ, nhưng cái lạc ấy không trường cửu, rốt cuộc cũng bị tán hoại nên gọi hoại khổ. 3/ Hành khổ; từ trời Tứ Thiền trở lên tuy không còn khổ lạc nhưng vẫn phải bị hành ấm thiên lưu, chưa đắc tự tại giải thoát, lúc hết quả báo cõi trời thì vẫn phải bị đọa lạc nên gọi hành khổ. Và chúng sinh ở cõi Cực lạc chỉ thọ những sự thư thái an vui của thân tâm mà không có khổ khổ; chỉ thọ những sự an vui của chánh báo trang nghiêm mà không có hoại khổ; chỉ thọ những sự an vui của tam muội tịch diệt mà không có hành khổ.

Lại thế giới Ta bà có tám khổ: 1/ sinh là khổ, 2/ già là khổ, 3/ bệnh là khổ, 4/ chết là khổ, 5/ thương yêu mà phải xa lìa là khổ, 6/ ghét nhau mà phải ở cùng là khổ, 7/ mong cầu không được là khổ, 8/ năm ấm không hòa hợp là khổ. Và chúng sinh ở cõi Cực lạc thì chỉ có cái vui hóa sinh hoa sen mà không có cái khổ của thai sinh; chỉ có niềm vui của tướng đẹp sáng ngời mà không có cái khổ của sự suy thoái vì thời gian; chỉ có niềm vui tự tại mà không có cái khổ của bệnh tật; chỉ có niềm vui của sự thọ mạng mà không có cái khổ của tứ đại phân ly; chỉ có niềm vui của sự đoàn tụ mà không có cái khổ của sự thương yêu mà phải xa lìa; chỉ có cái vui của sự thương yêu mà không có cái khổ của sự oán ghét mà phải sống chung; chỉ có niềm vui của sự cầu gì được nấy mà không có cái khổ dục bất như ý; chỉ có niềm vui của năm ấm được điều hòa mà không có sự khổ lúc phiền não bừng lên. Hai cõi một uế một tịnh, khổ lạc khác nhau trời vực nên thiết nguyện vãng sinh ly khổ đắc lạc.

3.- Nguyện mau được lên ngôi cửu phẩm không còn thoái chuyển. Tu hànhcõi Ta bà này khó tiến mà lại rất dễ thoái thất, là vì hoàn cảnh xấu ác, duyên chướng đạo nhiều, duyên trợ đạo ít. Hoặc ban đầu thì tinh tấn sau lại giải đãi, hoặc là công hạnh chưa thành, khi duyên đời hết đổi báo thân khác không nhớ việc tu hành đời trước nên không thể tiếp tục, đời sau lại tạo nghiệp mới ắt phải thoái đọa. Những khó khăn của sự tu hànhcõi Ta bà, như Bồ Tátquả vị thập tín, đã phát đại tâm mà còn tiến lên thoái xuống huống hồ phàm phu. Có tín tâm tu hành phải trải qua một vạn kiếp, khi tín tâm đầy đủ, thiện căn thành thục mới chứng được sơ trụ (một trong thập trụ), được quả vị bất thoái. Và pháp môn niệm Phật vừa được vãng sinh là chứng liền tam bất thoái (vị bất thoái, hành bất thoái, niệm bất thoái). Kinh A Di Đà nói rằng: “Những chúng sinh được sinh lên Cực lạc đều là A bệ bạt trí (bất thoái địa) nên quyết định cầu vãng sinh Tịnh độ, nguyện chứng bất thoái chuyển.

4.- Nguyện chính mắt thấy Phật A Di Đà. Bởi vì khó mà tự thân thấy được chư Phật xuất thế, thí như hoa Ưu đàm, 3000 năm mới nở một lần. Người xưa than thở: “Lúc Phật xuất thế con còn trầm luân, nay được thân người Phật đã diệt độ; hận cho thân này nhiều nghiệp chướng, không thấy được thân sắc vàng của Như Lai”. Chúng ta sinh nhằm vào thời mạt pháp, Phật Thích Ca đã diệt độ, Phật Di Lặc lại chưa sinh nên muốn tự thân thấy Phật nghe pháp thật là việc khó vô cùng. Thí như đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa đáng thương biết bao, đã không cha mẹ lại thêm nghèo đói thì cuộc đời cô độc của nó nguy hiểm đến thế nào? Nay ở thế giới Cực lạc Đức A Di Đà từ tôn đang thuyết pháp, thương nhớ chúng sinh như mẹ thương con. Chúng ta quyết tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, nguyện thấy Phật A Di Đà, cho dù trải qua kiếp số nhiều như cát bụi nguyện này không bao giờ thay đổi. Cho dù lúc lâm chung hoặc trời Đế Thích tiếp dẫn ta lên cõi trời Đao Lợi, hoặc vua trời Đại Phạm đón rước ta sinh lên cõi trời Sơ thiền ta cũng nhất định không đi, huống gì là những đường ác thú khác.

Lại nữa, không những chỉ nguyện sinh Tây phương mà thôi đâu, ta còn phải nguyện sinh lên thượng phẩm thượng sinh, mong được đài vàng để sớm thấy Phật, mau chứng vô sinh pháp nhẫn. Như Đại sư Hoài Ngọc chỉ chuyên tu tịnh nghiệp. Một ngày nọ, ngài thấy Phật A Di Đà hiện thân, trên không trung phát ra muôn tiếng nhạc, Phật A Di Đà tay cầm đài bạc đến tiếp dẫn, Hoài Ngọc nghĩ: Ta một đời tinh tấn tu hành cốt chí tâm ở đài vàng, nay chỉ được đài bạc ta quyết không vãng sinh. Suy nghĩ thế xong thì thấy Đức A Di Đà từ từ bay về hương Tây biến mất. Từ ấy trở đi Hoài Ngọc càng thêm tinh tấn, ngày 21, Phật cùng chư Bồ Tát lại hiện khắp cả hư không, đức A Di Đà lần này tay cầm đài vàng đến tiếp dẫn. Ngọc nghĩ: Nguyện ta đã trọn vậy. Bèn chắp tay hướng về phía Tây thị tịch, lúc ấy trong không trung phát ra muôn ngàn âm nhạc. Thái Thủ Tụng nói rằng: “Thầy tôi một niệm lên sơ địa, trăm ngàn khí nhạc thảy đồng ca; cây hòe cổ thụ nơi đầu ngõ, trên cành có quải một kim đài”. Chính như Quang Minh Thiện Đạo cũng có nói rằng: “Nguyện ngươi thế nào, thì được thành tựu như thế ấy”.

Sức nguyện lực thật không thể nghĩ bàn. Các thứ trang nghiêm của thế giới Tây phương Cực lạc đều do nguyện lực của Đức Phật A Di Đàthành tựu. Nếu niệm Phật có tín mà không nguyện thì tín ấy chỉ là hư tín. Cho nên, có niềm tin rồi còn cần phải phát nguyện. Phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện lấy mười đại nguyện vương làm tư lương cho lộ trình đi về Cực lạc. Lại nữa, Bồ Tát Phổ Hiền còn phát kệ thệ nguyện rằng: “Nguyện cho tôi khi sắp lâm chung, trừ sạch hết thảy bao chướng ngại; tận mắt thấy Phật A Di Đà, tức được vãng sinh nước Cực lạc”. Là những người tu trì pháp môn Tịnh độ, nguyện ấy không thể không khẩn thiết.

III. Thực hành, hành tức là trì danh hiệu Phật, chuyên tu Tịnh độ.

Hành ấy quý ở chỗ chân thật, nếu có tín, nguyện mà không có thực hành thì vẫn không được vãng sinh thế giới Cực lạc. Thí như tin (tín) vào hạt giống có thể cho hoa kết trái, rồi cũng mong (nguyện) hạt giống ấy cho hoa thơm trái ngọt nhưng lại không gieo xuống đất, không chăm sóc tưới tẩm (không thực hành) thì tất nhiên là không thể có quả để thu hoạch. Cũng như thế, niệm Phật phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh, thiếu một thời không thể được. Hạnh có hai loại:

1.- Sự hành: Là dùng cái tâm năng niệm, niệm Phật sở niệm, năng sở rõ ràng, tâm, Phật tương ưng, tâm không rời Phật, Phật không rời tâm, niệm niệm tương tục không gián đoạn, đi, đứng, nằm, ngồi không rời câu “Nam mô A Di Đà Phật”, không khởi vọng tưởng. Tâm như hồ nước trong lắng không chút gợn sóng, Phật như trăng mùa thu vằng vặc trên trời, trạm nhiên bất động, đó là niệm Phật bằng sự hành.

2.- Lý hành: Tức là rõ lý trung đạohành pháp tu niệm Phật. Nghe nói pháp môn niệm Phật rồi tin theo không chút mảy may nghi ngờ, nguyện vãng sinh Cực lạc, chuyên tu tịnh nghiệp, không trụ ở có, không rơi vào không, niệm mà không thấy có niệm, không thấy ta là người niệm, Phật là người được niệm. Niệm Phật đến lúc không còn năng sở thì tâm, Phật nhất như, tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, không có hai tướng cũng không thể tìm ở có không. Nếu nói là có thì cái tâm năng niệm bản thể vốn vắng lặng, Phật sở niệm tướng bất khả cầu. Nếu nói là không thì cái tâm năng niệm linh thông chưa từng bị hôn tối, Phật sở niệm sáng rỡ muôn đời. Không còn có tướng có không mà trở về với thật tướng. Cổ đức nói kệ rằng: “Bỗng nhiên khởi niệm niệm Di Đà, đất bằng không gió dậy phong ba; thân tâm yên lặng trong vô niệm, khởi lên (biết) không niệm cũng là tà”. Đây không chuyên tu sự tướng mà là thuần tu lý quán, sức quán thành tựu thì sẽ biết rõ tâm, Phật tuy có hai tên gọi nhưng bản thể chỉ là một, thấy được tự tánh Di Đà, tâm hồn trong lắng thì đó là niệm Phật lý hành.

Tín nguyện hạnh là ba món tư lương của hành giả trên con đường đi đến Cực lạc. Đã chuẩn bị đầy đủ tư lương thì vấn đề vãng sinh nào còn có khó gì? Đã vãng sinh Cực lạc thì không còn khổ não, siêu vượt tam giới. Vì thế nên Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì chúng sinh mà tự nói ra Kinh A Di Đà để làm nhân duyên phát khởi niệm Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10500)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10116)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20336)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11620)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13759)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19059)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46669)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12069)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11634)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23019)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17815)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10124)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17713)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13900)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14018)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15092)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20246)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18234)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17352)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18145)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12686)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12804)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13388)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 16980)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11453)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18252)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18556)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21328)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22096)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16826)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12544)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15309)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24539)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14205)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11609)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19644)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13392)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22775)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18977)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18436)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21588)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20507)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19990)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14035)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14985)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13777)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15090)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17210)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15264)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12795)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15854)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12953)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13115)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15008)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22601)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7126)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19323)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37618)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9139)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8634)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17850)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14843)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27000)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19896)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15238)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15464)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26759)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14552)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19660)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14607)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18627)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15903)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16328)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19333)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19708)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19878)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18585)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29773)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14547)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17732)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32379)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15242)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17275)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29718)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31470)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64657)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32761)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20189)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18490)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30768)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19889)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45867)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32553)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39302)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40394)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50068)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19079)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18526)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20671)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19387)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant