Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái Chết Của Một Hành Giả

09 Tháng Bảy 201422:07(Xem: 11742)
Cái Chết Của Một Hành Giả

CÁI CHẾT CỦA MỘT HÀNH GIẢ
Những Ngày Cuối cùng của Thân phụ Thầy Khenpo Gawang

Khenpo Gawang


Một vài người đã yêu cầu tôi chia sẻ phần đời sau cùng của cha tôi.

khenpo_gawang

(Hình bên: Cha, Mẹ, Khenpo Gawang, và Chị)

Cha tôi, Dechen Chogyal, đã mất ngày 15 tháng Hai, 2011. Tháng Mười Hai năm 2010, cha tôi ở trong ẩn thất cùng mẹ tôi và chị tôi. Vào lúc đó, ông rất yếu và nói ông cảm thấy cuộc đời ông sắp chấm dứt. Mặc dù bắt đầu thấy khá hơn, từ địa điểm nhập thất ông di chuyển tới lều chăn trâu yak của gia đình ở trên núi cao.

Ông nói với người con trai trưởng là muốn gia đình chuẩn bị khắc vào đá cho ông ba quyển Kinh là Thời Hiền kiếp, Kinh Đại Giải thoát, và Kinh Vô Lượng Thọ. Con trai ông đã tiếp xúc với một tu viện để xin khắc ba quyển Kinh này và các viên đá được đặt ở một vị trí vô cùng đặc biệt mà Patrul Rinpoche đã gia hộ.

Sau đó cha tôi bắt đầu làm và nung những pho tượng nhỏ từ đất sét làm đồ gốm ở địa phương, người Tây Tạng gọi chúng là tsatsa. Thường thì cha tôi ngủ nhiều hoặc nghỉ ngơi trên giường trong khi tụng thần chú và quay kinh luân (bánh xe cầu nguyện). Bây giờ ông thức dậy lúc 5,30 giờ sáng và làm các pho tượng nhỏ suốt ngày. Từ cuối tháng Mười hai cho tới đầu tháng Giêng, cha tôi làm những pho tượng nhỏ này. Trong khi làm tượng, với vẻ vô tư, vui đùa, ông nói với những người láng giềng và các vị khách là ông sắp chết.

Vào đầu tháng Giêng, ông bắt đầu ăn những gì ông muốn. Ông yêu cầu cháu trai, cháu gái và cũng là những người hàng xóm của ông mang sữa và sữa chua lại cho ông. Họ sợ những món này không tốt cho ông nhưng ông nói: “Bây giờ sức khỏe và đời ta sắp hết, vì thế thật tốt khi ăn những gì ta muốn và hãy vui vẻ lên.” Cha tôi ngâm mình trong những con suối nóng ở địa phương, điều đó khiến ông rất yếu. Theo yêu cầu của những người khác trong gia đình, ông di chuyển về nhà của trưởng nam với hy vọng là anh ấy sẽ tìm được cách chữa trị.

Cha tôi biết là chẳng bao lâu nữa ông sẽ chết. Tôi gọi điện thoại trò chuyện với ông vào ngày 13 tháng Hai, khuyên ông đi bệnh viện. Ông nói: “Không, không, ba không muốn đi bệnh viện. Ba đang hỏi ý kiến một bác sĩ địa phương và đang bàn về thuốc của ông ấy. Nếu thuốc này chữa được thì nó sẽ giúp ba trường thọnếu không thì đời ba sẽ chấm dứt.” Khi bác sĩ đến, ông cho thuốc uống trong ba ngày. Sau này anh tôi kể lại là ba nói: “Bây giờ ba còn ba ngày để sống.”

Anh tôi nói lúc đầu khi ông đến thị trấn, một vài người trong gia đình tỏ ý muốn mua thuốc cho ông. Ông nhắc họ những lời của Đạo sưđại Liên Hoa Sanh, là bậc Thầy mà ông vô cùng kính ngưỡng, rằng loại thuốc tốt lành được dùng vào lúc chấm dứt cuộc đời là thuốc độc.

Anh tôi nói với tôi là tối ngày 13, ông mời tất cả những người thân thuộc và con cháu ở gần đó đến ăn tối. Ông nói: “Ta phải ăn uống với nhau và có một thời gian tuyệt diệu.” Sau khi họ ăn uống, ông nói: “Ta phải ngủ với nhau đêm nay.” Gia đình cố gắng chuyển giường của ông vào một góc yên tĩnh nhưng ông nói: “Không, tôi không muốn ở trong góc, tôi muốn ở giữa phòng. Ta sẽ cùng ngủ ở đây đêm nay.” Ông rất hài lòng về bữa ănyêu cầu giường của ông được để lại đúng chỗ trong phòng.

Tôi gọi điện thoại vào sáng hôm sau. Thoạt đầu cha tôi không muốn nói chuyện với tôi bởi ông lo là tôi sẽ yêu cầu ông đi bệnh viện. Khi tôi nói: “Không, con không muốn nói ba đi bệnh viện,” thì ông nói chuyện với tôi thật vui vẻ.

Chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện tuyệt vời. Ông nói là ông không hối tiếc điều gì về cuộc đời của ông và không tham luyến bất kỳ điều gì. Ông nói: “Mọi điều ba ước muốn đã hoàn thành. Ba đã có thể thực hiện một chuyến hành hương vô cùng tốt đẹp đến mọi thánh địa. Ở mỗi nơi, ba đã cầu nguyệnhồi hướng công đức cho toàn thể chúng sinh. Ba không chỉ nghĩ đến bản thân mà còn nghĩ đến tất cả chúng sinh. Bây giờ, ba không có bất kỳ vấn đề gì. Ba không hối tiếc.”

Kế đó ông yêu cầu tôi là nếu có thể, hãy chăm sóc mẹ tôi chừng nào bà còn sống và tôi hứa là sẽ thực hiện điều đó. Tôi nói với ông: “Ba đã thực hành Pháp cả đời và thật là tốt khi ba không hối tiếc hay bám luyến.” Ông lại nói: “Ba không có bất kỳ hối tiếc hay dính mắc nào.”

Đây là cuộc trò chuyện cuối cùng của chúng tôi. Tôi nghĩ: “Tốt, ông vẫn ổn.” Tôi thoáng buồn, nhưng điều ấy có thể chịu đựng được. Tôi biết là ông thanh thảntỉnh thức, và đây là một cách chết tốt lành.

Hôm trước ngày cha tôi mất, ông vẫn còn rất mạnh mẽ, trò chuyệnthanh thản. Ông không lo lắng hay sợ hãi về cái chết và không cảm thấy đau đớn gì. Khi có người đến thăm, ông cho họ lời khuyên và một vài giáo lý. Ông nói với họ: “Hãy nhìn vào tình cảnh của quý vị thật cẩn trọng và làm những gì quý vị cần làm để duy trì đời sống của gia đìnhbản thân. Khi chết, quý vị không thể mang theo mình bất kỳ điều gì ngoại trừ Giáo pháp và trái tim cùng tâm thức tốt lành của quý vị.”

nui_garuda(Hình bên: Núi Garuda)

Ông nói: “Điều vô cùng quan trọng là phải luôn luôn hồi hướng đức hạnh cho tất cả chúng sinh.” Gần túp lều chăn trâu yak là một ngọn núi lớn tên là Núi Garuda (Núi Kim Xí Điểu) mà ông lấy làm ví dụ. Ông nói chúng ta cần tạo lập đức hạnh lớn gấp đôi Núi Garuda. Ông nói: “Không nên làm bất kỳ ác hạnh nào, cho dù vô cùng bé nhỏ, chẳng hạn như những hành vi quấy rầy tâm thức của người khác. Điều quan trọng nhất là luôn luôn có một trái tim tốt lành.” Ông lại nói: “Tôi không tham luyến hay hối tiếc. Đừng lo lắng cho tôi.”Rồi từ từ, trong tiến trình chết, ông không nói được nữa. Ông vẫn tỉnh thứcthư thái, với tâm trí minh mẫn. Khi những người khách đến, chẳng hạn như em trai và cháu tôi, họ có thể thấy là ông hiểu và nhận ra họ. Ông chạm nhẹ vào tim và chắp tay trong cử chỉ cầu nguyện như thầm nói những lời khuyên nhủ cuối cùng.

Trong toàn bộ tiến trình, ông không hề đau đớn hay rối loạn. Ông rất tinh tếminh mẫn, ngay cả trong tiến trình chết. Một tu sĩ là cháu trai của ông đứng ở bên cạnh và đọc Giải thoát Nhờ Sự Nghe trong Bardo hay Bardo Tödrol (Tử Thư Tây Tạng). Rõ ràng là ông hiểu những gì được đọc cho ông. Ông nói: “Tôi hiểu.” Hơi thở của ông ngắn dần và cuối cùng ngừng lại. Gia đình đã mô tả điều đó giống như một ngọn đèn bơ vụt tắt khi giọt dầu cuối cùng đã cạn.

Vài tuần trước tôi đã gọi cho chị tôi; chị đang nhập thất trọn đời trên núi cao. Chị có một điện thoại di độngchúng tôi đã lập kế hoạch để tôi gọi điện thoại. Vào lúc đó chúng tôi có một cuộc trò chuyện dài về cha tôi. Tôi nói là theo tôi nghĩ, cha cần nhận một vài chỉ dẫnhiện có một vài vị Thầy vô cùng vĩ đại đang nhập thất trọn đời ở gần đó và các ngài là bạn của ông.

Chị tôi nói: “Ba không cần nhận bất kỳ giáo lý hay chỉ dẫn nào. Ông đã nhận được tất cả những giáo lý đó ở trong tù, và đối ông như thế là đủ.” Mặc dù không đọc được, ông được nhiều vị Thầy vĩ đại thăm viếng trong nhiều năm và đọc cho ông, và ông hiểu biết nhiều.

Cha tôi trải qua nhiều năm trong một nhà tù Trung quốc vào đầu thập niên 1960. Vào thời gian đó ông đã nhận được những giáo lý tuyệt hảo từ các Lạt ma vĩ đại cùng bị giam giữ với ông. Ông nhắc đi nhắc lại lời dạy cốt tủy của các vị Thầy là phải thấy tình cảnh tệ hại ở Tây Tạng không chỉ là lỗi lầm của người Trung quốc mà còn bởi ác nghiệp của chúng ta được tiêu trừ. Các ngài nói: “Ta không nên cảm thấy sân hận, thù ghét và làm điều xấu ác đối với người Trung quốc. Thay vào đó, trước hết ta cần phát khởi lòng bi mẫnhồi hướng mọi đức hạnh của ta cho họ.”

Tôi xin chia sẻ một câu chuyện mà ông đã kể cho tôi về thời gian ông ở trong tù. Khi ấy ông ngủ cùng phòng với vị Thầy chính của ông là Lạt ma Ngasung. Một người bạn của cha tôi ở phòng bên cạnh. Nửa đêm, ông ta gọi lớn: “Ngasung, Ngasung, tôi sắp chết! Tôi nên làm gì?” Lạt ma Ngasung nói vọng qua tường: “A Di Đà ở phương bắc và màu đỏ.” Người bạn của ông gọi lại: “Phải, phải, đúng thế!” Đến sáng thì ông ta chết.

Như vậy bạn thấy là cha tôi đã nhận được những giáo lý tuyệt vời trong nhà tù của Trung quốc và ông đã gặp các vị Thầy vĩ đại. Cha tôi là một người chăn giữ trâu yak và mù chữ nhưng ông đã hiến mình cho Giáo pháp. Ông không đọc được nhưng có thể trì tụng nhiều thần chú như thần chú Mani và Kim Cương Đạo sư. Ông luôn luôn tụng những bài hồi hướng công đức và nguyện ước tất cả chúng sinh đều được giải thoát, không đau khổ và được hạnh phúc. Ông là người rất tốt lành.

tsatsa

Địa điểm làm Tsatsa

Trong cuộc trò chuyện đó với chị tôi bằng điện thoại di động, chị nói rằng cha tôi đang sống ở túp lều của người chăn trâu yak và làm những pho tượng nhỏ. Sức khỏe của ông đã khá hơn và ông thật tuyệt vời với rất nhiều phẩm tính tốt lành. Chị nói về thời gian ông sống trong ẩn thất với chị. Ở đó có một vài con dê bé xíu bị bỏ rơi vì mẹ của chúng đã chết. Chị nói ông xúc động đến nỗi bật khóc và chị cảm nhận sâu xa trái tim và lòng bi mẫn tốt lành của ông.

Trong suốt thời gian này mẹ tôi ởtrong ẩn thất cùng với chị tôi. Khi cha tôi bắt đầu yếu, mẹ tôi quyết định tụng một tỉ thần chú Mani để làm lợi lạc cho ông. Khi có dấu hiệu rõ ràng là ông sắp mất, một người em khác đến ẩn thất và hỏi mẹ tôi có muốn đến thị trấn thăm cha tôi không.

Bằng trí tuệ, mẹ tôi nói: “Mẹ không cần phải đi. Nếu đi thì mẹ phải ở đó một thời gian dài và không thể tụng thần chú như ở đây. Không ai sống mà thoát được tuổi già dẫn đến cái chết và sự thực là như thế đấy. Vì thế mẹ nên ở trong ẩn thất và tụng thần chú Mani.”

Mẹ tôi không bối rối hay khóc lóc mà vẫn tiếp tục thực hành và trì tụng thần chú Mani. Chị tôi, một sư cô nhập thất trọn đời, nói: “Bây giờ chính là lúc để ông ra đi và ông đã sẵn sàng. Cha mẹ già có thể chết trước con cái là điều đúng đắn. Nếu con cái chết trước mà cha mẹ đã già yếu, cha mẹ phải ở lại với khổ đau ghê gớm của tuổi già.”

Tất cả gia đình mở rộng và bạn hữu của tôi cảm thấy cha tôi đã chết đúng lúc với thái độ và cái nhìn đúng đắn. Ông có niềm tin to lớn ở Giáo pháp và không hối tiếc về cuộc đời mình. Ông không dính mắc vào bất kỳ điều gì và như thế thì rất tốt, bởi do bám luyến vào con người và mọi sự nên nhiều người thấy chết vô cùng khó khăn.

Cha tôi biết là mình sắp chết. Tâm ông rất minh mẫn, ông thanh thảntrò chuyện với từng người trong gia đình, cho họ lời khuyên tâm huyết. Gần đến lúc ra đi, trong khi vẫn còn nói được, ông lập đi lập lại: “Tôi sắp chết, vì thế cầu mong tôi nhận lãnh đau khổ của tất cả chúng sinh. Cầu mong tôi nhận vào mình bệnh tật, đau khổ và mọi vấn đề bởi tôi sắp chết.” Đối với những người có mặt ở đó thì rõ ràng là ngay cả khi ông không còn nói được nữa, ông vẫn cầu nguyện và giữ vững nguyện ước này.

Nhiều thế hệ trong gia đình tôi là các hành giả thuộc Dòng truyền thừa Nyingma. Bác tôi, người đã mất hai năm trước, lúc nào cũng có vẻ như đang thiền định. Bác có một năng lực nhờ việc trì tụng thần chú – khi có người bị thương, bác tụng một thần chú để có thể giúp đỡ họ. Tôi nhớ lại khi còn nhỏ, chúng tôi quấy rầy bác khi bác thiền định. Chúng tôi ẩn núp và gọi bác khi bác nỗ lực tập trung. Sau khi bác mất, thân thể bác ở trong tư thế thiền định ba ngày.

Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự. Cả hai người đều mù chữ nhưng thực hành của các ngài thật vững chắc và mãnh liệt.

Khenpo Gawang Rinpoche thuật lại. Candia Ludy và Ellie Maclin hiệu đính sơ lược.

Chú thích:

(1) Khenpo Gawang Rinpoche là nhà sáng lập và giám đốc tâm linh của Trung tâm Thiền định Pema Karpo ở Memphis, Tennessee. Sau khi đã hoàn tất hai mươi bảy năm như một tu sĩ, mười hai năm với nhiều kinh nghiệm giảng dạy, và chín năm nghiên cứu tại Đại học Phật giáo thuộc Tu viện Namdroling ở Nam Ấn Độ, ngài đạt được học vị Khenpo, một văn bằng Phật giáo tương đương với bằng Tiến sĩ. Gawang Rinpoche tới Hoa Kỳ năm 2004 theo lời mời của Sakyong Mipham Rinpoche và Tổ chức Quốc tế Shambhala. Ngài tự hào được trở thành một công dân Mỹ vào năm 2012. Ngài là tác giả quyển “YOUR MIND IS YOUR TEACHER – Self-Awakening through Contemplative Meditation”

http://www.shambhala.com/authors/g-n/khenpo-gawang.html
Nguyên tác: “The Last Days of Khenpo Gawang’s Father” by Khenpo Gawang
http://shambhalatimes.org/2011/04/20/the-last-days-of-khenpo-gawangs-father/Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31641)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10522)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11220)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12742)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10804)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16649)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10809)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22961)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12018)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11488)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10681)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12332)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11190)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10006)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10326)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11905)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10695)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12370)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9801)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11267)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13838)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9576)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12623)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9695)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10454)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10548)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10319)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9898)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11049)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12006)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10139)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10784)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9541)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9895)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9494)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14517)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8775)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12549)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10412)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9081)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10557)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9332)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8786)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10506)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9188)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8353)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12015)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9693)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10213)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10225)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19128)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9405)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8974)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9584)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9016)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14739)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10081)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8347)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8947)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8973)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8735)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9367)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14591)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9032)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8759)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9032)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10529)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8637)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9988)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24274)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10163)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11014)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8993)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9467)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8000)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9261)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15348)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10336)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9568)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17437)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12157)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10230)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19233)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7974)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14769)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10628)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11347)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9530)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18667)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12344)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11875)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10739)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13337)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9977)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9264)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9367)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15884)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant