Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bản ThểĐạo Đức Luận Của Phật Giáo Qua Pháp Môn "Bất Nhị"

30 Tháng Giêng 201511:23(Xem: 14450)
Bản Thể Và Đạo Đức Luận Của Phật Giáo Qua Pháp Môn "Bất Nhị"

Bản thể luận & đạo đức luận của Phật giáo
qua pháp môn "Bất nhị"


Hà Thúc Minh

不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt. “Bất nhị” là không phải cái này, cũng không phải cái kia. “Bất nhị” còn được gọi là “chân như”, “pháp tính”. Tuy nhiên, “bất nhị” thường được xem nhưphương pháp thuộc lĩnh vực nhận thức.

“Bất nhị” cũng có nghĩa là không phân biệt, là bình đẳng...

Phật học đại từ điển giải thích “pháp môn bất nhị” như sau: “Là pháp môn nhằm làm rõ chân lý tuyệt đối không phân chia. Chương Nhập bất nhị pháp môn (Chương IX trong mười bốn chương của Kinh Duy Ma) chuyên thuyết giảng về vấn đề này. “Bất nhị” là chỉ trạng thái siêu việt tuyệt đối, vượt khỏi mọi đối lập tương đối. Ví dụ như to-nhỏ, cao-thấp, đi-về, một-nhiều… Từ “Pháp môn” 法门, Sanskrit gọi là Dharmaparyaya, có nghĩa là phương pháp (môn, cánh cửa để đi vào).

"Phương pháp bất nhị" là phương pháp quan trọng nhất trong tám vạn bốn nghìn (chỉ về số nhiều) phương pháp nhận thức của Phật giáo.

Như đã nói, pháp môn "bất nhị" xuất xứ từ kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Sanskrit gọi là Vimalakirtinirdesa sutra, kinh điển của Phật giáo Đại thừa xuất hiện từ thế kỷ 1~2 sau công nguyên. Tương truyền, tác giả của nó là Bồ tát cư sĩ Duy Ma Cật (Vimalakirti, nghĩa đen là không bị nhuốm bẩn). Tuy nhiên, bản Sanskrit hầu như thất truyền, có bảy bản dịch Hán ngữ, nhưng hiện ở Càn Long Đại tạng kinh còn lưu trữ ba bản dịch Hán ngữ của Ngô Chi Khiêm (thời Tam quốc), Cưu Ma La ThậpHuyền Trang. Bản lưu hành phổ biến hơn cả là bản dịch Hán ngữ của Cưu Ma La Thập (Kumarajiva, 344-413) vào thế kỷ thứ V. Học giả Trung Quốc thừa nhận rằng, quá trình Kinh Duy Ma truyền sang và ảnh hưởng ngày càng sâu rộng, cũng là lúc mà Phật giáo Ấn Độ được Hán hóa và trở thành môt phần không thể thiếu của văn hóa Trung Quốc.

Kinh Duy Ma với quan niệm chủ đạo về Bát nhã tính không, “bất khả tư nghị” “vô ngôn ngữ khả thuyết” cũng được Trung luận triển khai với pháp môn “bát bất”, Thiên Thai tông với “tam đế viên dung”, gọi là Không, Giả, Trung. Theo Thiên Thai tông, “không” dùng để phủ định mọi sự vật hiện tượng (không dĩ phá nhất thiết pháp), “giả” cốt để thừa nhận sự tồn tại của sự vật hiện tượng (giả dĩ lập nhất thiết pháp), “trung” là để thừa nhận sự tồn tại vi diệu của mọi sự vật hiện tượng (trung dĩ diệu nhất thiết pháp). Cho nên ba khái niệm đó cũng là tên gọi khác nhau của “pháp" mà thôi. Thiền tông với “bất lập văn tự, vô pháp khả thuyết”…

Theo Lỗ Tấn, thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, thiên hạ đặc biệt sùng bái ba cuốn kinh sách, đó là Luận ngữ, Đạo đức kinhKinh Duy Ma. Nhiều thi nhân, đại văn hào trong lịch sử Trung Quốc đều chịu ảnh hưởng sâu rộng của Kinh Duy Ma. Chẳng hạn như Vương Duy, Lý Thương Ẩn, Bạch Cư Dị, Vương An Thạch, Tô Đông Pha… Tuy nhiên, cũng không nên cho rằng mục đích chính của Kinh Duy Ma là nhằm chứng minh tu tại giaxuất gia là như nhau. Thực ra đó cũng chỉ là một trong nhiều hệ quả được rút ra từ bộ kinh mà thôi.

Hãy trở lại với chương Nhập bất nhị pháp mônkinh Duy Ma. Sau khi các vị Bồ tát đề xuất kiến giải của mình về “pháp môn bất nhị” và cũng đã nêu ra 31 phạm trù đối lập tương đối, Văn Thù Sư Lợi bèn thăm dò ý kiến của Bồ tát Duy Ma Cật. Duy Ma Cật vẫn im lặng không trả lời. Văn Thù Sư Lợi bèn ngộ ra rằng: “Thiện tai! Thiện tai! Quả thực pháp môn bất nhị chân chính không thể bằng văn tự ngôn ngữ là có thể diễn đạt được”. (文殊师利问维摩诘:‘我等各自说已,仁者当说何等是菩萨入不二法门?’时维摩诘默然无言。文殊师利叹曰:‘善哉!善哉!乃至无有文字语言,是真入不二法 门).(1)

“Bất nhị” cũng được gọi là “Chân như”, “Pháp tính”, cho nên nó cũng là vấn đề bản thể luận. Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó. Bởi vì bản thể của thế giới không phải là đối tượng như đối tượng của nhận thức luận thông thường, cho nên không thể dùng tư duy suy luận bình thường để diễn đạt (vì vậy nên Kinh Duy Ma còn gọi là kinh Bất Khả Tư Nghị). Khi dùng ngôn ngữ để khẳng định nó là gì thì cũng có nghĩa đồng thời phủ nhận nó không phải là cái đó. (Khẳng định tức là phủ định). “Bất nhị” của Kinh Duy Ma xem ra có nhiều điểm tương đồng với “Đạo” của Lão Tử trong Đạo đức kinh.

Trong Đạo đức kinh, ngay từ chương mở đầu, Lão Tử đã chỉ ra tính hạn chế của ngôn ngữ:

“Nếu Đạo mà có thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt thì đó không còn là Đạo nữa. Tên gọi được quy định thì tên gọi đó cũng có thể thay đổi. “Vô” là chỉ trạng thái lúc trời đất còn hỗn tạp, “hữu” là chỉ trạng thái tồn tại của vạn vật. Cho nên “vô” là bản chất của Đạo, “hữu” là đầu mối của Đạo. “Vô” và “hữu” là cùng một nguồn gốc nhưng tên gọi khác nhau. Có thể nói “vô” và “hữu” hàm nghĩa rất sâu xa, vô cùng sâu xa, là nơi xuất phát huyền diệu của mọi sự vật trong trời đất”. (道可道非常道,名可名非常名。无名天地之始,有名万物之母。故常无欲以观其妙,常有欲以观其徼。此两者同出而异名. 同谓之玄, 玄之又玄众妙之门).

Khi nói về "Đạo" Lão Tử trước tiên cũng lưu ý rằng "Đạo" không phải là cái có thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt, bởi vì nó không phải là đối tượng nhận thức thông thường (Đạo khả đạo phi thường Đạo). Ngay ngôn ngữ mà người ta thường sử dụng cũng không phải là bất biến. Đại Trí Độ Luận, quyển 12 cũng cho rằng ngôn ngữ là cái mà con người dùng để chỉ về cái gì đó, nhưng tên gọi đó không phải là tự bản thân cái được gọi mà chỉ là một cái 'tên"(danh) mà con người gán cho nó mà thôi. Vì vậy đó cũng chỉ là cái "tên", hoàn toàn có thể thay đổi. Đại Trí Độ Luận gọi đó là “tồn tại nhờ ở tên gọi” (giả danh hữu 假名有)(2).

Trong kinh Duy Ma, chương Nhập bất nhị pháp môn, nhiều vị Bồ tát đã đề cập đến những cặp phạm trù về bản thể luận, chẳng hạn như Danh Pháp Tự Tại Bồ tát đề cập đến sinh-diệt, Thiện Nhẫn Bồ tát với nhất tướng-vô tướng, Thiện Ý Bồ tát với sinh tử-Niết bàn, Bồ tát Phất Sa đề cập đến triết lý nhân sinh thiện-ác cụ thể hơn cả. Tuy nhiên có thể thấy rằng giữa bản thể luận và triết lý nhân sinh không cách xa là mấy. Có thể nói bản thể luận là cơ sở vững chắc cho triết lý nhân sinh của Phật giáo. Triết lý nhân sinh, hay đạo đức luận của Phật giáo dựa vào “bản thể luận” (Ontology), còn triết lý nhân sinh hay đạo đức luận của Nho giáo lại thường dựa vào “chính trị luận”. Cho nên tính nhân bản của đạo đức Phật giáo rộng hơn nhiều so với Nho giáo. Đạo đức của Phật giáo là hướng về chúng sinh còn đạo đức của Nho giáo là hướng về giai cấp thống trị. Đó là trở ngại lớn nhất mà giai cấp phong kiến thống trị muốn hướng đạo đức Phật giáo phục vụ cho mục đích chính trị của mình.

Thực ra, ngay bài giảng đầu tiên của Đức Phật Thích Ca về Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát Chính đạo cũng đã thể hiện quan hệ chặt chẽ giữa bản thể luận và triết lý nhân sinh. Thực ra thế giới đang tồn tại không phải hoàn toàn như con người nhận thấy. Nó dựa lẫn vào nhau để tồn tại (duyên khởi) cho nên không có tự tính (tự tính không 自性空). Nói cách khác, thế giới này là "không" (sunya) là sự phủ định đối với tồn tại. Phải chăng đó cũng là đặc điểm của nhận thức luận phương Đông. Trong khi phương Tây cần đáp án "Nó" là cái gì, thì ở phương Đông lại muốn biết "Nó" không phải là cái gì. Thế giới tồn tại quanh ta không phải là cái như ta nhìn thấy, như ta biết. Nó không phải là cái gì trường tồn, bất biến để con người luôn bám lấy, luôn "chấp trước". Trăm năm của một kiếp người cũng chỉ như cơn gió thoáng qua, cho nên Cao Bá Quát xem nó như một cảnh phù du:

Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy,

Cuộc phù du trông thấy cũng nực cười.

Kể cũng nực cười thật, bởi vì có người tính đi tính lại cuộc đời tưởng đâu là to tát nhưng kỳ thực chỉ loay hoay với mấy tờ giấy chứ có gì đâu! Mới đẻ ra cất tiếng khóc chào đời, cha mẹ chạy cho tờ giấy khai sinh, lớn lên tò te đi học kiếm được vài chứng chỉ học lực, ra đời kiếm được vài tờ giấy bạc, cố gắng một chút may ra được vài tờ giấy khen… và đến khi nhắm mắt xuôi tay thì được tiễn đưa về bên kia thế giới bằng vài tờ giấy vàng mã…

Phan Bội Châu cũng ngậm ngùi vì tính ngắn ngủi của nó:

Nhân sinh như bóng đèn,
Như mây nổi,
Như gió thổi,
Như chiêm bao…

Cuộc đời quả thật chóng vánh, nhưng giá trị cuộc đời là gì, sống như thế nào là “phải đạo”, hình như chẳng mấy ai có điều kiện quan tâm đến bởi vì thiên hạ mải lo kiếm tiền. Thời buổi kinh tế thị trường ngoài đồng tiền, ngoài GDP ra còn gì quan trọng hơn mới được chứ? “Tiền” quan trọng đối với cuộc sống thật đấy, không có tiền lấy gì để sống?. Thiên hạ vất vả ngược xuôi, trăm phương nghìn kế để chiếm đoạt nó, thậm chí bất chấp cả làm ăn phi pháp. Tiền vạn năng thật, nó có thể đưa con người đến với quyền cao chức trọng, đến vinh hoa phú quý và đương nhiên là cũng có thể đưa con người vào quan tài để “suy ngẫm” về giá trị cuộc đời.

Thực ra, trên thế gian này tất cả đều là “không” (sunya), kể cả bản thân con người (ngã). “Ngã” do ngũ uẩn hợp thành cho nên cũng là “không” (vô ngã). Nếu Pháp “không”, Ngã “không” thì Tâm làm sao có thể vướng víu, hệ lụy vào hiện tượng nào đó trong cuộc sống được? Chẳng phải kinh Kim Cương đã lưu ý rằng “đừng để tâm phải phiền muộn vào bất cứ việc gì” (Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm). Tuệ Trung Thượng Sĩ cho rằng thiền và “vô tâm” cũng chỉ là một mà thôi:

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

(Đứng trước ngoại cảnh không để tâm vướng víu vào đâu cả. Nếu làm được như vậy thì không cần phải hỏi thiền là gì).

Tuy nhiên, “pháp” và “ngã” cũng không phải hoàn toàn là “không”. Pháp môn “bất nhị” chẳng phải đã chỉ ra rằng “không” và “có” không phải là hai (bất nhị) đó sao?

Nhân đây cũng cần nói thêm về sự tương đồng giữa kinh Duy MaĐạo đức kinh. Trong Đạo đức kinh, chương thứ 40, Lão Tử nói:

Phản giả đạo chi động, nhược giả đạo chi dụng. Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô. (返者道之动, 弱者道之用. 天下万物生於有, 有生於无). Có nghĩa là: Quay trở vềxu hướng vận động của Đạo. Mềm là biểu hiện của Đạo. Mọi vật trong thiên hạ sinh ra từ cái có (hữu), còn "hữu sinh ư vô" thường được dịch là "cái có sinh ra từ cái không" (vô), hoặc có người dịch là "cái trông thấy sinh ra từ cái không trông thấy"(1). Thực ra “hữu”, ”vô” không có nghĩa là trông thấy và không trông thấy. Người ta có thói quen tư duy thường tách đôi sự vật, chẳng hạn như giữa “có” và “không”, nếu theo quan điểm “bất nhị” thì sẽ nhận thức “có” và “không” của Lão Tử một cách chính xác hơn. Vậy nên “hữu sinh ư vô” là không phải “hữu” mà cũng không phải “vô”. Trong chương mở đầu Lão Tử chẳng phải đã nói rất rõ rằng “hữu”, “vô” chỉ là hai tên gọi khác nhau nhưng cùng xuất phát từ Đạo (đồng xuất nhi dị danh). Vậy thì làm gì có cái sinh trước để rồi sinh ra cái kia?

Nếu như thế gian này tuyệt đối là “không” vậy thì đó là đáp án có tính phủ định tuyệt đối. Phủ định cũng tức là khẳng định (Spinoza), cho nên phủ định tuyệt đối cũng là khẳng định tuyệt đối. Nếu vậy thì triết lý nhân sinh của Phật giáo quả thậtbi quan. Cuộc đời này chỉ là con số không chẳng có gì đáng kể. Thật ra không phải như vậy, triết lý của pháp môn “bất nhị” không phải là “không” mà là không - “không” (hay còn gọi là diệu hữu). Con ngườichúng sinh đều tồn tại trong thế giới hiện hữu (giả tướng) đó. Từ Bát Chính đạo đến Lục độ, Thất giác chi, Tứ niệm xứ… đều khuyên con người phải sống có ích, trung thực, chuyên cần, tinh tiến trong thế giới hiện hữu đó. Thiền tông cho rằng “Phiền não thị Bồ-đề” (phiền não tức là giác ngộ), “giải thoát” không phải ở xuất thế gian mà chính là ở thế gian phiền não này. “Tùy duyên” (Yathapratyaya) là triết lý nhân sinh tuyệt diệu của Phật giáo được học giả nghiên cứu về Phật giáo đánh giá rất cao. “Tùy duyên” là “thuận theo tự nhiên”, “khô ải tùy tha khô ải, phồn vinh tùy tha phồn vinh” (khô héo cứ mặc cho nó khô héo, phồn vinh cứ mặc cho nó phồn vinh), tự tại siêu việt mọi hữu vô, sinh tử, được mất, cùng thông…

Sống tùy duyên theo đời vui với đạo.

(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, Tuệ Trung Thượng Sĩ).

Phương châm sống của các Thiền sư thời Lý-Trần là “dĩ nghịch vi thuận”, nghĩa là sống theo đời nhưng không phải theo với đời.

Cuộc sống của con ngườichúng sinh đều được quý trọng như nhau. “Bất nhị” cũng có nghĩa là không phân biệt, là bình đẳng. Đại từ điển Phật học (Đinh Phúc Bảo) giải thích về quan niệm bình đẳng (bình đẳng quan) như sau:

“Đó là một tên gọi khác của thuyết “tam quán” của Thiên Thai tông. Nếu như phủ định cái hiện hữu (giả hữu) và chỉ khẳng định “không” (không quán) thì như vậy cũng chưa thể gọi là quan niệm bình đẳng. Nhận thức được cái hiện hữu (giả quán) không phải là như nó có, cho nên lấy “không” (không quán) để hóa giải cái giả hữu đó. Bây giờ lại biết được rằng “không” không phải là “không” (không phi không), bỏ cái “không” về với cái hiện hữu (giả hữu). “Không”, “giả” bổ sung nhau, như vậy mới gọi là quan niệm bình đẳng”.

Quan niệm về bình đẳng thường xuyên được đề cập đến trong nhiều kinh Phật, chẳng hạn như:

Kinh Kim Cương: “Pháp vốn là bình đẳng không phân cao thấp”. (是法平等不分高下).

Kinh Hoa nghiêm: “Kỳ lạ thay! Kỳ lạ thay! Chúng sinh trên thế gian này đều có trí tuệ, đức tướng Như Lai, nhưng vì vọng tưởng, chấp trước cho nên chưa thể chứng đắc mà thôi”. (奇哉!奇哉! 大地众生皆有如来智慧德相, 但以妄想挚著不能证得).

Kinh Niết Bàn: “Hết thảy chúng sinh đều có Phật tính. Những ai có Phật tính đều có thể thành Phật”. (一切众生皆有佛性, 有佛性者皆可成佛).

Kinh Phạm võng: “Ta là người đã thành Phật, còn các ngươi là người chưa thành Phật đó thôi”. (我是已成佛, 汝是未成佛).

Qua từng ấy kinh Phật nói trên cũng có thể thấy rằng, trên thế gian này hiếm có học thuyết hay tôn giáo nào lại quan tâm, lại thiết tha với vấn đề bình đẳng xã hội như Phật giáo. Chẳng phải "bình đẳng" và "tự do" là khát vọng lớn nhất của nhân loại từ trước đến nay và từ nay về sau đó sao? Chẳng có đạo đức chân chính nào lại có thể phát triển bền vững trong một xã hội không có bình đẳngtự do. Quan niệm bình đẳng thường được nhắc đến nhiều ở các Thiền sư thời Lý-Trần. Không có quan niệm bình đẳng thì làm sao có được "trên dưới một lòng", không có quan niệm bình đẳng thì cũng sẽ không có Bến Bình Than, Hội nghị Diên Hồng, không có quan niệm bình đẳng thì cũng sẽ không có hai chữ "sát Thát" trên cánh tay của hết thảy chiến binh đời Trần, không có quan niệm bình đẳng thì cũng không có Yết Kiêu, Dã Tượng, không có quan niệm bình đẳng thì không thể ba lần đánh tan quân Nguyên, đội quân thiện chiến đã từng chinh phục Trung Quốc, nhưng không thể nào chinh phục nổi Việt Nam.

Bản thể luận hay triết học Phật giáo là cơ sở cho đạo đức luận tồn tại và phát triển bền vững. Học giả Trung Quốc thừa nhận triết học Phật giáo cao hơn triết học Trung Quốc một bậc, cho nên Phật giáo Trung Quốc chú trọng nghiên cứu về triết học hơn là về thực hành tôn giáo. Có lẽ vì vậy nên Tống Nho đã triết học hóa Nho giáo để củng cố cho đạo đức luận của họ. "Lý-khí" chính là cơ sở bản thể luận của đạo đức luận lễ nghĩa. Tuy nhiên, đạo đức Nho giáo đến Tống Nho lại có khuynh hướng đạo đức - chính trị, khác với Nho giáo nguyên thủy thiên về chính trị - đạo đức. Tống Nho xem đạo đức chỉ là phương tiện, còn chính trị mới là mục đích. Đạo đức hòa tan vào chính trị và hướng về mục đích củng cố chế độ đẳng cấp phong kiến. Trong khi đó đạo đức luận đầy tính nhân bản của Phật giáo rộng hơn đạo đức luận của Tống Nho cả về không gian lẫn thời gian.

Đạo đức luận nhân bản của Phật giáo dựa vào bản thể luận, dựa vào quan điểm triết học, bao gồm pháp môn "bất nhị" đã tồn tại trên ngàn năm lịch sử. Tuy nhiên, giá trị của nó vẫn không hề suy giảm, nhất là khi mà "ngã mạn" và "ngã chấp" đang trở thành thuộc tính cố chấp của con ngườithời đại ngày nay.

Hà Thúc Minh

(1) Chữ Hán trích ở trên là dựa theo bản dịch Hán ngữ của Kumarajiva. Xin tham khảo bản dịch Anh ngữ của Robert A.F. Thurman: Then the crown prince Manjusri said to the Licchavi Vimalakirti: “We have all given our own teachings, noble sir. Now, may you elucidate the teaching of the entrance into the principle of nonduality!”. Thereupon, the Licchavi Vimalakirti kept his silence, saying nothing at all. The crown prince Manjusri applauded the Licchavi Vimalakirti: “Excellent! Excellent, noble sir! This is indeed the entrance into the nonduality of the Bodhisattvas. Here there is no use for syllables, sounds, and ideas.” (Vimalakirti Sutra, The Dharma Door of Nonduality). (2) Đại Trí Độ Luận, q.12 đề cập đến “hữu”, “vô”, cho rằng có 3 loại nhận thức về “hữu” (tồn tại) đó là: 1. Tồn tại trong tương quan (tương đại hữu); 2. Tồn tại nhờ tên gọi (giả danh hữu); 3. Mỗi sự vật đều tồn tại (Pháp hữu). (3) Đạo Đức Kinh, Từ Thụ, Lưu Hạo chú dịch, An Huy nhân dân XBX, 1993.

.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22897)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13952)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54953)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9059)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14343)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14083)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13811)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36153)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19775)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18095)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19099)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19044)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20192)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31379)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15848)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14895)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14611)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35794)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20950)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21472)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34164)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19404)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18820)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22831)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20086)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18271)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19737)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34308)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54356)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37549)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21043)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17797)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63456)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17280)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49478)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27259)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20169)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18811)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16251)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17795)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20850)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17270)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14388)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16785)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16283)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15925)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17388)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21857)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15008)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13407)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15297)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12588)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13274)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27314)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12425)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13114)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14405)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16128)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12326)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12806)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12131)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21508)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11203)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14940)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46044)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22321)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14378)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12519)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43704)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56807)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47343)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13565)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14466)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28876)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33171)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38251)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15328)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31099)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40211)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43244)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46469)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14315)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant