Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tranh Chăn Trâu Đại ThừaThiền Tông

22 Tháng Sáu 201413:26(Xem: 11193)
Tranh Chăn Trâu Đại Thừa Và Thiền Tông

Tranh Chăn Trâu Đại ThừaThiền Tông

Thích Tuệ Sỹ


phatdayluyentamnhuchantrau-contentMỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn. Mãi đến từ đời nhà Tống, thế kỷ XII, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện từ các tòng lâm, thiền viện, phản ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập. Như vậy là không phải chỉ có một bộ, mà nhiều bộ “mục ngưu đồ” khác nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo Bắc Tông. Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu THANH CƯ và QUÁCH AM.

Tuy có nhiều bộ tranh, nhưng bộ nào cũng như bộ nào, đều có 10 bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một bài chú giải bằng văn xuôi. Đó là về hình thức. Còn về tinh thần thì tranh tuy có nhiều, nhưng có thể xếp thành hai loại : loại tranh theo khuynh hướng Đại Thừa, và loại tranh theo khuynh hướng Thiền Tông. Trong hai loại, tranh vẽ sai khác nhau hết, nhưng bài tụng và chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi.

A. TRANH ĐẠI THỪA

I. TRANH

Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.

Đó là tượng trưng cho phép tu TIỆM. Theo phép tu tiệm thì phải rất nhiều công phu mới tiến lên được từng nấc thang giác ngộ ; nhờ công phu, cái tâm vọng lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được dìu dắt mà con trâu hoang lâu ngày chầy tháng thuần thục lần, và trắng lần lớp da đen dơ dáy :

Nhật cửu công thâm thỉ chuyển đầu
Điên cuồng tâm lực TIỆM điều nhu
(Công phu chầy tháng mới quay đầu
Tâm loạn lần hồi chịu thuận nhu)

Còn về thứ lớp thì bộ tranh Đại Thừa nào cũng mở đầu bằng bức họa vi mục (chưa chăn) vẽ con trâu hoang, và khép lại bằng bức họa song dẫn, vẽ một vòng tròn tượng trưng cho Viên Giác. “Song dẫn” là dứt hết cả hai : trâu và mục đồng, tâm và cảnh, dứt được hết là hiển hiện ánh Chơn Như lung linh trong màu cỏ nội hoa ngàn:

Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
hoa phương thảo tự tùng tùng

nghĩa :

Người trâu chẳng thấy biệt mù tăm
Trăng sáng soi trùm muôn tượng không
Ví hỏi vì sao đoan đích ấy
Um tùm cỏ nội với hoa đồng

Chúng ta có thể thưởng thức vài bộ tranh chăn trâu loại Đại Thừa nầy trong cuốn Judo International của Liên Đoàn Nhu Đạo Pháp quốc, do Jagarin sao lục lại và có dịch luôn các bài tụng và chú; trong Phật Học Tinh Hoa của giáo sư Nguyễn Duy Cần (phần phụ lục) ; trong pho sách cổ “Mục ngưu đồ” bằng chữ Hán tại thư viện chùa Xá Lợi ; trong tập “Học làm Phật” của thầy Trường Lạc (chùa Linh Chưởng ấn hành, 1964) trong ấy có đủ mười bài thơ chăn trâu Đại Thừa, vừa nguyên tác vừa bản dịch của Tuệ Nhuận.

II. NỘI DUNG

Đề tài chung của các loại tranh chăn trâu là đường lối tu tập. Đường lối tuy nhiều, song không ngoài việc bắt tâm. Nên thập mục ngưu đồ có thể coi như là lời giải đáp cho câu hỏi trong kinh Kim Cương :

“Vân hà hàng phục kì tâm ?”
(Làm sao làm chủ được cái tâm?)

Tâm ở đây là con trâu. Vì có trâu nên có mục đồng. Vì có tâm nên có cảnh. Tất cả cố gắng của Đại Thừa đều nhắm vào sự “cột” trâu, tức là “điều tâm” vậy. Tâm là con trâu hoang. Muốn trị nó phải dùng những biện pháp mạnh, như đánh bằng roi, xỏ mũi bằng giây lòi tói v.v… Cũng vậy, muốn trị tâm, cần quy y, giữ giới cấm, phát tâm bồ đề v.v… Lâu ngày chầy tháng, trâu trở nên thuần thục, tâm trở nên điều hòa. Đó là bước đầu, diễn tả bằng năm bức họa đầu : “vị mục, sơ điều, thọ chế, hồi thủ và tuần phục”. Đó là giai đoạn của GIỚI vậy, mở đường cho ĐỊNH phát sanh trong giai đoạn kế.

Trong giai đoạn nầy, tâm đã tuần phục, khỏi phải chăn giữ. Tâm đã định, không gặp gì chướng ngại.

Tâm địnhngã chấp hết, song vẫn còn pháp chấp.

Đó là bước tu chứng của hàng tiểu thừa (thanh vănduyên giác) diễn đạt bằng hai bức họa “vô ngại” và “nhiệm vận”.

Cần đi thêm bước nữa, khai thác HUỆ giác đến chỗ TÂM vô TÂM :
“Nhân vô tâm, ngưu diệc vô tâm”.

Đến đây mới phá được pháp chấp : pháp cũng không, mà ngã cũng không, trâu cũng mất mà người cũng mất, cảnh cũng quên mà tâm cũng quên. Trước hết trâu mất còn người. Rồi người cũng mất luôn. Đó là cảnh giới của Bồ tát, diễn tả bằng hai bức họa “tương vong” và “độc chiếu” :

“Tâm cảnh song vong nãi thị chân pháp”.

Từ đó, đi thêm bước nữa vào cảnh giới Như Lai, không nói được nên lời, mà chỉ có thể hình dung bằng một vòng tròn : Viên Giác. Đó là ý nghĩa của bức tranh chót (song dẫn) khép lại quá trình tu chứng theo TIỆM GIÁO, đi từ giới đến định và huệ, từ thanh văn, duyên giác đến bồ tát, Phật, từ hữu tâm đến tâm và vô tâm, từ chỗ tất cả đều có đến chân pháp đều không v.v… Đó là vô dư Niết Bàn.

Tóm lại, “Thập mục ngưu đồ” vẽ lại quá trình công phu của người học đạo, trước hết tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri, cuối cùng chỉ để tự tại thôi (être simplement). Cái vòng tròn cuối cùng (tranh 10 : song dẫn) tượng trưng sự đoạn tuyệt với tất cả những nếp suy tư của chúng ta, cắt đứt hẳn một trạng thái ý thứchiện hữu mà thường chúng ta không được biết”.
(J. L. Jagarin : Le Judo International)

B. TRANH THIỀN TÔNG

tranh_chan_trau_thien_tongI. TRANH

Tranh Thiền Tông có loại vẽ con trâu đen, có loại vẽ con trâu trắng. Trâu trắng là ý nói “bạch ngưu xa”, xe trâu trắng, tức là Phật thừa. Đạo Phậtba thừa – ba cỗ xe – là xe dê, xe nai và xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giácbồ tát ra khỏi nhà lửa mà thành đạo. Tuy nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện giả lập lên, những hóa thành, những pháp môn tiếp dẫn dùng cho người kém khí lực. Đối với hạng thượng căn thì chỉ một thừa thôi – Phật thừa – trực tiếp đưa người vào cảnh giác. Phật thừa là “bạch ngưu xa”. Bạch ngưu xa, chính là cái tâm đại giác viên mãn của Phật. Thiền Tông chủ trương trực tiếp thành Phật là vậy.

Tuy nhiên, lý thuyếtlý thuyết, loại tranh vẽ trâu trắng vẫn hiếm hoi, ít thưởng thức bằng loại tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi, mộc mạc, gần cuộc sống hơn.

Dầu trắng hay đen, con trâu Thiền đều giữ nguyên vẹn một màu lông qua các giai đoạn biến chuyển. Đó là phép tu ĐỐN. Đốn giáo dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, “hoát nhiên” mà thành, không phải thành lần hồi, theo cấp bực ; xưa nay chưa hề có Phật cấp bực bao giờ (Bổn lai vô thứ đệ Phật – Hy Vận), nên người ta hoặc là Phật, hoặc không là Phật, chớ không thể suýt thành Phật, Phật chút chút, lai rai được.

Còn về thứ lớp thì tranh Thiền Tông nào cũng mở đầu bằng bức họa tầm ngưu, vẽ một chú mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong hình) và khép lại bằng bức họa nhập triền thùy thủ (buông tay vào chợ) vẽ một nhà sư trộn lẫn cùng thế tục.

Riêng về cái vòng tròn Viên Giác nằm ở bức họa thứ 10 của Đại Thừa, qua bên Thiền Tông lại thụt lùi về hàng thứ 8, mà đề là nhân ngưu câu vong, nghĩa là trâu và người đều quên. Bảng đối chiếu sau đây cho ta thấy sự sai khác nhau giữa hai loại tranh, về hình thức cũng như về nội dung :

TRANH ĐẠI THỪA TRANH THIỀN TÔNG

1. Vị mục : chưa chăn 1. Tầm ngưu : tìm trâu
2. Sơ điều : mới chăn 2. Kiến tích : thấy dấu
3. Thọ chế : chịu phép 3. Kiến ngưu : thấy trâu
4. Hồi thủ : quày đầu 4. Đắc ngưu : được trâu
5. Tuần phục : vâng chịu 5. Mục ngưu : chăn trâu
6. Vô ngại : không ngại 6. Kỵ ngưu qui gia : cỡi trâu về nhà
7. Nhiệm vận : tha hồ 7. Vong ngưu tồn nhân : quên trâu còn người
8. Tương vong : cùng quên 8. Nhân ngưu câu vong : người trâu đều quên
(vẽ vòng tròn)
9. Độc chiếu : soi riêng 9. Phản bổn hoàn nguyên : trở về nguồn cội
10. Song dẫn : dứt cả hai 10. Nhập triều thùy thủ : thõng tay vào chợ
(vẽ vòng tròn)

Chúng ta có thể thưởng thức loại tranh này tại chùa Tam Tông Miếu, đường Cao Thắng Sài Gòn ; tranh vẽ lớn trên tường bằng sơn dầu, tại chánh điện ; tuy nét bút thiếu cổ kính, tranh cũng phản ảnh phần nào cái thiền phong ngày trước.

Ngoài ra, chúng ta có thể tìm xem nhiều loại khác trong các tác phẩm sau đây của hội Phật học Luân Đôn, do giáo sư Thiền học Suzuki biên soạn :

- The Ten Oxherding Pictures,
- Manual of Zen Buddhism,
- Essays in Zen Buddhism, First Series.

Còn một loại tranh khác, rất cổ kính, in bằng mộc bản, do Paul Reps sưu tập trong tác phẩm Zenflesh Zen bones (Thiền cốt Thiền nhục), xuất bản tại Nhật (Ed. Charles E. Tuttle Co – Rutland Vermont – Tokyo Japan – 1957). Chính từ tác phẩm này chúng tôi trích in lại mười bức họa sau đây.

II. NỘI DUNG

Cũng như ở hầu hết các pháp môn khác, vấn đề đặt ra cho Thiền vẫn là sự “hàng phục kỳ tâm”. Tâm của Đại Thừangã tướng. Đến Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm. “Tôi tư duy, tức có tôi”. Niệm là ý nghĩ, là tư duy, là intellect, được coi là phần tử cốt cán của cái “tôi”. Nên Thiền dạy vô niệm, dạy cắt đứt suy tư, bất cứ suy tư gì :

vô niệm : niệm tức chánh
hữu niệm : niệm thành tà
(Pháp bửu đàn kinh)

Do đó Thiền kỵ hý luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng hoặc có nói thì thường chỉ nói bằng lối phi lý luận. Trong quá trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng của Đại Thừa đập vào óc thông minh ưa lý luậnloài người chúng ta hằng tự phụ.

***

Trong hệ thống các pháp môn, Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy được tánh là tức khắc thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây này.

Tuy nhiên, pháp môn nào cũng có tu và có chứng. Chứng là một biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một sự thật quá ư thật, như tiểu sử nhiều thiền tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên, cũng vẫn những tiểu sử ấy còn cho ta thấy trước khi được đốn ngộ, hầu hết các tổ, và trước hết là Phật Tổ, đều trải qua nhiều đoạn đường dọ dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều thời gian mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác : tu thì tiệm mà chứng thì đồn.

***

THẬP MỤC NGƯU ĐỔ của Thiền Tông cũng ghi lại bước tiến từng bực ấy trong thời giankhông gian.

Chúng tôi xin trình bày bước tiến ấy theo ba đoạn đường : sai tâm bắt tâm – tâm vô tâmbình thường tâm.

1. SAI TÂM BẮT TÂM

Chú mục đồng đi tìm trâu (tranh 1). Tìm ở đâu ? Đâu cũng là hoang vu, là rừng rậm, là nẻo dọc đường ngang, chỉ có tiếng ve kêu rộn rã đầu cành.

Rồi chú thấy dấu chân trâu (tranh 2), thấy thân trâu (tranh 3). Thì ra trâu có mất đi đâu, tại chú không thấy đó thôi. Trâu vẫn đứng đó một mình, tự thuở nào, đôi sừng lẫm liệt, mũi đụng mây xanh.

Rồi chú chụp lấy trâu (tranh 4), rồi xỏ mũi, cột cổ, đập đánh, canh chừng không rời mắt, quyết dõng mãnh để mà chiến thắng. Lần lần trâu thuần tánh ngoan ngoãn theo chú như bóng theo hình (tranh 5). Rồi chú cỡi trâu về nhà, miệng thổi sáo, hát líu lo, lòng vui không nói được (tranh 6 : kỵ ngưu quy gia).

Cỡi trâu về nhà là cỡi tâm về chỗ ban sơ.

Người ta đi tìm trâu vì trong đôi giây phút khác thường nào đó, người ta đâm ngờ bản thân mình, cũng như ngờ những điều mắt thấy tai nghe. Có nghi mới có tìm. Có tìm ắt gặp dấu. Gặp dấu trong kinh sách, và nhất là trong những phút trống trải, cảnh vắng, đêm tàn, trí óc nhẹ suy tư, con người bỗng dưng như đối diện với chính mình trong một niềm đau thương và kỳ thú khó nói.

Thế là bắt được dấu, con người phăn mối đi tìm trâu. Đó là giai đoạn ngoại cầu. Ngoại cầu là “khiến Phật đi tìm Phật, sai tâm đi bắt tâm” (Hy Vận). Tâm ở đâu mà bắt ? Thử coi : lần lượt qua sáu bức họa, ta thấy khoảng cách giữa trâu và người chăn trâu cứ thâu ngắn lại mãi cho đến rốt cuộc người chăn trâu ngồi hẳn trên lưng trâu, trâu với người nhập làm một. Vậy nên hỏi rằng tâm ở đâu chẳng khác nào hỏi trâu ở đâu trong khi chính ta đang cỡi trên lưng trâu. Ta đã đuổi bắt tâm khắp đó đây, rốt cuộc mới nhận ra rằng tâm ở nơi ta ; ta chỉ cần dừng bước lại là nó hiện liền trước mắt, và sự vật hiện nguyên hình trong ánh sáng mới lạ.

Dừng bước lại : ai ngờ đâu cái việc làm hết sứcvô vi ấy lại có một thần lực nhiệm mầu có thể thay đổi cả cuộc diện của một kiếp người, cả một lớp người. Nếu thỉnh thoảng loài người chúng ta biết dừng chân lại vài phút, ngồi im một chỗ vài phút – vài phút thôi – thì khuôn mặt của thế gian nầy chắc không đến đỗi quá nhăn nhíu như ngày nay.


2. TÂM VÔ TÂM

Tuy nhiên, còn tâm là còn cảnh. Còn cảnh thì còn “xúc cảnh sanh tình”. “Tình sanh thì trí cách”. Tâm, cảnh, tình kết dính vào nhau trong cái thế liên hoàn, cái vòng nhơn duyên gây ray rứt, mâu thuẫn.

Đạo không có mâu thuẫn. Thiền là “bất nhị pháp môn”, không hai mà cũng không một.

Mâu thuẫn là do tâm, do niệm.

Ta niệm vì ta tưởng rằng mình thiếu một cái gì, nên đi tìm ở ngoài mình để đắp vào. Thiền dạy rằng ta không thiếu gì hết, tự đời thuở nào ta vốn là tròn đầy, ngàn trước, ngàn sau. Ta không thiếu. Trái lại ta có dư : cái hại là ở đó. Ta dư đủ thứ do niệm đặt bày ra, do suy tư vẽ vời thêm, đủ thứ. Những cái dư ấy, gọi chung là vô minh. Vô minh vốn không thật, nên không ai hoài công mà trừ nó bao giờ, mà chỉ cần tự tri tự giác thôi. Tự biết được “con người thật” của mình thì vô minh tan mất, như bóng tối tan trước vừng dương. Phật dạy trong kinh Viên Giác :

tri huyễn tức li, li huyễn tức giác là vậy.

Cũng vậy, khi sư Huệ Khả ra mắt tổ Đạt Ma xin pháp an tâm, Tổ dạy : Người đem “tâm” lại đây ta “an” cho. Sư lính quýnh hồi lâu, sau đành thú thiệt : Con tìm mãi mà không thấy được tâm. Tổ dạy : Thầy đã “an” rồi cái “tâm” của con đó.

Như vậy, cái việc mà ta quen gọi là phá vọng không còn là một việc làm nữa – nếu không nói là một việc làm VÔ VI – mà xét cùng ra chỉ là một sự nhận thức thôi, một prise de conscience – nhận thức tánh Phật bổn lai ở trong ta.

Vậy, sau giai đoạn ngoại cầu, tiếp theo là giai đoạn tự tri tự giác. Tự tri không phải bằng suy niệm mà bằng dứt niệm; dứt niệm bằng những phép tu tập rất vô vi, như tịnh quán chẳng hạn. Bằng tịnh quán, con người thấy, – xin nói rõ là thấy, là kiến, là tri kiến, chớ không phải là học, là nghĩ, hay nghe nói, (tất cả bí quyết của sự chứng ngộ đều nằm ở chữ thấy đó) – thấy tâm không thật, thấy người không thật.

Thấy tâm không thật thì tâm dứt : trâu quên (tranh 7 : vong ngưu tồn nhân).
Thấy người không thật thì người quên nốt (tranh 8 : nhân ngưu câu vong).

Người và trâu đều quên, thì tự lòng đất dõng mãnh vọt lên mặt trời huệ, tượng trưng bằng cái vòng tròn Viên Giác (tranh 8). Đó là Tâm vô Tâm. “Biết cái tâm là không tâm, ấy là hiểu suốt đạo Phật”.

Sau đây, chúng tôi xin mượn lời giáo sư Thiền học Suzuki đóng lại đoạn nầy :

”Đứng về mặt tâm lý, giác là vượt ra ngoài vòng ràng buộc của bản ngã”.
“Về mặt lý luận, giác là viên dung có và không”.
“Về mặt siêu hình, giác là trực ngộ được cái lẽ tự tạiluân hồi, luân hồi là tự tại”.

3. BÌNH THƯỜNG TÂM

Thiền cho rằng vô tâm chưa phải là đạo, mà còn phải qua một quan ải nữa:

Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm do cách nhất trùng quan.
(Trần Thái Tôn)

Thật vậy, trong đêm cuối cùng, khi đức Phật ngồi ở cột bồ đề, Ngài lần lượt xuất gia và nhập ba từng cảnh giới tâm linh (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) tức là Ngài đang chứng được cái tâm vô tâm. Song Ngài còn phải thức tỉnh dậy nữa, nhờ ánh sao mai, để mà trở về ý thức bình thường. Từ trạng thái “nhân cảnh câu đoạt”. Ngài phải trở về trạng thái “nhân cảnh câu bất đoạn” (Cảnh và người đều giữ nguyên.Chữ của Thiền Lâm Tế trong pháp “tứ liệu giản”) để trả lại tất cả cho cuộc sống thường nhiên.

Trở vềtrở về với trời đất, với muôn sinh, với nguồn sống vô tận ở trong ta và ở ngoài ta, trở về để, như mọi người, “thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.

Trở về với trời đất – Trở về với trời đất, với Pháp giới : đó là ý nghĩa của bức họa số 9, đề “Phản bổn hoàn nguyên”, và vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.

Tự đời thuở nào, con người vốn là thanh tịnh, vốn là không, nên Thiền dạy khỏi phải làm hết, chỉ cần thấy tánh là được trở về để mà nhập cuộc.

Nhập cuộc là nhập vào cái trật tự tự nhiên, không thỉ không chung của trời đất.

Trong trật tự ấy, chúng sanh là một pháp vô tâm nên vô sự. Viên sỏi bên đường là một pháp vô sự nên vô vi. Muôn pháp đều vô vibình đẳng nhau trong pháp giới vô ngại : nước chảy, hoa trôi, trăng lên, gió mát. Muôn vật đều vô ngại nên tự tại, không phải tự tạiNiết Bàn, không phải tự tại trong phiền nãotự tại trong KHÔNG : Niết Bànphiền não chỉ là trò ảo thuật của tâm. Trong trạng thái KHÔNG ấy, những danh từ thánh phàm phải trái, tỉnh mê, đều mất nghĩa, tất cả đều là đại đồng, ứng hóa từ một giác tánh, nên :

Nhất thiết không Niết Bàn
Không có Niết Bàn Phật
Không có Phật Niết Bàn
(Lăng Già)

TẤT CẢ là MỘT. MỘT là TẤT CẢ

Một hột bụi chứ đủ ba ngàn thế giới. Bà ngàn thế giới là một hột bụi: đều là KHÔNG.

“Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không.
Nhìn xem bóng nguyệt giòng sông,
Ai hay không có có không là vầy”.
(Huyền Quang tôn giả)

Đó là cái thấy của hàng bồ tát “quán tự tại”, nghĩa là quán đến chỗ cùng tột và tuyệt đối của sự vật.

Trở về với thế tục -… Dưới lớp áo của thế tục, đạo sĩ trộn lẫn vào cát bụi của tình đời. Vả, cát bụi cũng không thấy là bợn dơ nữa, mà chỉ còn là một diệu dụng, như hằng sa diệu dụng khác, của Giác Tánh Bồ Đề. Đạo sĩ không phải là Phật, là Bồ Tát, mà chỉ là một người thường, rất thường, một người vô tâm vô sự, vô tích sự, một người không là gì hết, một “vô vị chân nhân”.

“vào rừng không khua ua lá
vào nước không quậy sóng”
(nhập lâm bất động thảo
nhập thủy bất lập ba)

Trở về với thế tụctrở về với cái tâm bình thường. Thiền dạy : “Bình thường tâm thị đạo”.

Quốc sư Phù Vân đời nhà Trần nói :

“Lấy cái muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình.
Lấy cái tâm của thiên hạ làm cái tâm của mình”.

Cái muốn ấy chính là cái muốn mà đức Khổng Tử phải chờ đến bảy mươi tuổi mới dám muốn, sau khi chứng lý “vô ngã” :

“Thất thập tòng tâm chi sở dục”.

Chứng được đạo lý ấy thì làm gì cũng hiệp đạo, “không theo không lìa, không dừng không dính, tung hoành tự tại, đâu phải là đạo tràng” pháp nào là Phật pháp, đi đứng nằm ngồi cũng là Phật pháp, chém rắn giết mèo cũng là Phật pháp, đói ăn khát uống cũng là Phật pháp.

Cho nên Tổ Huệ Trung Trần Quốc Tảng, mới ung dung ngồi ăn thịt cá, khiến bà em là hoàng hậu Khâm Từ lấy làm lạ hỏi :

- Anh đi tu mà lại ăn cá thịt sao thành Phật được?

Ngài cười đáp :

- Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm ra Phật, cũng như Phật chẳng cần làm ra anh. Hoàng hậu chẳng nghe Cổ Đức nói “Văn Thù là Văn Thù, mà giải thoát là giải thoát” đó ư ?

Cho nên vị sư trong THẬP MỤC NGƯU ĐỔ thõng tay đi vào chợ, tay ôm bầu nước, tay chống gậy tre, đánh bạn với bợm nhậu và phường thọc huyết heo – “tụi nó và thầy đều là Phật cả mà” (tranh 10). Đó là vô trụ Niết Bàn.

KẾT LUẬN

Để gom hết yếu lý chung của mười bức tranh chăn trâu, chúng tôi xin chép lại bài kệ sau đây thay lời kết luận :

Tầm ngưu tu phóng tích
Học đạo quí vô tâm
Tích tại, ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm

Nghĩa :

Tìm trâu cần phăn dấu
Học đạo cốt vô tâm
Dấu đâu thì trâu đó
Vô tâm đạo dễ tâm

Phước Châu Đại An hỏi :

- Tôi khao khát hiểu pháp Phật, đó như cái gì ? Bách Trượng đáp : Hệt như cỡi trâu tìm trâu.

Hỏi : Hiểu rồi thì như thế nào ?
Đáp : Như người cỡi trâu về nhà.

Hỏi : Rồi làm sao giữ cho trước sau khế hợp ?
Đáp : Như người chăn trâu cầm roi giữ trâu mình đừng phạm đến lúa mạ của người.

______________

PHỤ LỤC
Thi tụng và Họa của các Thiền Sư về Tranh Chăn Trâu .

TUỆ SỸ soạn tập

Giới thiệu

Theo chỗ tôi biết, tác phẩm này đã được soạn từ lâu, nhưng một số các bài thi tụng chưa được tìm thấy đầy đủ, nên tác giả có ý để dành lại. Bây giờ, sửa chữa hay thêm thắt không còn là vấn đề nữa. Nó là một di cảo.

Thuở sinh tiền, tác giả có nói chuyện với tôi về các bài thi tụng, nhưng tôi chưa kịp mang đến tác giả tiện bề tham khảo. Nay, tôi cố gắng sưu tập chúng, in vào phần phụ lục này, gọi là một chút tưởng nhớ.

Tài liệu này, tôi rút ra từ Tục Tạng Kinh bản chữ Vạn, quyển 113, phần “Thiền tông trước thuật bộ”. Trong đó, có ba bản cùng một tiêu đề chung là Thập ngưu đồ tụng.

Bản thứ nhất, gồm mười hai thi tụng của Quách Am, luôn cả những bài họa của Thạch Cổ hòa thượngHoại Nạp Liễn hòa thượng, với một bài tựa do chính Quách Am viết, và những lời dẫn về các bức tranh, cũng của Quách Am (Quách Am ; Pháp hiệu Sư Viễn, phủ Thường Đức, Lương Sơn, dòng Lâm Tế, đời thứ 15 kể từ Nam Nhạc trở xuống, Sư là đệ tử của Đại Tùy Tĩnh thiền sư).

Bản thứ hai, tiêu đề riêng là Tân khắc Thiền tông Thập ngưu đồ, do Hồ Văn Hoán soạn tập. Bản này chép những bài vịnh của Phổ Minh thiền sư, và các bài họa của Vân Cái. Ngoài các bức tranh chăn trâu, Hồ Văn Hoán còn cho in cả các bức tranh về “Khổ lạc nhân duyên”, mà theo lời ông, ghi trong bài tựa, cả hai loại tranh hình như cùng có một ý nghĩa như nhau, là thuật luyện Tâm. Cuối cùng là một bài thơ “Tổng Đề” của Hồ Văn Hoán. Bài thơ ấy như sau :

Quán bãi ngưu đồ diệc liễu nhiên
Tái quan khổ lạc hữu nhân duyên
Giả nhiêu bán tánh phi Không hậu
Tất cánh viên quang bất hiện tiền
Đả phá Thiền cơ Tam hữu Phật
Thoát ly ác thú phục tàng thiên
Yếu tri thử diệc phi nan sự
Thí bả công phu trước nhất tiên.

Bản thứ ba, gồm các bài họa tụng của 15 thiền sư về vịnh chăn trâu của Phổ Minh thiền sư. Bản này có một bài tựa của Chu Hoằng, một bài tựa của Đô Lịch đạo nhân, một bài tựa và danh sách các thiền sư hoa tụng của Như Niệm Không. Cuối cùng còn in riêng mười bài về tranh trâu trắng của Cự Triệt thiền sư. Điều đáng để ý là, trong bản này, có nhiều chữ bị mất, mà Hội Phật giáo Trung Quốc in lại năm 1957 đành bỏ trống.

Trong phụ lục này, tôi dịch tất cả các bài đã được kể trên. Trừ bài tựa của Hồ Văn Hoán, chỉ dịch một nửa, lược bỏ đoạn đề cập về tranh “Khổ lạc Nhân duyên”. Độc giả sẽ thấy các bài tựa này cung cấp khá nhiều chi tiết liên quan đến tranh chăn trâu. Do đó, tôi chỉ dịch mà không dẫn giải. Ngoài ra, tôi dịch trọn mười bài tụng của Quách Am, mười bài vịnh của Phổ Minh, và mười bài về tranh trâu trắng của Cự Triệt. Những bài khác lược bỏ.

Dịch mà không dẫn giải, còn một lý do khác. Ngoài lý do, những gì cần nói, đã được tác giả của tập sách nói rất đầy đủ, về hình thức, nội dung cũng như gốc gác của các loại tranh chăn trâu ; và tài liệu của các bài tựa được dịch cũng nói rất nhiều ; ở đây, lý do riêng của tôi là tránh làm rối loạn một di cảo, khiến cho sai lạc bản ý của tác giả. Vả lại, đến bây giờ, tôi vẫn không rõ những tài liệu mà tôi dịch ở đây có phải những gì mà tác giả cần có hay không. Vì tôi chưa có thời gian để học lại tác giả, nay thì không bao giờ có thể hỏi được nữa.

Tôi chỉ mong việc làm này, nếu không cần thiết theo bản ý của tác giả, thì cũng không đến nỗi làm lạc ý của tác giả. Như thế gọi là có thể tưởng nhớ được một chút tình tri ngộ của tôi đối với tác giả, kể từ khi cộng tác cho tạp chí Vạn Hạnh, và trong những năm cùng dạy học tại Viện Đại Học Vạn Hạnh. Vậy, mong độc giả dành cho Phụ lục này một vị trí khiêm nhượng trong tập sách, để khỏi phụ lòng tác giả.

Tu Viện Quảng Hương, VII, 1972

_______________

MƯỜI BÀI TỤNG CHĂN TRÂU
Của Hòa Thượng Quách Am
TỰA

Chúng sanh vốn đã có sẵn cái nguồn suối Chân tánh của chư Phật : nếu mê, phải chịu trôi lăn trong tam giới, nếu ngộ, tức khắc vượt ngay ra ngoài cõi tứ sinh. Do đó, có kẻ thì thành Phật, có hạng thì làm chúng sinh.

Các bậc hiền triết xưa, với tấm lòng thương yêu, đã bằng mọi cách dựng lên lắm đường đi. Về Lý, thì vượt những méo mó hay tròn đầy ; về Giáo nêu cao Đốn hoặc Tiệm. Từ thô sơ cho đến tinh tế, từ cạn cợt cho đến sâu sắc, cuối cùng, trong một chớp mắt, đóa sen xanh đã gợi lên nụ cười chúm chím của Đầu đà (Ca Diếp). Chánh pháp nhãn tạng từ đó chảy cùng khắp thiên thượng nhân gian, cõi này và cõi khác. Ai nắm được Lý của nó, thi siêu tông vượt cách, như đường chim không vết tích. Ai chỉ nắm được Sự của nó, tất lặn lội trong vũng ngôn từ, như con linh qui lết đuôi trong bùn lầy vậy.

Gần đây, có Thanh Cư thiền sư, ngài quán sát căn khí của chúng sinh, theo bệnh mà cho thuốc, soạn những bức tranh chăn trâu, tùy cơ trình bày giáo nghĩa. Từ buổi đầu, dần dần trắng, nêu rõ lực lượng còn yếu kém. Lần hồi, đến chỗ thuần chân, biểu trưng cho căn cơ đang tỏa dần. Cho tới lúc, người và trâu không còn thấy nữa, đó là tiêu biểu cho yếu lý rằng Tâm và Pháp thảy đều quên hết và cũng tiêu biểu cho giáo pháp nói rằng đã thấu suốt căn nguyên rồi vậy. Còn để lại cái nón lá, do đó, khiến cho kẻ căn khi thấp kém ngờ vực, bậc trung và bậc hạ phân vân. Hoặc ngờ nó rơi vào cõi hư vô, hoặc cho là nó rớt vào cái chấp thường hữu.

Nay xét ra, ngài thiền sư phỏng theo mô phạm của các đấng tiền hiền, rút ra từ lưng túi của mình làm mười bài thi tụng tuyệt tác, những luồng sáng giao nhau phản ảnh. Bắt đầu từ chỗ lạc mất, cuối cùng đến chỗ hoàn nguyên ; khéo léo phù hợp với mọi lớp căn cơ, lòng từ xa rộng cứu cơn đói khát. Do đó, tìm tòi diệu nghĩa, lượm lặt huyền vi, như kiếm đồ ăn cho sứa, làm mắt sáng cho loài cua biển. Bắt đầu từ việc tìm trâu, cho đến lúc đi vào chợ, thật như là đất bằng sóng dậy, đầu bỗng mọc thêm sừng. Tâm còn chẳng có để mà mò, thì làm gì có trâu để phải kiếm. Đậu lại nơi chỗ vào chợ, sao mà quỷ quái thế ? Thế là còn làm cho các ông không biết tai vạ, con cháu chẳng biết đâu mà lường. Đây, tôi thử hoang đường soạn ra đề xướng.

I.- MẤT TRÂU

DẪN – Xưa nay đâu có mất, săn tìm chi ? Bởi, quay lưng với Giác mà thành ra lỏng lẻo ; sấn bước vào Trần nên mới bị mất đi. Từ đó, quê hương càng lúc càng diệu vợi, mà đường sá lại gập ghềnh. Cái lẽ được và mất đã cháy bừng bừng ; phải và quấy mọc lên tua tủa.

TỤNG

Mang mang bát thảo khứ truy tầm
Thủy thoát sơn diêu lộ cánh thâm
Lực tận thần bì vô mịch xứ
Đản văn phong thụ vãn thiền ngâm

Nức lòng vạch cỏ rong tìm
Non xa nước rộng đường chim mịt mù
Sức cùng dạ mỏi tìm mô ?
Rừng phong bóng ngả nghe hồ ve ngâm.

II.- TÌM TRÂU

DẪN – Mò kinh để thấy nghĩa, học giáo để tìm ra tung tích. Rõ, bao khí dụng chỉ một chất vàng, hết thảy tạo vật là chính ta cả. Chính tà khỏi lựa, chân ngụy khỏi phân. Bởi chưa vào được cửa đó, nên mượn tiếng kêu là “thấy dấu”.

TỤNG

Thủy biên lâm hạ tích thiên đa
Phương thảo li phi kiến dã ma
Túng thị sơn thâm cánh thâm sứ
Liêu thiêu khổng tị tạc tàng tha

Dấu chân dọc bến ven rừng
Cỏ non chằng chịt biết chừng đâu đây ?
Non kia cứ vẫn xa dầy
Trời cao mũi hẹp dấu mày được ư ?

III. – THẤY TRÂU

DẪN – Theo tiếng mà vào, ghé mắt là thấy. Cửa sáu căn tỏ rõ không nhầm ; ngay nơi động dụng rành rành hiển lộ. Chất mặn trong nước, chất xanh trong màu. Vén lông mày lên, là nó chứ ai !

TỤNG

Hoàng li chi thượng nhất thanh thanh
Nhật noản phong hòa ngạn liễu thanh
Chỉ thử cánh vô hồi thị xứ
Sâm sâm đầu giác họa nan thành

Vàng anh trên ngọn líu lo
Gió reo nắng ấm bên bờ cỏ xanh
Chỗ này thôi hết chạy quanh
Đầu sừng rối rắm khó thành vẽ lên.

IV.- ĐƯỢC TRÂU

DẪN – Từ lâu, vùi lấp ngoài đồng hoang, hôm nay đã gặp mi. Bởi cảnh đẹp nên khó lòng đuổi, đắm say cỏ non hoài mãi không thôi. Cứng đầu còn quá lắm, tính buông lung chưa hết. Muốn cho chịu khép mọi bề, cần cho roi vọt.

TỤNG

Kiệt tận thần thông hoạch đắc cừ
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư

Trăm đường mới chộp được mi
Cứng đầu hăng tiết chưa qui thuận nào
Thoảng khi dắt đến gò cao
Lại trông mây nổi dạt dào buông lung.

V.- CHĂN TRÂU

DẪN – Niệm trước vừa khởi, niệm sau tiếp theo. Bởi đã Giác nên thành Chân. Bởi tại mê, hóa ra vọng. Chẳng phải lo cảnh mà có, nhưng chính do tâm mà sinh. Xỏ mũi, cùm đầu, không chần chờ gì nữa.

TỤNG

Tiên sách thời thời bất li thán
Khủng y túng bộ nhập ai trần
Tương tương mục đắc thuần hòa dã
Cơ tỏa vô ức tự trục nhân

Cây roi mang sẵn kè
Ngại y tung vó theo bè trần ai
Sửa lưng, mày đó ta đây
Trói chân cho kỹ, mày quây đường nào ?

VI.- CƯỠI TRÂU VỀ NHÀ

DẪN – Đã hết cuộc can qua, đã rồi câu được mất. Hát bài ca đồng của anh đốn củi, thổi điệu khúc quê của chú bé con. Vắt mình trên trâu, mắt mở nhìn mây vời vợi. Kêu réo, không quay đầu ; kéo lôi, cũng chẳng dừng bước.

TỤNG

Kỵ ngưu đà lê dục hoàn gia
Khương địch thanh thanh tống vãn hà
Nhất phách nhất ca vô hạn ý
Tri âm hà tất cổ thần nha

Lưng trâu bước chậm ta về
Sáo lên vi vút ngoài tê ráng chiều
Vừa ca vừa nhịp hiêu hiêu
Tri âm rồi khỏi ra điều nọ kia

VII. - QUÊN TRÂU CÒN NGƯỜI

DẪN – Pháp không là pháp phân hai, mắt trâu là tông chỉ. Mượn tiếng “bẩy thỏ” để dụ cho dị danh; lấy chữ “dò cá” để nêu cái sai biệt. Như vàng ròng rút ra từ đống quặng ; như trăng tỏ vén khỏi cụm mây. Một đạo hàn quang qua khỏi kiếp Uy Âm vô thủy.

TỤNG

Kỵ ngưu dĩ đắc đáo gia sơn
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn
Hồng nhật tam can do tác mộng
Tiên thằng thông độn thảo đường gian

Lưng trâu thoắt đã quê mình
Buông trâu mất hút mặc tình thong dong
Nắng cao còn đượm giấc nồng
Quăng roi nhà cỏ hết dùng nữa thôi

VIII. – NGƯỜI TRÂU ĐỀU QUÊN

DẪN – Buông bỏ tình phàm, thì ý Thánh cũng không. Chỗ có Phật cũng không thèm rong chơi, chỗ không Phật cũng không thèm ngó lại. Không vướng đầu này hay đầu nọ, không liếc xéo nơi này hay nơi kia. Hàng trăm con chim ngậm hoa, thẹn sao là thẹn !

TỤNG

Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không
Bích thiên liêu quách tín nan thông
Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyệt
Đáo thử phương năng hiệp tổ tông

Người, Trâu, roi vọt đều không
Trời xanh vời vợi mù trông chốc mòng
Tuyết khoe trắng giữa than hồng
Cội nguồn quê quán tao phùng một phen

IX.- PHẢN BẢN HOÀN NGUYÊN

DẪN – Bản lai thanh tịnh, không vướng một mảy trần. Quán sát vẽ tươi và héo của những gì là hữu tướng, an thân trong cảnh ngưng tịch của đạo vô vi. Không đồng với huyễn hóa, cần gì phải tu, phải trị. Nước biếc, non xanh, ngồi mà xem cuộc thành bại.

TỤNG

Phản bản hoàn nguyênphí công
Tịnh như trực hạ nhược manh lung
Am trung bất kiến am tiền vật
Thủy tự mang mang hoa tự hồng

Mắt công mò lại cội nguồn
Trắng trong một dải ra tuồng điếc đui
Trong am không thấy cõi nào
Ngoài kia hoa thắm nước trào mênh mông

X.- VÀO CHỢ BUÔNG TAY

DẪN – Khép cánh cửa sài, một mình một bóng, dù Thánh Hiền vạn cổ cũng không hay. Chôn vùi cái văn vẻ của riêng ta, bỏ lại lối mòn của cổ đức. Mang bầu vào chợ, chống gậy về nhà, hàng rượu hàng cá, dạy cho thành Phật hết.

TỤNG

Lộ hung tiễn túc nhập triền lai
Phù thổ đồ hôi thiếu mãn tai
Bất dụng thần tiên chân bí quyết
Trực giao khô mộc phóng hoa khai

Lưng trần chân đất chợ người
Cát lầm bụi vẫn ta cười say sưa
Thần tiên bí quyết cũng thừa
Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng.

____________

ĐỀ TỤNG CỦA PHỒ MINH THIỀN SƯ
TỰA của Phật tử Hồ Văn Hoán.

Tân khắc Thiền tông thập ngưu đồ

Tranh chăn trâu, vốn được Thiền tông dùng để thí dụ cho sự tu tâm chứng đạo. Mục đồng, tức là Người ; Trâu chỉ cho Tâm. Vòng ánh sáng tròn tức là Người và Tâm đã đến chỗ thuần nhất, chứng được đạo Bản Nhiên.

Tâm, là cái ai mà chẳng có. Có thì phải biết cách sửa trị. Đạo, người nào lại không sẵn. Đã sẵn, tất phải làm sao để chứng. Nhưng, lẽ đó đâu phải riêng nơi Thiền tông mới có, để thí dụ. Bọn ta dù là theo Nho, cũng đồng với lẽ ấy. Cũng chẳng phải riêng gì bọn Nho chúng ta mới đồng với lẽ ấy, mà mọi người trong thiên hạ thảy đều đồng. Nói gọn lại, từ đầu đền cuối không khác nhau. Lẽ này quá rõ. Nhưng lần hồi ta bị vật dục che lấp mất, cho nên cam phận trâu bò cũng chẳng bằng vậy. Trâu mà còn có thể dạy nho thuần, trong khi, Tâm mà bảo rằng không thể sửa, quả là điều chưa từng có.

TỰA của Chu Hoằng

Kinh Di giáo nói: “Y như chăn trâu, cầm gậy canh chừng, không để nó buông lung phạm vào lúa mạ của người ta”. Thế thì, thuyết chăn trâu bắt nguồn từ đó.

Kế tiếp theo, có Mã Tổ. Ngài hỏi Thạch Củng: “Chú làm gì đây?” Đáp “Chăn trâu”. Lại hỏi: “Chăn như thế nào?” Đáp: “Mỗi khi nó chạy a vào đồng cỏ, thì xỏ mũi kéo lui lại, thế là người chăn giỏi”.

Lại nữa, ngài Đại Qui An, vốn ở tại Qui Sơn, có nói: “Tôi nương nơi Qui Sơn, nhưng không học Thiền Qui Sơn, mà chỉ chăn một con trâu”.

Lại nữa, ngài Bạch Vân Nghĩa Đoan hỏi vặn Quách Công Phu rằng ? “Trâu thuần chưa?”

Tự mình chăn, hay dạy kẻ khác chăn, đã thấy lũ lượt có, xưa nay cũng khá nhiều, thật là rành rõi. Về sau mới có người vẽ thành tranh. Bắt đầu từ lúc chưa chăn, cho đến lúc cả hai đều mất hút, trình bày thành mười chặng, và trâu cũng theo thứ tự, từ đen đến trắng, cuối cùng không còn màu trắng tinh ròng nào để mà tả nổi. Ngài Phổ Minh lại kèm theo mỗi chặng một bài tụng.

Phổ Minh, chưa rõ gốc gác là ai. Tranh và tụng cũng chưa rõ có phải do tay của một người hay không. Nay không bàn chuyện đó. Chỉ xét các bức tranh, biểu tượng thì rất rõ mà ý chỉ lại sâu sắc. Còn các bài tụng, lời gần gũi nhưng ý xa xôi. Người học cầm lấy mà làm bản đồ, để xét lại đức của mình hầu thành đạt sự nghiệp. Cúi xuống, xét chỗ thành tựu của mình ; ngửa lên, trông vào chỗ chưa đến để đến. Khỏi mắc chừng được ít đã cho là đủ, sa đọa vào tính kiêu mạn tự phụ. Như thế, giúp ích được rất nhiều. Tôi liền sao lục, cho đúc lại các bản gỗ. Ngoài ra, có bộ tranh vẽ, từ chỗ “tìm trâu” đến chỗ “vào chợ” gồm mười bức, đại đồng tiểu dị với bộ tranh này. Thêm nữa, cứ theo sự phân biệt của giáo điển về thứ lớp tiến tu, có thể so sánh mà biết. Tôi cho in phụ vào cuốn sách để tiện tham khảo. Nếu là kẻ một phen vượt lên là vào thẳng, không mất công roi rọt, mà trâu đã trắng rõ thiên nhiên, không phải theo thứ bậc, trong khoảnh khắc năng và sở cùng tuyệt hết, với người đó, tranh hóa ra đồ bỏ, và tụng cũng thành lời thừa, xem qua chắc chẳng khỏi một trận cười. Tôi không ép.

Niên hiệu Vạn lịch, năm Kỷ dậu, ngày Như Lai khánh đản, kẻ hậu học, CHU HOẰNG, kính cẩn viết TỰA.

TỰA của Độ Lịch

Ôi chao! Trọn cả trái đất là một con trâu của Phổ Minh, chỗ nào còn có Phật và chúng sinh nữa? Không cách biệt mảy may, vốn là Như Như. Nếu nói rằng, trâu này có đen có trắng, có đực có cái, có đói có no, chỉ là một Thể mà được phân làm hai, thì, khi đức Thế Tôn mới sinh, chỉ trời chỉ đất, đi một vòng, mắt dòm dõ, phạm vào lúa mạ người ta không phải ít. Tổ sư Tây đến, chỉ thẳng Tâm người, thấy tánh thành Phật, đã ăn cỏ uống nước của người ta quá nhiều. Ba huyền yếu, bốn liệu giản, năm vị quân thần, chín mươi sáu viên tướng, chịu hết roi vọt, cho đến dộng chày dựng phất, hươi gậy la hét, đủ mọi cách dùng, lông lá rụng cả, bốn vó lún dấu, để cho một cổ trâu trốn chỗ nào chả biết. Đến chỗ này thì, lớp quan ải dày đã bị phá, thử nói, bên trên kia còn có sự gì chăng ? Cầm phất tử vẽ viên tướng, bảo rằng: “Trong lửa trâu gỗ cày mây trắng, trong mây ngựa đá dỡn gió xuân”. Hiểu hay không hiểu? Xin xem các bài tụng chăn trâu, và các vần họa của chư phương ; rút lại, có chỗ nào hơn kém hay không?

Lâm Tế chánh tông, đời thứ 32, Độ Lịch đạo nhân Nghiêm Đại Tham kính cẩn đề tựa.

TỰA của Như Niệm Không

(Viết cho các bài tụng tranh chăn trâu của Phổ Minhphụ họa tụng của các Đại Thiền sư).

Ngài Vân Thê Liên Trì đại sư (Chu Hoằng), soạn bản gỗ cho các bài tụng gốc của Phổ Minh, có viết Tựa nói : “chưa biết Phổ Minh là ai”. Thế thì, cũng không rõ đạo tràng của sư ở đâu vậy.

Năm tân sửu (1661), mùa đông, tôi về làng làm việc. Năm Nhâm Dần (1662), mùa hạ, cư sĩ Đạc Lịch mang đầu mối của Phổ Minh và các bức tranh trong chùa cũ ra cho xem, mới biết nhân duyên ở đây. Cư sĩ đã khôi phục lại nền móng của chùa, ban đầu mời Huyền Vi thiền sư, kế đến mời Ngài Minh Nham, chùa chiền sáng rỡ, phòng liêu dẫy đầy, tương lai có cơ thành hang sư tử. Tôi tìm thấy các bài tụng của chư phương, vui mừng không thể tả, bắt chước cũng họa theo, và đem tranh cùng các bài họa tụng hiệp thành một quyển để lưu thông.

MỤC LỤC các bài họa tụng

Văn Cốc đại sư
Thiên Ẩn thiền sư
Phá Sơn thiền sư
Vạn Như thiền sư
Phù Thạch thiền sư
Ngọc Lâm thiền sư
Nhược Am thiền
Sơn Tỳ thiền sư
Huyền Vi thiền sư
Hương Tràng pháp chủ
Đạc Lịch cư sĩ
Như Niệm đạo nhân què
Vô Y đạo nhân
Mục Công đạo nhân
Cự Triệt thiền sư (phụ các bài tụng trâu trắng)
Khang Hy nguyên niên (1662), tháng mạnh thu, ngụ Bát Nhã đưng, Như Niệm Không, kính tường.

__________

THI TỤNG của PhỒ MINH THIỀN SƯ

I.- CHƯA CHĂN

Sanh nanh đầu giác tứ bào hao
Bôn tẩu khê sơn lộ chuyển dao
Nhất phiến hắc vân hành cốc khẩu
Thùy tri bộ bộ phạm gia miêu

Đầu sừng hung bạo kêu la
Ngược xuôi rừng suối đường xa dặm ngàn
Mây đen một dải ngoài hang
Lân la từng bước gậm càn mạ non

II.- MỚI DẮT

Ngã hữu mang thằng mạch tị xuyên
Nhất hồi bôn cạnh thống gia tiên
Tùng lai liệt tánh (khuyết ba chữ)
Do đắc sơn đồng tận lực khiên

Dây thừng xỏ mũi ta lôi
Một phen bứt chạy, lằn roi nặng nề
Vốn xưa dở tánh (…….)
Bây giờ chú mục sẵn kề một bên

III.- CHỊU KHÉP

Tiệm điều tiệm phục tức bôn trì
Đồ thủy xuyên vân bộ bộ tùy
Thủ bả mang thằng vô thiểu hoãn
Mục đồng chung nhật tự vong bì

Dần dà chịu khép mọi đường
Băng mây vượt nước dặm trường có nhau
Nắm dây ta giữ lấy đầu
Một ngày mệt lả ra mầu nhởn nhơ

IV.- QUAY ĐẦU

Nhật cửu công thâm thủy chuyển đầu
Điên cuồng tâm lực tiệm điều nhu
Sơn đồng vị khẳng toàn tương hứa
Do bả mang thằng thả hệ lưu

Ngày qua tháng lại lần khân
Hung hăng cuồng dại mấy phần chịu buông
Chú chăn ghé mắt trông chừng
Trong tay còn vững dây thừng chưa lơi

V. NGOAN NGOÃN

Lục dương âm hạ cổ khê biên
Phóng khứ thâu lai đắc tự nhiên
Nhật mộ bích vân phương thảo địa
Mục đồng quy khứ bất tu khiên

Dương xanh rủ bóng bên nguồn
Buông đi kéo lại ra tuồng thảnh thơi
Cỏ non, nắng quái, mây trời
Chú chăn thả bước tay lơi sợi thừng

VI.- KHÔNG NGẠI

Lô địa an niêm ý tự như
Bất lao tiên sách vĩnh vô câu
Sơn đồng ổn tọa thanh tùng hạ
Nhất khúc thăng bình lạc hữu dư

Giữa trời ru giấc thong dong
Khỏi công roi vọt, nhọc lòng kéo lôi
Cội từng chú mục ngồi chơi
Sáo lên vi vút nối lời vu vơ

VII. – BỎ MẶC

Liễu ngạn xuân ba tịch chiếu trung
Đạm yên phương thảo lục nhung nhung
Cơ xan khát ẩm tùy thời quá
Thạch thượng sơn đồng thùy chánh nồng

Làn xuân, nét liễu tà dương
Khói un cỏ biếc trông chừng dặm xa
Đói ăn khát uống la đà
Gối tay trên đá người ru giấc nồng

VIII. QUÊN NHAU

Bạch ngưu thường tại bạch vân trung
Nhân tự vô tâm ngưu diệc đồng
Nguyệt thấu bạch vân vân ảnh bạch
Bạch vân minh nguyệt nhiệm tây đông

Mây trời, trâu trắng một màu
Lòng người thơ thẩn, lòng trâu hững hờ
Bóng trăng qua lớp mây đưa
Mây treo cõi bắc, trăng tà cõi đông

IX. MỘT BÓNG

Ngưu nhi vô xứ mục đồng nhàn
Nhất phiến cô vân bích chướng gian
Phách thủ cao ca minh nguyệt hạ
Qui lai do hữu nhất trùng quan

Chú chăn thư thả không trâu
Làn mây vời vợi trên mầu non xanh
Vỗ tay ca, bóng trăng ngàn
Nẻo về quê cũ tấc giang ngại gì

X.- VẮNG HẾT

Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung
Minh nguyệt quan hàn vạn tượng không
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
hoa phương thảo tự tòng tòng

Người, trâu vết tích là đâu ?
Trăng buông lạnh lẽo một bầu hư không
Hỏi thăm một lẽ tơ lòng
Kìa xem cỏ nội hoa đồng, chăng nhe ?

______________

CỰ TRIỆT THIỀN SƯ HỌA TRANH TRÂU TRẮNG

I.- MẤT TRÂU

Trâu ở phía tây, mặt hướng về tây.
Mục đồng ở phía đông, mặt hướng về đông.

Ngưu thượng ngưu hề, đồng thượng đồng
Ngưu đồng bối hướng các tây đông
Tiêm trần bất cách hà tiêu nhưỡng
Khoáng kiếp lai kim uổng tự hoăng

Chú, trâu, này chú nọ trâu
Chú, trâu hai ngả hai đầu đông tây
Bụi hồng cách một rèm mây
Thiên thu lơ láo những ngày lang thang

II.- TÌM TRÂU

Chủ nhân hỏi trâu ở đâu?
Mục đồng lơ láo.
Lại có một người từ phía tây đi đến, đưa tay chỉ về xa.

Hốt hương sơn đồng vấn bạch ngưu
Sơn đồng võng thác bất tri cầu
Bàng nhân thức đắc ngưu tung tích
Chỉ điểm sơn đồng cấp chuyển đầu

Thoắt đâu gạn hỏi sơn đồng
Mặt trơ mày dạn biết chừng là đâu
Có người hay được vết trâu
Đưa tay chỉ chú quay đầu về tây

III.- THẤY TRÂU

Chú nhắm phía tây mà chạy ;
thấy có nhiều dấu chân trâu trong đồng ruộng.

Đê hối mạch chuyển hướng khê tây (tê)
Nhất lộ thâm đề gián thiển đề
Đoan đích tân tri tầm cựu thức
Nhân ngư đáo thử lưỡng vô mê

Quanh co đèo suối về tây
Dấu chân rải rác thưa dày chen nhau
Đường kia nỗi nọ cơ cầu
Lần theo vết cũ đã hầu gặp nhau

IV.- THẤY TRÂU

Trâu trắng nằm yên trong đồng ruộng,
đồng tử nôm thấy, vui mừng.

Hạnh tận sơn thôn quá thủy thôn
Hảo trung hốt kiến bạch ngưu tôn
Hân hân ổn bộ phương khinh khoái
Suyễn tức sơ điều dữ tế luân (luận)

Trải bao xóm nước làn mây
Thoắt trông một cổ ở ngoài đồng hoang
Nhẹ chân cất bước vội vàng
Nén hơi kéo lại, nỗi mừng thấp cao

V.- ĐƯỢC TRÂU

Trâu trắng từ từ đứng dậy.
Đồng tử vui vẻ, vuốt ve lưng nó.

Bạt thiệp khê sơn khởi đạn lao
Bạch ngưu đốn hoặch giá di cao
Khoái tâm cửu biệt trùng tương khế
Thiện phủ thung dung hỉ phục thao

Rừng khe bao quản lội trèo
Đã may gặp gỡ già nào trọng hơn
Xa nhau mấy nổi nguồn cơn
Thong dong tay ướm tay nâng vỗ về

VI.- GIỮ TRÂU

Đồng tử rỗi rãi ngồi trên tảng đá.
Trâu trắng uống nước suối bằng thích.

Ngư thích nhân nhàn khước sấu phì
Phong thanh nguyệt bạch cửu vong ki
Ư hương dã lục doanh sơn cốc
Kỉ độ triêu huy ánh tịch huy

Mặc trâu không nại béo gầy
Trăng trong gió mát quên ngày đói no
Hương rừng cỏ núi mịt mù
Buâng khuâng nắng sớm đong đưa bóng chiều

VII.- CƯỠI TRÂU

Bóng chiều gác núi,
trâu trắng về ràng,
mục đầu vắt vẻo trên lưng,
thổi sáo làm vui.

Phóng khoảng kị qui thế sở hi
Liễu ti tiên ảnh nhiệm phong huy
Sơn đồng suy triệt vô sinh khúc
Địch vận như huy nhập cấm vi

Nghêu ngao lưng gối ai tày
Liễu tơ nghiên gió thoáng đầy bóng roi
Sơn đồng thổi khúc vui đời
Tà dương ruổi vận vào nơi cấm đình

VIII.- QUÊN TRÂU

Trăng sáng trên trời,
mục đồng vỗ tay ca hát một mình.

Bạch cổ hồn vong vô thặng trung
Sơ cuồng mục thụ khiếu cô phong
Sơn hà đáo ảnh thiềm thừ chuyển
Ngọc lộ linh linh quang ảnh trùng

Bóng trâu vắng bặt am hao
Mục đồng cao hứng lên gào đỉnh xa
Nước non nghiêng, ánh trăng tà
Mà khuya điểm trắng sương pha lạnh lùng

IX.- VẮNG HẾT

Người và trâu đều không thấy,
chỉ có một vòng tròn.

Lâu các trùng trùng đạn chỉ khai
Bổn vô dư khiếm thất ban tài
Không truyền ngủ thập tam gia xú
Dẫn khước nhân ngưu đại mộng hồi

Khảy tay Lầu các chập chùng
Giàu sang bảy báu chưa từng thiếu dư
Hỏi chi thói Đáo hồ đồ
Giấc mơ Nhân Ngã bây giờ hoàn không

Phụ chú: Thiện tài Đồng tử theo lời dạy của Bồ tát Văn Thù, đã đi hỏi Đạo trải qua năm mươi ba chỗ. Khi đến hỏi Đạo với ngài Di Lặc, trong một thoáng gặp gỡ, Thiện Tài nhớ lại hết cả con đường dài đã trải qua, bất giác nhìn lại hai tay đầy cả hoa trời. Sau đó, ngài Di Lặc dẫn Thiện Tài vào lầu các Vairocona (Quang minh biến chiếu), vừa khảy móng tay, tức thì cánh cửa mở rộng, Thiện Tài thấy mình bước vào một thế giới giao ánh nhau trùng trùng vô tận. Thiện Tài, có nghĩa là người sinh ra cùng lúc với bảy báu cao quí nhất, và người đó từ khi mới sinh đã là bậc sang cả như một hoàng đế của thiên hạ.

Người chăn trâu đến lúc này như đã bước vào Pháp giới vô tận. Từ đây trở xuống, chỉ còn là hiện thần thông du hí tam muộirong chơi trong các cõi luân hồi, như đi vào chợ mà ngao du. Ngao du là chỗ rốt ráo của Bồ tát hạnh, vì nó tượng trưng cho ý nghĩa Vô Sở Trụ : Bồ tát không trụ sinh tử, cũng không trụ Niết Bàn. Chúng sinh lang thang như mục đồng tìm trâu mà không thấy vết tích. Bồ tát cũng lang thang trong trầm luân khổ hải, nhưng thong dong như mục đồng buông tay vào chợ.

X.- VÀO CHỢ

Đồng tử đi trước, hướng về phía Đông
(vì là đang đi vào cõi sinh tử) ;
trâu trắng lẽo đẽo theo sau.

Mại lộng nhàn nhàn bạch cổ ngưu
Nhập triền thùy thủ tứ ngao du
Đồng lưu cửu giới cừu phong độ
Tâm Phật chúng sinh vô biệt cầu

Trâu theo đủng đỉnh mua vui
Buông tay vào chợ dạo chơi phố phường
Gió lành chín cõi đưa sang
Này Tâm, này Phật, này hàng Tử sinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10507)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10124)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20352)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11646)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13780)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19097)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46691)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12087)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11659)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23060)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17833)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10143)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17755)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13925)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14038)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15108)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20290)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18278)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17398)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18162)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12706)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12834)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13407)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17014)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11466)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18274)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18581)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21363)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22132)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16848)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12555)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15322)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24580)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14220)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11636)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19707)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13413)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22796)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18997)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18451)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21616)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20528)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20014)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14060)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15006)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13788)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15099)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17230)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15288)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12811)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15878)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12980)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13130)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15020)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22637)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7148)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19360)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37662)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9161)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8655)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17875)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14865)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27027)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19927)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15264)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15483)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26787)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14559)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19684)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14622)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18653)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15918)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16336)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19352)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19725)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19893)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18601)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29801)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14562)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17751)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32404)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15266)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17305)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29750)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31521)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64683)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32794)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20222)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18511)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30798)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19905)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45892)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32580)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39340)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40432)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50118)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19091)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18550)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20691)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19401)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant