Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Khổ Đau Và Con Đường Giác Ngộ Vượt Thoát Trong Thiền Tông

08 Tháng Hai 201507:50(Xem: 9540)
Ý Nghĩa Khổ Đau Và Con Đường Giác Ngộ Vượt Thoát Trong Thiền Tông
Ý NGHĨA KHỔ ĐAU
CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ VƯỢT THOÁT
TRONG THIỀN TÔNG

Như Hùng



Thien Tong" Làm thinh như Chánh Pháp
Nói năng như Chánh Pháp"

1, Từ hiện tượng nầy sanh hiện tượng khác

Những đau khổ nào mà con người còn diễn tả được, còn quan niệm, còn sờ mó được, thì cái đó chưa phải tột cùng của khổ đau. Cái khổ mà con người đang gánh chịu chỉ là kết quả tất nhiên của một động cơ, nó đẩy đưa con người từ hiện tượng nầy sang hiện tượng khác, chìm đắm trong đêm dài tăm tối, lặn hụp trong biển si mê không thể nào thoát ra được, cũng chỉ vì sự chi phối tác động và cai trị của một chủ tể đó là Vô Minh.

Vô minh là không sáng suốt, tăm tối, không nhận ra được chân lýkhổ não, nó không là gì cả, chỉ là bóng dáng của một giả thể, nhưng con người đã tổng hợp và cho đó như một thực thể, ôm ấp, gắn vào đó những nhãn hiệu, khuôn mẫu mà thực ra không phải là nó. Chưa một lần nào ta chịu nhìn ngắm khám phá ra nó và nếu có chăng đi nữa thì sự nhìn ngắm đó, cũng chỉ là nhìn ngắm để rồi ngắm nhìn, chứ chưa thật sự đặt vấn đề giải quyết và tìm phương vượt thoát khỏi nó.

Sự nhận thức của con người vốn đã bị bóp méokhông thật, khi nhìn ngắm và soi xét về một đối tượng, con người đã không nhìn bằng ánh mắt của như thật, của trí tuệ mà bằng sự chi phối, dẫn dắt, tác động của vô minh. Không một sự nhìn ngắm nào mà không khởi lên những phân biệt, chấp trước, nắm bắt, vì khi phân biệt phải có chủ thể khách thể, cái nhận thức và cái bị nhận thức, cái ta và cái của ta. Con người luôn nắm bắt thực tại và không sự nắm bắt nào mà không tạo nên khổ đau, rên rỉ, thất vọng. Bởi lẽ tất cả mọi sự vật đều biến hóa, ảo tưởng, không thật, thì sự nắm bắt ấy đồng nghĩa với sự biến dạng mất mát.

Khi ý thức nảy sinh sự ham muốn, thì động niệm theo đó phát sinh, khi động niệm sinh, tức khắc ý thức bị phân hai trở thành chủ và khách, như vậy sự xung đột chắc chắn xảy ra. Nếu sự phân hóa vừa xuất hiện, thay vì quán chiếu vào tận cùng tâm thức để phản tỉnh vượt thoát những kiến chấp nắm bắt, dùng trí tuệ vốn sẵn có trong mỗi người để soi sang, thì chúng ta lại bám vào thế giới trần cảnh, những quan niệm cùng giáo điều cứng ngắt, những khuôn mẫu đúc sẵn, những trí thức lừa đảo. Khi nào tâm thức còn bị đánh lừa bởi những gì do chính nó tạo ra hoặc phản chiếu, thì vô minh vẫn còn ngự trị trong sâu thẳm. Chỉ khi nào lớp vỏ khô cứng đó bị đập vỡ tung, trí tuệ xuất hiện chiếu rọi trong tận cùng tâm thức, xé tan màn dày đặc của vô minh, thì lúc ấy nó mới không còn chổ để dung thân.

2, Ý thức thường trực về khổ đau.

Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là đối diện với nó, đương đầu và chấp nhận, sẵn sàng nở nụ cười hoan hỷ chấn động cả tâm thức, ôm ấp nó vào lòng như ôm một đứa con yêu quý. Không một sự thoát khổ nào bắt nguồn từ sự xa lánh trốn chạy, cái khổ càng được nung nấu, un đúc, trui rèn, mài dũa thì cái tâm lại càng tinh luyện, cứng rắn và vững chãi, thân thể càng bị đày đọa, tim rỉ máu, mắt đẫm lệ, thì tâm thức mới thể nhập vào sự diệu huyền biến hoá của vũ trụ. Như một con dao được trui rèn trong lửa, đập phá nhiều lần bởi người thợ rèn, con dao ấy mới có công năng chặt đứt được sự vật. Nếu một con người không trưởng thành từ trong đau khổ, con người ấy dễ bị thời gian đào thải. Nếu một con người không đương đầu, mặc nhiên, chấp nhận, ý thức thường trực về nỗi thống khổ và tìm phương thoát ra, thì con người đó không thể thoát được khổ đau.

Cuộc đời vốn đầy dẫy sự bất công và đe dọa bởi thực trạng khổ đau, không một ai dành cho chúng ta sự hạnh phúc bình an và nếu có đi nữa thì sự bình an do kẻ khác mang đến trao tặng, đều kèm theo điều kiện. Sự ích kỷ, ngộ nhận, bóp méo sự thật, vốn là một tâm lý nằm sẵn trong mỗi người, được dịp và đúng thời điểm là con người dán chặt vào đó những nhãn hiệu, những móc ngoặc, tạo khủng hoảng cho chính mình và đối tượng. Con người tìm mọi cách để thấy mình hơn kẻ khác, những phương cách lọc lừa, mưu mẹo đều được đem ra trắc nghiệm, xử dụng. Nhận lấy điều nầy, là sự đau khổ, bất an xuất hiện, dĩ nhiên không một sự hơn thua nào mà không bắt nguồn từ khổ đau, gây nên khổ đau. Con người vốn đã không nương tay với nhau khi hành động, khi được dịp họ chỉ cần chiến thắng, dù sự chiến thắng được xây đắp trên nỗi khổ, nỗi đau của kẻ khác, dù sự chiến thắng ấy phát xuất từ sự sai khiến của tâm lý phức tạp, trải qua những xáo trộn trong tận cùng tư tưởng, và do vô minh chủ động. Cho dù sự chiến thắng ấy có đồng nghĩa với chiến bại, thì trong nội tâm họ vẫn muốn làm kẻ chiến thắng, và đương nhiên không một sự chiến thắng nào mà không đưa đến mất mát, đau khổ.

Thông thường những phương cáchcon người dùng để giải quyết khổ đau là tạo ra những cuộc vui giả tạo, tìm hạnh phúc trong sự bất chợt, nắm bắt, hoan lạc, trong ly cà phê điếu thuốc, trong khói hương ngây ngất của cuộc đời, bên những ly rượu mạnh để giải sầu. Thực ra đây chỉ là phương pháp tạm thời, chứ chưa phải cứu cánh, điều hẳn nhiên không một cuộc vui nào lại không chóng tàn, không cơn say nào mà không tỉnh. Con người trốn chạy khổ đau bằng cách tìm vui, nhưng vui lại là nguyên nhân của khổ, khi vui vừa tàn sự trống trải, cô đơn, chán chường, và điều muốn tiếp tục vui nữa lại dâng cao, cứ thế đẩy dần ta vào vũng bùn đen tối, chôn chặt trong hố thẳm không biết lúc nào ra khỏi.

3, Bùng vỡ của tâm thức

Con đường vượt thoát ra khỏi chính nó là phải nhìn thẳng, quán chiếu vào lẽ sinh diệt của nó, hãy yên lặng để thấy nó len lõi đi vào, một khi không tạo được sự tác động gây hấn, thì chính nó sẽ hủy diệt. Thân phận con người như điếu thuốc đang cháy dần, nếu người hút thuốc muốn tìm thêm khói cảm trong đó mà hít vào thật nhiều, dĩ nhiên sẽ chóng tàn hơn, và nếu không hít thì điếu thuốc đang cháy cũng vẫn phải tàn. Vì thân phận con ngườithân phận của bèo mây tan hợp.

Khi sự vật đưọc hình thành để rồi tự nó hủy diệt, một đóa hoa tươi đẹp đang khoe sắc dưới nắng hồng ban mai nhưng trong đó đang có sự hủy diệt trong từng phút giây và ngày mai kia hoa sẽ héo tàn rơi rụng theo thời gian. Thời gian là khởi diểm của tồn tại và là kết quả của diệt vong. Thời gian được đặt ra để đo lường sự hiện hữu và mất mát, sự liên tục của nó tạo cho con người cái cảm giác trường cửu, nhưng trong đó sự biến dạng liên tục chi phối, từ ban ngày chuyển thành ban đêm, từ đêm trở lại ngày, nối tiếp nhau đi qua trở lại. Cái có và không xuất hiện ở một kết hợp, khi duyên không còn tự tiêu vong. Nếu không có cái không thì hẳn nhiên không có cái có, và ngược lại sở dĩ chúng ta trông thấy đưọc cái có thì cũng nhờ cái không bao bọc chung quanh nên cái có hiển lộ. Nếu sơn hà đại địa nầy chất đầy cả cái có, không một kẻ hở để cái không xen vào thì sao gọi là có được. Như vậy cái có nương vào cái không, cái không nương vào cái có, nương với nhau mà thành, duyên với nhau mà hợp " có thì có tự mảy may, mà không thì cả thế gian nầy cũng không" .

Con người vốn lẩn quẩn trong vòng sanh diệt, chấp có, chấp không, tha hồ nắm bắt, nhận giả làm thật, lấy mê làm ngộ, đến khi vụt mất khỏi tầm tay sinh ra tiếc nuối khổ đau, do vì vô minh tạo ra những cảm tưởng mê mờ. Nếu muốn vượt thoát tử sinh, cần phải quán chiếu vào nội tâm, tìm về uyên nguyên của giác ngộ, uống ngụm nước đầu nguồn. Giác ngộ không tách rời vô minh mà có, muốn được điều này cần phải trực nhận vào tận gốc rễ của vô minh, nhận rõ chân tướng của sự thật trong mọi khía cạnh nhận thức. Vượt lên đối đãi, chấp trước, phân biệt, kiểm chứng và duy trì nội tâm bằng chánh niệm một cách liên tục không gián đoạn, không một kẻ hở, chúng ta mới có thể đoạn trừ được vô minh, vén màn cho sự giác ngộ. Nếu giác ngộ là sự chấn động toàn diện tâm thức con người, vượt thoát tử sinh, thì vô minh khi chưa giác ngộ vẫn có ý tưởng ngược lại, đẩy lùi con người vào hố thẳm ngút ngàn của tử sinh. Chỉ cần chúng ta dốc sức bình sinh xoay chiều thì công năng và kết qủa sẽ trái ngược, cũng cái tâm nầy chúng ta thành Phật và cũng cái tâm nầy điên đảo tử sinh.

4, Hoán chuyển đối nghịch

Giác ngộ là sự bùng vỡ của tâm thức, chuyển hoán từ vô minh thoát ly ra ngoài mọi ràng buộc, không còn niệm phân biệt, hiển lộ nên chân tâm, bặt hết duyên trần, những kiến giải, quan niệm đều bị vỡ tung khi ánh sáng giác ngộ chiếu vào soi sáng. Trong Kinh Pháp Cú có đoạn:

Trong vòng sống chết vô tận

Ta chạy mãi không nghĩ ngơi

Từ bào thai nầy sang bào thai khác

Đuổi theo người chủ ngôi nhà

Chủ nhà ta phát giác mi rồi

Mi không cất nhà lại được

Kèo cột gẫy hết rồi

Mái sườn sụt đổ hết

Tâm lìa hết tạo tác

Tất cả diệt trừ xong.

Cái hoát nhiên đại ngộ là khi nhìn thẳng vào chân tướng của sự vật, một khi vọng động dừng lại thì cả càn khôn hiển lộ. Điều này không nằm trong kiến giải mà là sự thử thách cam go, trực nhận không một giây tách rời, cầm giữ thanh gươm trí tuệ sẵn sàng chặt tan mọi ràng buộc động niệm, đẩy lùi tất cả đến tận cùng, chuyển hoán sự đối nghịch, trở thành chất liệu nuôi dưỡng giác ngộ.

Vô mình đã nằm trong sâu thẳm, thì sự tỉnh thức trong từng niệm đã cắt đứt và cuốn phăng đi chặng đường tồn tại của nó, khi giác ngộ vụt khởi trạng thái nầy không còn một mảy may tư tưởng, kiến giải, đối tượng. Chủ thể và khách thể hòa cùng một thể, đó là thể của giác ngộ, dĩ nhiên giác ngộ không phải tiến trình đi tới của tri thức mà là sự quật khởi nội tâm, buông bỏ sự níu kéo nắm bắt, vượt thoát những ý thức sai biệt. Sự nối liền giữa vô minhgiác ngộ như đường tơ kẻ tóc, nếu không nhận ra được đâu là nguồn cội, thì tự nó là hố thẳm nghìn trùng xa cách, một khi nhận chân ra được thì trong tích tắt mọi ngăn ngại đều đánh bật ngã. Sự hoát nhiên giác ngộ liền xâm nhập vào tâm thức, như một làn chớp bất chợt xuất hiện chỉ trong sát na. Trong Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:

" Thiện tri thức đừng trụ bất cứ ở đâu, ở trong ở ngoài, thì lui tới được tự do. Đừng để tâm chấp trước thì thông suốt hết không gì vướng mắc. Kẻ ngu nếu bổng chốc trí sáng tâm mở thì với người trí chẳng sai khác.

Thiện tri thức khi chưa ngộ Phật là chúng sanh như ta, phút chốc ngộ rồi thì ta chúng sanh tức là Phật. Thế mới biết tất cả đều ở nơi tâm. Vậy sao ta không biết tự nơi tâm thoắt thấy ngay cái bổn tánh chân như. "

Huệ Năng là một chú tiều đốn củi nuôi mẹ, nghe một người tụng kinh Kim Cang đến câu " Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm " ngài hốt nhiên đại ngộ. Cái ngộ của ngài không nằm trong suy luận, so đo tính toán, mà là sự tiếp nhận thẳng vào tâm thức. Càng suy luận càng tách rời chân tâm, không giúp được gì cho giác ngộ, “khảy mổ cùng một lúc”, hành động nhịp nhàng ăn khớp trong một thời điểm nhất định, ngộ là ngộ tức khắc, không chần chừ, so đo phân biệt, và không ngộ là không ngộ chứ không có kiểu nửa tỉnh nửa say.

Ngài Hương Nghiêm có lần nói: " Ví như có người lơ lững trên miệng vực sâu muôn trượng, răn cắn vào một cành cây, chân thòng giữa hư không, hai tay không bám vào đâu được. Lúc ấy có người đi ngang qua hỏi vọng lên, nếu người trên cây mở miệng trả lời thì rơi xuống vực sâu mất mạng. Nếu không trả lời thì phụ người hỏi. Trong phút giây nguy kich ấy, người đó phải làm sao? "

Giữa cái chết và cái sống, giữa cái mê và ngộ, giữa sự trả lời và không, quả thật lúc ấy không còn gì để mà biện luận, cân nhắc tính toán, hể mở miệng ra để trả lời thì rơi xuống hố sâu muôn trượng tan thân nát thịt. Lúc ấy chỉ còn " Làm thinh như chánh pháp, nói năng như chánh pháp ".

Một cuộc sống an lành là khi không còn bị trói buộc bởi nội và ngoại tại nữa, vì tất cả những dính mắc đều phải tốn công nhọc lòng tháo gỡ, hể còn phải tháo gỡ thì vẫn còn phiền não, khổ đau. Nếu ở trong tâm bặt hết duyên trần, ở ngoài không đắm trước, thì không một hành động nào làm hoen ố được, ung dung tự tại mà bổn thể hoàn toàn vô nhiễm. Điều nầy quả thât là khó, nhưng tử sinh, luân hồi sống chết vô tận, làm cho chúng ta quá chán ngán rồi, điều may mắn còn làm được thân người, ngay từ bây giờ nếu không vận dụng cả bình sanh, xương tủy, máu thịt trong người thì khó mà thoát ra. Buông bỏ tất cả, theo dõi tâm mình, tỉnh thức trong từng động niệm, những vọng niệm nào cản trở giác ngộ, cần phải chặt phăng nó đi, duy trì chánh niệm một cách liên tục, một ngày nào đó giác ngộ sẽ bùng vở. Nếu buông thỏng nội tâm không kiểm soát, phó mặc cho duyên trần, thì muôn kiếp vẫn phải tử sinh, trôi lăn vô tận.

5, Tâm an tịnh

Sự vượt thoát tử sinh tìm về giác ngộ là điều tối cần, mục đích của Đạo Phật giải phóng con người ra khỏi khổ đau, đạt đến giải thoát hoàn toàn. Giải phóngthoát ly ra ngoài mọi đối đãi, không còn dính mắc ở khía cạnh hay góc độ nào, còn níu kéo thì còn bị trì trệ ứ đọng, buông xả tất cả. Tâm con người tựa như dòng nước chảy, nó có thể cuốn phăng đi tất cả, nhưng ngược lại nó vẫn có thể bị ô nhiễm, điều quan trọng cho sự tìm về giải thoát là phải lắng đọng chính cái ô nhiễm đó. Thường trực quán chiếu không khơi dậy dòng nước dục, không tạo những chuyển động để ô nhiễm tái sinh, luân lưu nhưng không nhiễm ô. Dòng tâm thức nếu ngăn chận dễ phát sinh ra những nguy hại, như dòng nước đang chảy xiết nếu ngăn lại tất nhiên nước sẽ phá bờ, chảy lan tràn. Cho nên cứ mặc nhiên để nó tuôn chảy, chỉ cần lắng đọng, ý thức một cách liên tục rõ ràng sự lưu chuyển ấy, tươi mát trong suốt là điều cần thiết cho hành trình vượt thoát.

Giải thoát không có nghĩa chối bỏ trốn chạy cuộc đời nầy, vì chỉ trong cuộc đời nầy mới tìm thấy sự giải thoát, bên cạnh khổ đau phiền não thì giải thoát mới có ý nghĩa tuyệt diệu. Nếu cuộc sống lúc nào cũng bình an, hẳn nhiên không cần giải thoát và không cần tìm phương vượt thoát. Sở dĩ điều này phát sinh cũng chính từ sự ràng buộc chìm đắm trong khổ đau. Bồ Tát mang hạnh nguyện độ sanh, nên quốc độ của qúy ngài là thế giới khổ đau, hể còn khổ đau thì còn phải giải thoát, ngoài điều nầy ra Bồ Tát sẽ không còn đối tượng để phục vụ và đất để dung thân. Qúy ngài xuất hiện cũng chính vì cuộc đời đầy dẫy khổ đau, khi không còn khổ đau lúc ấy không còn qúy ngài nữa, tự động biến mất.

Nếu tâm con người được an tịnh trong mọi chiều hướng, có nghĩa chúng ta đã giải thoát ở một vài khía cạnh nào đó, ít ra sự bình an trong cuộc sống. Giải thoát không có nghĩa vượt thoát được tử sinh, khi chưa thật sự thể nhập vào uyên nguyên của nó. Đó chỉ là một chặng đường chứ chưa phải rốt ráo cho một hành trình, đó chỉ là nền móng chứ chưa phải ngôi nhà thật thể, đó chỉ là cánh cổng để hành giả bước vào ngôi nhà giải thoát, vào được hay không, an trú lâu dài hay không, đều tùy thuộc vào mỗi người và đó mới là vấn đề trọng đại.

Có những lúc trong một cuộc hành trình dài, ta hay dừng lại để nghỉ ngơi, nhưng do mãi vui hay lầm tưởng đó là cứu cánh, nếu không dụng tâm rốt ráo ta vẫn còn sự ngự trị của vô minh. An phận và lầm tưởng vẫn là điều cố hữu trong mỗi chúng ta, nó tạo ra khuynh hướng phụ thuộc biếng nhác, mặc nhiên. Mặc nhiên trong ý nghĩa chấp nhận trôi lăn trong dòng đời, chứ không phải mặc nhiên trong ý nghĩa cùng tuyệt của giác ngộ, giải thoát. Chính những điều ấy tạo nên sự dừng lại bên cổng của ngôi nhà, muốn vào được bên trong, trước hết và trên hết sự an tịnh nơi tâm thường xuyên ngự trị, không còn dính mắc nơi ngôi nhà và người đi vào, thể nhập trọn vẹn hòa đồng, không một hình thái vướng bận nào, dù vi tế cuả tâm thức.

Giải thoát không đòi hỏi nhất thiết cho một tương lai, quá khứ không níu kéo lại được, tương lai thì quá xa vời, chỉ có hiện thực là quan trọng, cho nên những tác động cần phải tác động ngay trong hiện tại, ngoài điều nầy ra tất cả đều trở nên vô nghĩa và không giúp được gì cho hành trình giải thoát thật sự. Hiện tạinền móng cho tương lai và quá khứ cũng gắn liền ngay từ bây giờ, nếu hiện tại còn sự xô bồ, sanh diệt, phân hoá tiếp nối, thì hẳn nhiên tương lai cũng như vậy. Khi đã gieo nhơn sanh diệt thì quả không thể sai khác, cho nên cần phải tác động cho một hiện tại không sanh diệt, chỉ khi nào không sanh mới không bị diệt.

Trong Chứng Đạo Ca có ghi lại cuộc đối thoại hào hứng của nhà sư Huyền Giác với Lục Tổ Huệ Năng. Huyền Giác mang tâm trạng hoang mang giữa mê và ngộ, sinh tử, vô thường, tìm đến gõ cửa Huệ Năng và đặt vấn đề sống chết lên trên, một vấn đề trọng đại gấp rút, cần phải giải quyết ngay tức khắc " Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng lắm " Sanh tử vẫn là chuổi dài vô tận, vô thường tấn tốc không chờ đợi một ai, khi nó đến chỉ trong một hơi thở thân mạng không còn. Huyền Giác đưa vấn đề của kiếp nhân sinh ra, và Huệ Năng đã giải quyết "Sao chẳng nhận cái lý không sinh, thấu rõ cái nghĩa không chóng" Câu nói nầy như một đòn thí mạng đánh vào tâm thức, nhưng nhà sư đã thoát hiểmmay mắn đạt được tâm Phật nhờ bộ kinh Duy Ma, nhưng phải nhờ Huệ Năng ấn chứng cho.

6, Lối trở về

Chặng đường tìm về giác ngộ vưọt thoát đã thênh thang, chỉ cần chúng ta bưóc vào với tâm trạng tha thiết cầu mong, dốc cả tâm huyết của mình thể nhập vào cái diệu huyền, niềm tin mãnh liệt vào sự giải thoát ngay trong hiện tại cần phải thực hiện. Lối trở về đầy hoa thơm cỏ lạ, mỗi bước chân khắc ghi kỳ công, đánh phá trong thẩm sâu của dòng tâm thức một cách liên tục, thì sự đổ vở ảo tuởng do vô minh chủ động, mới không còn cơ hội tồn tại. Như hoa đốm ở giữa hư không vốn không thật, vì do con mắt bị nhậm mới sinh ra ảo tưởng như vậy, khi mắt hết nhậm thì làm gì thấy được hoa đốm.

Sự sanh diệt, phải đánh đổi bằng cái vô sanh vô diệt, vô thường phải đưọc thay thế bằng cái thường còn bất biến. Cả một kỳ công và cả một tâm niệm không còn ngự trị, móng dậy của sát na sanh diệt nào, lý lẽ nầy như một thoại đầu, cần phải nghiền nát thì mới vỡ ra ở kiếp nhân sinh nầy. Nếu không thì muôn kiếp phải đắm chìm trong khổ não, nổi trôi giữa dòng thác loạn tạp nhiễm, cái hoang mang ray rức giữa trạng thái mê ngộ, dỡ sống dỡ chết, giữa cái sinh và vô sinh diệt, một khi không còn vọng động thì chân như hiện diện, then chốt cuối cùng cần phải ấn mạnh mở tung, nếu không thì sự trở về vẫn còn là khúc quanh trong cuộc đời.

Sự khác biệt giữa căn cơtrình độ, không cần thiết cho sự trực nhận về giác ngộ, ứng dụng vào thực tế mới là điều cấp bách, cứ việc gõ cửa thì cửa sẽ tự động mở, sự kiên nhẫn và chờ đợi để đưọc mở cửa, đòi hỏi chúng ta phải biết cách gõ và chờ. Gõ sao cho đúng nhịp, thì âm vang đinh tai nhức óc của nó, khiến cho vô minh run sợ khiếp viá trong âm hưởng vô tận. Một khi cánh cửa được mở tung, chúng ta lập tức bước vào ngay không so đo, chùn bước, đó là cơ hội nghìn vàng, dịp may hiếm có mà suốt cả dòng nhân sinh, chúng ta mới có cơ may bắt gặp, nếu buông lơi vụt mất cơ hội, thì không biết lúc nào mới gặp lại. Như chú rùa một mắt biết khi nào mới gặp bộng cây trôi trên biển, chú rùa vẫn phải lặn hụp trong dòng biển mặn bao la, trong khi khúc cây cứ lững lờ trôi về nơi vô tận, mặc cho chú rùa gào thét quờ quạng, thẩm sâu của đại dương là ngôi mộ chôn chặt chú. Chỉ còn lại tiếng gầm thét của biển khơi, của những đợt sóng tiếp nối.

Làm sao và làm sao vượt thoát? Một câu hỏi gắng liền với quảng đời còn lại, một công án đánh động ray rức ngay trong hạnh phúc, khổ đau, hỷ lạc, trong sự say đắm của lý lẽ vô sanh vô diệt. Nếu cái đích cuối cùng không tóm thâu, thì cả một hành trình không cơ may tồn tại lâu bền. Chư Phật và Bồ Tát đã thể nhập trọn vẹn vào cái thường còn, nên lúc nào cũng thấy đưọc cái lẽ vô sanh ở trong cái sanh diệt, cái ngộ trong cái mê, giải thoát trong khổ đau. Với chúng ta còn mịt mù xa thẳm, thì làm sao và lúc nào mới đến được đầu nguồn của giải thoát?

7, Chiếc bè

Khi nào cứ điểm cuối cùng thâu tóm và ngự trị rồi, thì lúc ấy cả một bình sanh còn lại, không cần dụng công mà vẫn như dụng công, hành mà vô hành. Chặng đường nào, nếu không khéo dụng công thì chặng đường đó có muôn lối, lạc buớc rơi vào hố thẳm ngay. Trí tuệ sáng soi, ý lực vượt thoát tử sanh, đều phải trải qua thử thách cam go, hành giả phải cẩn trọng, dò dẫm từng bước, đạt được trạng thái liễu ngộ chân tâm, thấy đuợc mặt trời chân như chiếu rọi, theo đó mới không lạc lối, lúc ấy mới không dọ dẫm nữa, mà phải lao mình cho thật nhanh đến đích cuối cùng. Nương vào ngộ để đến giải thoát, nương vào chiếc bè để qua sông, khi qua được bờ kia đừng quên bỏ bè lại cho dòng sông, đừng vác theo làm gì cho mệt xác, nơm dùng để bắt cá, được cá rồi thì quêm nơm, hạnh nguyện độ sanh phải lập thệ, đừng an hưởng trong niết bàn chứng đắc.

Hành trang cho ngày trở về phải được chuẩn bị, trăng thanh đang soi đường, hoa thơm đang chờ đón, hương lạ được kết tinh bằng giải thoát. Chúng ta chỉ cần lập thệ dấn thân, dụng công liên tục, chắc hẳn ta tìm thấy được một bình minh tươi sáng, hạnh phúc trong vòng khổ đau, giải thoát trong vòng ràng buộc. Phải uống trà mới thấy đưọc hương vị ngọt ngào của nó, trong cái thẩm sâu mênh mang, vượt thoát là tối cần.

Như Hùng
Tạp chí Chân Nguyên, số 1 tháng 10 năm 1985
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23007)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14035)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12956)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55085)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9142)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14421)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14150)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14188)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13872)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36295)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19868)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18158)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19191)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19117)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20276)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17626)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31515)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15912)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14992)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14665)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46162)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35910)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21026)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21585)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23379)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34363)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19470)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18938)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22915)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20160)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18344)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19827)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19515)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33393)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34465)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54497)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37705)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21125)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17866)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63629)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17372)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49639)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27412)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20267)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23010)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18881)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16313)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17905)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20931)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17349)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14456)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16857)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16363)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15986)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17455)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21970)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15090)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13485)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14354)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15376)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14978)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12687)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13343)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27383)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12494)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13178)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14478)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16210)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12385)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15388)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12859)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12187)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13191)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21636)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11272)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22698)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15060)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14923)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46174)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22423)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14560)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12608)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18888)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14722)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43847)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56954)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13831)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47473)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13644)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14562)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28995)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33288)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38367)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15393)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31217)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12517)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40375)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43405)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46646)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14404)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant