Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương Ii: Phiên Dịch Kinh Điển Về Di-đà Và Tín Ngưỡng Tịnh Độ Thời Kỳ Đầu

11 Tháng Chín 201000:00(Xem: 4654)
Chương Ii: Phiên Dịch Kinh Điển Về Di-đà Và Tín Ngưỡng Tịnh Độ Thời Kỳ Đầu

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC
Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh
Hán dịch: Thích Ấn Hải Hiệu đính: Định Huệ Việt dịch: Giới Niệm

CHƯƠNG II: PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN VỀ DI-ĐÀ VÀ TÍN NGƯỠNG TỊNH ĐỘ THỜI KỲ ĐẦU

Tiết 1: Truyền dịch kinh Bát-chu tam-muội

Phật giáo Trung Quốc do các nước Ấn ĐộTây Vực truyền đến, vì thế điều tất nhiên phải lấy sự phiên dịch kinh điển làm đầu. Sự nghiệp dịch kinhTrung Quốc bắt đầu vào đời vua Hoàn Đế, thời Hậu Hán (147-167), An Thế Cao là vị Tam tạng pháp sư đầu tiên dịch kinh điển. Vào những năm cuối của đời vua Hoàn Đế, thời Hậu Hán có ngài Trúc Phật Sóc và Chi Sấm (Chi-lâu-ca-sấm) đến Lạc Dương dịch ra rất nhiều kinh điển như kinh Bát-nhã…truyền bá giáo lý Đại thừa.

Vào tháng 10 niên hiệu Quang Hòa thứ 2 (179 TL), đời vua Linh Đế, Chi Sấm cùng với Trúc Phật Sóc dịch kinh Bát-chu tam-muội, do Mạnh Phúc và Trương Liên bút thụ, đây tức là thời điểm mở đầu cho việc truyền dịch kinh điển về đức Phật A-di-đà ở Trung Quốc. Kinh này tuy không thuật lại những sự trang nghiêmliên quan tịnh độ của đức Phật A-di-đà nhưng y theo pháp môn chuyên niệm này có thể thấy Đức Phật A-di-đà ở Tây phương, tán dương pháp Minh thị tam-muội thấy Phật. Có lẽ đây là một bộ kinh biên dịch sớm nhất trong các kinh điểnliên quan tới đức Phật A-di-đà. Kinh A-di-đà và kinh Đại A-di-đà …chính là xuất phát từ kinh này nhưng nói tỉ mỉ và đầy đủ hơn mà thôi.

Kinh này ở trong tạng kinh có bốn bản dịch, trong đó hai kinh cùng một nhan đề là Bát-chu tam-muội. Một bộ chỉ có 1 quyển, gồm 8 phẩm; một bộ có 3 quyển, gồm 16 phẩm, đều thấy có ghi tên người dịch là Chi-lâu-ca-sấm, thời Hậu Hán, nhưng một người thì không thể đồng một lúc dịch một bộ thành hai bộ được. Xuất tam tạng ký tập quyển 2 ghi: Thời Tây Tấn, ngài Trúc Pháp Hộdịch kinh Bát-chu tam-muội, 2 quyển, có thể trong đó một bộ do ngài Trúc Pháp Hộ dịch. Lại nữa, có kinh Bạt-pha bồ-tát cũng là bản dị dịch của kinh Bát-chu, kinh này 1 quyển, chưa phân chương phẩm, tên người dịch không truyền, cũng tức kinh Bạt-phi-đà bồ-tát đã ghi ở An công cổ dị kinh lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 3, có thể biết đó là bản cổ dịch vào thời vua Phù Kiên trước đây. Riêng có bộ Đại phương đẳng tập kinh Hiền Hộ phần, một tên là kinh Hiền Hộ, gồm 5 quyển 17 phẩm, ngài Xà-na-quật-đa đã dịch vào đời Tùy, bản kinh này tường thuật rất tinh tế. Lại nữa, Tân tập tục soạn thất dịch tạp kinh lục ở trong Xuất tam tạng ký tập quyển 4 có kinh Bát-chu tam-muội niệm Phật chương gồm 1 quyển và kinh Bát-chu tam-muội khác 1 quyển, kinh Niệm Phật chương, cũng có lẽ là từ trong phẩm Hành sao chép ra, tên kinh khác nhưng cũng chỉ là kinh Bạt-pha bồ-tát mà thôi!

Tiết 2: Phiên dịch kinh Đại A-di-đà và kinh Bình đẳng giác

Đến thời Tam Quốc, đầu niên hiệu Hoàng Vũ (222 TL) đến giữa niên hiệu Kiến Hưng (253 TL) thời Ngô, Chi Khiêm dịch truyền rất nhiều kinh điển. Trong đó, kinh Đại A-di-đà 2 quyển, hiện nay kinh này được thấy trong tạng kinh. Bản nước Cao Ly có nhan đề là A-di-đà tam-da tam-phật tát-lâu-phật đàn quá độ nhân đạo. Ba bản thời Tống, Nguyên, Minh gọi tắt là kinh A-di-đà, từ xưa đến nay vì để phân biệt với kinh A-di-đà 1 quyển của ngài Cưu-ma-la-thập dịch, cho nên gọi kinh này là Đại A-di-đà, cũng tức là bản dịch kinh Vô Lượng Thọ xưa nhất, bộ kinh quan trọng nói về sự phát tâm, phát nguyện của Đức Phật A-di-đà khi còn ở nhân địa và sự trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Lịch đại tam bảo kỷ và Khai nguyên thích giáo lục đều nói: kinh Vô Lượng Thọ, từ thời Hậu Hán về sau từng có người dịch, tức là lần đầu vào thời Hậu Hán, ngài An Thế Cao dịch kinh Vô Lượng Thọ 2 quyển. Kế đó, ngài Chi Khiêm dịch kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác 2 quyển (hiện nay chia làm 4 quyển); lần thứ ba vào thời Tào Ngụy, ngài Chi Khiêm vào thời Ngô dịch kinh Đại A-di-đà; lần thứ tư, ngài Khương Tăng Khải dịch kinh Vô Lượng Thọ 2 quyển; lần thứ năm cũng vào thời Tào Ngụy, ngài Bạch Diên dịch kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác 2 quyển; lần thứ sáu vào thời Tây Tấn, ngài Trúc Pháp Hộ dịch kinh Vô Lượng Thọ 2 quyển.

Nhưng 6 bản kinh dị dịch này, Xuất tam tạng ký tập đã ghi lại chỉ có 2 kinh của ngài Chi Khiêm dịch vào thời Ngô và ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Đông Tấn, hiện tại chỉ còn 2 bộ kinh: Đại A-di-đà và Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác. Vì thế, đến thời Tây Tấn là ngưng, kinh Vô Lượng Thọ có thể có 2 lần dịch, nhưng trong 2 bản dịch này, bản kinh Đại A-di-đà của ngài Chi Khiêm dịch thì trong các kinh lục đều nói như nhau và không có dị luận, còn bản kinh Vô Lượng Thọ của ngài Trúc Pháp Hộ dịch thì có dị thuyết cho rằng rất nhiều người dịch. Như 4 bản khác trong 6 bản dị dịch đã nói ở trên, chính là đã nêu ra ở dị thuyết kia. Lương cao tăng truyện quyển 1 nói: Trong niên hiệu Cam Lộ, thời Tào Ngụy (256-259TL), ngài Bạch Diên dịch kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác; căn cứ Lịch đại tam bảo kỷ quyển 5, Tấn thế tạp lục của Đạo Tổ thời Lưu Tống và Chúng kinh mục lục của Bảo Xướng ghi: trong niên hiệu Gia Bình, thời Tào Ngụy (249-254TL), ngài Khương Tăng Khải dịch kinh Vô Lượng Thọ; cũng trong Chúng kinh mục lục quyển thứ tư, điều mục nói về ngài An Thế Cao, thời Hậu Hán, căn cứ theo Biệt lục thì có thuyết cho rằng kinh Vô Lượng Thọ do ngài An Thế Cao dịch; cũng trong Chúng kinh mục lục điều mục nói về ngài Chi Khiêm, dẫn dụng thuyết trong Ngô lục của ngài Đạo Tổ có thuyết cho rằng kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác do ngài Chi Khiêm dịch; kì thật những kinh này đều không ngoài dị thuyết mà thôi.

Kinh Vô Lượng Thọ của ngài Trúc Pháp Hộ dịch, còn có một tên nữa là Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác mà trong Xuất tam tạng ký tập quyển 2 có ghi rõ. Vì thế trong các kinh lục hoặc ghi là Vô Lượng Thọ, hoặc ghi là Bình đẳng giác, tên kinh tuy khác nhưng kì thật chẳng qua chỉ là một kinh. Đồng thời, Tấn thế tạp lục cho đến Biệt lục đều là dựa vào Tam bảo kỷ thì điều đó thật có giá trị đáng tin không? Nếu chưa thể lí giải được các dị thuyết về những người dịch cùng một bản kinh mà không có một chút phê phán, cứ dễ dàng nào chấp nhận các thuyết, rồi xét theo thời đạiliệt kê ra thứ tự người nào dịch bản thứ nhất, người nào dịch bản thứ hai, cũng khiến người ta cảm thấy đáng buồn cười, cho là ngu muội.

Hiện có trong tạng kinh, y theo thuyết của Tam bảo kỷ, cho đến thuyết của Khai nguyên lục hiện có kinh Bình đẳng giác do ngài Chi Khiêm dịch vào thời Hậu Hán. Thuyết này vốn y cứ vào Ngô lục của ngài Đạo Tổ, nhưng Ngô lục này, đương thời trong Tam bảo kỷ đã thất lạc không còn truyền, do đó, tác giả của Tam bảo kỷ nói là căn cứ vào Ngô lục thì nhất định có sự nghi vấn, mặc dù, đương thời có thể thấy ở trong các văn hiến khác nhưng có lẽ cũng không ra ngoài đa số dị thuyết của truyền thuyết kia, trong dị thuyết được cho là lý do chính đáng nhất. Trong các Kinh lục hiện còn thì có thể nói niên đại của Xuất tam tạng ký tập là xưa nhất và những việc ghi lại trong đó cũng đủ để đáng tin cậy. Do đó, kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác hiện nay được công nhận là do ngài Trúc Pháp Hộ thời Tây Tấn dịch. Nhưng Lương cao tăng truyện ghi là của ngài Bạch Diên, Bảo Xướng lục ghi là của ngài Khương Tăng Khải, đều là những thuyết được lưu hành vào đời Lương, cho nên khó có thể xác định người dịch. Nội dung kinh này ghi lại hầu như đồng nhất với kinh Đại A-di-đà của ngài Chi Khiêm, bản nguyệnnhân vị cũng đầy đủ hai mươi bốn nguyện, nhưng thứ tự văn nguyện và nội dung có chỗ bất đồng thì có thể biết nó chẳng phải đồng một bản Phạn.

Ngoài ra, thời Tam Quốc và thời Tấn cũng dịch nhiều kinh điển nói về bản sinh của Đức Phật A-di-đà như các kinh Huệ ấn tam-muội, Vô lượng môn vi mật trì do ngài Chi Khiêm vào thời Ngô dịch; các kinh Đức Quang thái tử, Quyết định tổng trì, Hiền Kiếp, Chính pháp hoa, Tề chư phương đẳng học, Sinh Kinh, Quang Thế Âm, Đại Thế Chí thụ ký v.v…do ngài Trúc Pháp Hộ vào thời Tây Tấn dịch. Lại nữa, ở Thất Dịch Tạp Kinh Lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 4 có liệt kê có Di-đà Phật kệ 1 quyển, A-di-đà Phật kệ nay đã thất truyền, nhưng Hậu xuất Di-đà Phật kệ vẫn còn ở trong Tạng kinh, gồm mười bốn hàng kệ theo thể ngũ ngôn, trong đó nêu hai mươi bốn nguyện, phải chăng từ bản Phạn dịch ra hay do người Trung Quốc sáng tác thì không thể biết được, nhưng trước thời Lưu Tống đã có, đây là điều không cho hoài nghi.

Tiết 3: Tín ngưỡng tịnh độ thời kỳ đầu

Như đã nói ở trên, ngài Chi Khiêm thời Ngô, ngài Trúc Pháp Hộ thời Tây Tấn kế tiếp nhau dịch các kinh điển về tịnh độ của Đức Phật Di-đà, sau đó, những người đọc tụng những kinh điển này dần dần nguyện cầu vãng sinh Tây phương. Pháp Uyển Châu Lâm quyển 42 dẫn dụng truyện ký trong Minh tường ký kể về Khuyết Công Tắc và học trò của ông là Vệ Sĩ Độ vãng sinh tịnh độ Tây phương. Như trong văn ghi: Khuyết Công Tắc là người nước Triệu. Ông sống đạm bạc, siêng năng làm pháp sự, vào đời Tấn Vũ (265-274TL) ông qua đời ở Lạc Dương. Đạo tục đồng lòng thiết hội ở chùa Bạch Mã. Đêm ấy, đang tụng kinh bỗng nghe trên không trung có tiếng ca tụng, ngưỡng lên thấy một người thân hình to lớn, uy nghi chỉnh tề, người ấy nói: “Tôi là Khuyết Công Tắc, được sinh về thế giới Tây phương An Lạc, nay cùng với các bồ-tát đến nghe kinh”. Đây có lẽ là người tín ngưỡng Di-đà sớm nhất ở Trung Quốc, hiện còn ghi trong tài liệu lịch sử. Luận Niệm Phật tam-muội bảo vương quyển trung của ngài Phi Tích, đời Đường có ghi: Chi Đạo Lâm và Ngu Hiếu Kính thời Đông Tấn đều có viết bài văn Tán ca ngợi Công Tắc.

Lại nữa, trong Minh tường ký ghi: Vệ Sĩ Độ là người Cấp Quận (huyện Cấp, tỉnh Hà Nam) cũng là cư sĩ khổ hạnh. Ông giỏi văn chương, có viết bài sám Bát quan trai, ông qua đời giữa niên hiệu Vĩnh Xương (322TL), thời Đông Tấn và cũng có xuất hiện điềm lạ, có người tạo tượng, viết truyện thánh hiền ghi đầy đủ việc này, nói Vệ Sĩ Độ cũng được sinh Tây phương. Xuất tam tạng ký tập quyển 2 ghi: Vệ Sĩ Độ sống thời Tấn Huệ Đế, có làm toát yếu về kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật đạo hành 2 quyển, đủ cho thấy ông ấy cũng là người tinh thông Bát-nhã.

Lại nữa, năm cuối của thời Tây Tấn có ngài Trúc Tăng Hiển, người đất Bắc, ngài thường lấy sự tụng kinh, thiền định làm sự nghiệp. Cuối niên hiệu Thái Hưng, thời Đông Tấn (321TL), ngài đi về phía nam đến Giang Tả. Sau đó, ngài bị bệnh nặng lâu ngày, vô cùng đau khổ, ngài luôn nghĩ tưởng Tây phương, thấy chân dung Phật Vô Lượng Thọ giáng xuống, ánh sáng chiếu đến thân ngài, sự đau đớn đều thuyên giảm. Sáng hôm sau, ngài ngồi yênthị tịch. Kế tiếp có ngài Trúc Pháp Khoáng, người Hạ Phi (huyện Phi, tỉnh Giang Tô), là đệ tử của sa-môn Trúc Đàm Ấn, sau ngài đến ẩn náu ở thạch thất trong núi sâu, thường cho kinh Pháp hoayếu chỉ của tam hội, kinh Vô Lượng Thọ là nhân của tịnh độ, ngài thường ngâm vịnh hai bộ này, có chúng thì giảng, một mình thì tụng.

Vào niên hiệu Hưng Ninh, thời Đông Tấn (363-365TL), ngài đi về phía đông đến Vũ Huyệt (Núi Uyển Ủy, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang) cùng Hi Siêu, Tạ Khánh Tự kết bạn xuất thế. Những người bệnh trong nhân gian đến cầu ngài chữa trị, phần nhiều đều được lành bệnh. Bấy giờ, sa-môn Trúc Đạo Lân tạc tượng Phật Vô Lượng Thọ, ngài Pháp Khoáng bèn vận động những người có duyên với mình cùng xây dựng đại điện, việc này được ghi ở quyển 5 và quyển 11 trong Lương cao tăng truyện. Trong đó, có nói đến việc Pháp Khoáng giảng kinh Vô Lượng Thọ cho đại chúng nghe. Kinh mà Pháp Khoáng đã giảng, tôi suy đoán có thể là kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác của ngài Trúc Pháp Hộ dịch.

Tóm lại, việc này thật là sự khởi đầu của việc giảng giải kinh điển Di-đà ở Trung Quốc.

Đầu thời Đông Tấn có Chi Độn, tự Đạo Lâm, người Trần Lưu (huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam), vốn có tụng kinh Đạo hành bát-nhã và kinh Huệ ấn tam-muội v.v… cùng với Vương Hiệp, Hi Siêu, Tôn Sước kết bạn xuất thế và ông có trứ tác các sách Tâm du huyền luận, Đạo hành chỉ qui. Thái Hòa nguyên niên (366TL), ông thị tịch, hưởng dương 53 tuổi. Ông đã từng sai thợ tạc tượng Đức Phật A-di-đà, tự soạn bài văn tán, về sau được ghi lại ở quyển 15 trong Quảng hoằng minh tập. Trong bài văn A-di-đà Phật tượng tán và tựa có ghi: “Cuối thời Đông Tấn này có người thờ Phật, giữ giới, tụng kinh A-di-đà, nguyện sinh về nước của Ngài, luôn luôn chí thành, mạng chung có hiện điềm lành, vãng sinh về đó, được thấy Phật, khai ngộ liền đắc đạo”. Đây chính là chỉ cho Chi Độn phúng tụng kinh A-di-đà của ngài Chi Khiêm dịch, y theo kinh này dạy mà phát nguyện cầu vãng sinh tịnh độ.

Lại nữa, tượng Phật của Chi Độn tạc này so với tượng Phật của ngài Trúc Đạo Lân tạc đã nói ở trên, tượng nào tạc trước thì không cách nào phân biệt được. Nhưng tóm lại chỉ biết là từ đầu thời Đông Tấn đã có người tạc tượng Phật A-di-đà.

Lại nữa, văn của Di-lặc bộ trong Pháp uyển châu lâm quyển 16 ghi: “Thời Tấn, nước Tiêu có Đái Quì, tự Đạo An, người nước Tiều trốn sang vùng đất nước Ngô cũ, nghiên cứu Phật giáotạc tượng Phật Vô Lượng Thọ có hai vị bồ-tát đứng hầu, bị nhiều lời bình phẩm nên ông đã gia tâm sửa chữa kỹ càng hơn, suốt ba năm mới thành tựu, một lúc sau thì ông liền nghinh tiếp tượng vào chùa Linh Bảo, ở Sơn Âm (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang). Hi Siêu ở Cao Bình nghe liền đến lễ bái, về sau tượng này phóng ánh sáng lớn, đạo tục ai thấy đều phát tâm bồ-đề.

Tấn thư quyển 94 ghi: “Vào đời Hiếu Vũ Đế, thời Đông Tấn, Đái Quì nhờ Tán kị thường thị, Quốc tử bác sĩ trình bày nhiều lần, kiên trì nhưng không được nên ông bèn trốn sang nước Ngô. Việc này xảy ra khoảng giữa niên hiệu Thái Nguyên (376-395TL).

Lại nữa. Tục cao tăng truyện quyển 29, Pháp uyển châu lâm quyển 13 có ghi: Tháng tư niên hiệu Ninh Khang thứ 3, thời Đông Tấn (375TL) sa-môn Thích Đạo An ở chùa Đàn Khê, Tương Dương đúc tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng, cao mười tám thước, đến cuối mùa đông năm sau thì thành tựu tốt đẹp, vào tối hôm đó, tượng tự di chuyển ra đứng trước cửa chùa, mọi người đều kinh ngạc, bèn đổi tên chùa là Kim Tượng. Nhưng Quảng hoằng minh tập quyển 15 ghi ngài Thích hòa thượng (tức ngài Đạo An) viết bài tựa ca ngợi tượng Phật mười sáu thước ở Tương Dương thời Tấn, nhưng chẳng thấy có một lời nào nói đến Di-đà và tịnh độ, lại có câu: “Vĩ đại thay Thích-ca! Ngài khéo chuyển pháp luân ở thế gian”, và trong Lương cao tăng truyện quyển 5 chỉ nói tượng đồng, không nêu tên Phật, vì thế tượng này không phải là tượng Phật Vô Lượng Thọ mà là tượng Phật Thích-ca. Sau này, vào đầu niên hiệu Nguyên Hưng, thời Đông Tấn (402TL), ngài Huệ Viễn kết Bạch Liên xãLô sơn (huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây), theo văn phát thệ của Lưu Di Dân ghi: “Mọi người ở trước tượng Phật A-di-đà tại tinh xá Bát-nhã Đài lập thệ nguyện”. Điều này có thể thấy, lúc đó ở Lô sơn đã có thờ tượng Phật A-di-đà.

Bởi có liên quan đến việc tạo tượng Phật, kinh Bát-nhã tam-muội, phẩm Tứ sự ghi: “Nếu ai muốn mau đắc tam-muội thì nên tạo hình tượng Phật”. Kinh Đạo hành bát-nhã quyển 10, phẩm Đàm-vô-kiệt bồ-tát ghi: “Sở dĩ tuy tượng Phật không có thần thức nhưng tạc tượng là vì muốn cho người thế gian cúng thờ được phúc mà thôi”. Lại nữa, kinh Bồ-tát bản nghiệp của ngài Chi Khiêm dịch vào thời Ngô cũng ghi:

“Thấy được hình tượng Phật,

Nên nguyện cho chúng sinh

Khắp mười phương đều thấy

Mắt không bị ngăn che”.

Như thế thì việc tạo tượng vào thời đại Tam Quốc đã được sự chú ý của những người tín ngưỡng. Trong đó, kinh Bát-nhã tam-muội đã ghi: “Nếu ai muốn mau đắc tam-muội thì nên tạo hình tượng Phật, ở trước tượng Phật, một lòng quán tưởng thì có thể chóng đắc tam-muội, thấy chư Phật hiện tiền”. Các pháp quán tưởng trong kinh Quán Phật tam-muội hải, quyển 9, phẩm Quán tượngkinh Quán Vô Lượng Thọ v.v... dạy tạo lập tượng Phật rồi quán tưởng cũng đều từ thuyết này mà ra. Tuy nhiên, lúc đó cũng có dựa vào thuyết tạo lập tượng Phật được phước trong kinh Đạo hành bát-nhã, nhưng chủ ý của sự tạo tượng vốn xuất phát từ ý muốn để chóng đắc tam-muội. Y theo kinh Bát-chu tam-muội, nếu mong muốn được thấy Phật, trước cần phải tạo lập hình tượng Phật. Tín ngưỡng Tịnh Độ là thời kì đầu, kế đó tạo tượng Đức Phật A-di-đà tức là dựa vào yêu cầu này. Người đời sau dùng bản tôn qui y nên an trí tượng Phật, cho biểu tượng đó là Phật thật, khiến cho người thấy sinh tâm tôn trọng, cung kính, tự nhiên ý nghĩa của hai trường hợp này không đồng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1276)
Vũ trụ chúng ta sinh ra đã được gần 14 tỷ năm. Đó là quá trình tiến hóa, từ vật chất không có sự sống đến vật chất có sự sống, lên đến
(Xem: 2116)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 4909)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4345)
Mùa Phật Thành Đạo năm nay Phật lịch 2564 - Dương lịch 2021, chúng ta đồng nhất tâm cầu nguyện...
(Xem: 12178)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 6640)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4279)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 4705)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 5971)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 12518)
Ngày lễ Vu Lan trong Đạo Phật là ngày “Phật Hoan Hỷ”, ngày “Tự Tứ”. Tăng, Ni tập trung vào sự tu niệm và thỉnh cầu những bậc...
(Xem: 5093)
Lễ Vu Lan báo hiếu không chỉ là ngày dành cho các Phật tử mà đó còn là mùa báo ân, báo hiếu của tất cả những người con dành cho bố mẹ.
(Xem: 5981)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 8032)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 5318)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5561)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3597)
Hôm nay đây, nhân mùa Phật đản, chúng ta lại thấy dường như hình ảnh Đức Phật đang thấp thoáng trong những lời cầu nguyện
(Xem: 4997)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 7661)
Đức Phật hay Đạo Phật, mặc nhiên đã đóng góp sự lành mạnh, và hiện hóa vào trong mọi tầng lớp xã hội loài người, và muôn loài ...
(Xem: 7342)
Vesak là tiếng Sinhalese của người dân đảo quốc Sri Lanka (Tích Lan), tiếng Pali là Vesakha, tiếng Phạn (Sanskrit) là Vaisakha, Vesak là tên gọi của một tháng theo lịch xưa của nước Ấn Độ trong thời Đức Phật
(Xem: 6006)
Thông Điệp Chúc Mừng Vesak 2643 (2019) Của Thủ Tướng Úc Đại Lợi, Ông Scott Morrison; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 4977)
Đạo Phật xuất hiệnthế gian, khởi đầu từ vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal, Ấn Độ cổ (nay là Brumindai vùng Terai), và bừng sáng tại Bồ đề Đạo tràng, nước Magadhi (Ma-kiệtđà),
(Xem: 4817)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 5711)
... Tôi hân hoan đón mừng ngày Phật Đản, ngày ra đời của một con người trí tuệ, bậc Thầy của muôn loài chúng sinh.
(Xem: 12456)
Tào-Khê tịnh thất, sớm mai thăm vườn kiểng bên hiên, nhìn chậu mai đơm nụ, bỗng nhớ rừng mai năm nào …
(Xem: 11688)
Con đường tâm linh đưa con người vượt khỏi thế giới hiện tượng vô thường (hoa tàn hoa nở) để đến thực tại vô tận, bất sanh bất diệt (xuân vô tận).
(Xem: 12845)
Theo truyền thống văn hóa Trung Quốc cũng như truyền thống Á Đông, cây tùng cúc, trúc, mai tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong một năm;
(Xem: 8443)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 8396)
Heo là một loài vật có hình dáng tròn trịa mũm mỉm, béo tốt ủn ỉn và hiền từ, khác với loài thú dữ khác như rắn, sư tử, beo… hại người, hại vật.
(Xem: 6810)
Chúc mọi nhà một năm mới đủ ăn, dư mặc, thừa tình yêu thương và giàu lòng quảng đại. Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019!
(Xem: 8530)
Khi nhìn bức tượng Đức Phật đang ngồi thiền, hình ảnh đó làm tôi cảm thấy rất bình an.
(Xem: 6227)
Bài viết này đã đăng trên Đặc San Kỷ niệm lể Vu Lan 1989, năm Kỷ Tỵ, của chùa Hoa Nghiêm ở Toronto, Canada.
(Xem: 6967)
Có rất nhiều bạn trên thế giới hiện nay hoặc vì một lý do nào đó, có thể chủ quan hoặc khách quan, đã mang tâm oán hận cha mẹ, người đã rứt ruột sinh ra mình.
(Xem: 5473)
Đọc trong mùa Vu Lan, cũng là đọc trong tất cả mọi thời. Bởi vì Vu Lan, dựa vào tích Ngài Mục Kiền Liên vào cõi ngạ quỷ tìm cứu mẹ, là nơi lửa cháy không ngừng, nơi đói khát không ngừng
(Xem: 9291)
Mặc dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất màchúng ta đang có mặt cách nay 2.642 năm về trước, và hiện nay đang bước sang thập niên thứ 2 ...
(Xem: 9554)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 6167)
Nhân ngày lễ vía Xuất gia của Đức Phật, nhằm vào ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, tôi xin tóm lược lại một vài sự kiện mà trong Kinh Phật Bản Hạnh đã ghi lại để làm quà cho tất cả quý Phật Tử xa gần.
(Xem: 8714)
Năm nay trời thiếu mưa, và sương mù cũng không nhiều như những năm mới đến cư ngụ tại thủ phủ Sacramento, bang California.
(Xem: 6468)
Chó vẫy đuôi mừng, vầng trăng thiện hạnh trùm khắp, từ bi toàn thân hỷ lạc.
(Xem: 6572)
Nếu Trái Đất mỗi ngày không múa điệu nghê thường lả lướt quanh Vầng Thái Dương rực rỡ thì có lẽ con người cũng chẳng chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kỳ diệu của xuân hạ thu đông.
(Xem: 8308)
Lòng từ bi nhân ái, tiếng Tây Tạng là Tse wa (rtse ba) là một thuật ngữ nói lên tình mẫu tử và nỗi âu lo vô biên của chư Phật đối với mỗi chúng sinh.
(Xem: 10633)
Thời thanh xuân, tiếng nói trong trẻo, du dương; trung niên, tiếng trầm như sấm; lão niên, tiếng khàn đục như cối xay.
(Xem: 9301)
Đây là một quyển sách khác thường của Đức Đạt-lai Lạt-ma phân tích bản chất của thiền định thật chi tiết và sâu sắc.
(Xem: 8068)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6155)
Cũng như Phật Đản, để phù hợp với cuộc sống, sinh hoạt tại hải ngoại, Vu Lan cũng không còn là ngày mà là mùa. Từ giữa tháng 7 kéo dài cho đến cuối tháng 9 khắp năm châu đâu đâu cũng tưng bừng lễ hội Vu Lan
(Xem: 8862)
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạng căng thẳng tâm thần, các xúc cảm tiêu cựccải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác động tích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
(Xem: 7010)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 6638)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 10372)
Sống trong thời đại văn minh, con người cần phải học hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
(Xem: 8991)
Trong số các phương pháp thực hành tâm linh, thiền chánh niệm (còn gọi thiền tỉnh thức, thiền minh sát) là một lựa chọn của số đông người.
(Xem: 8488)
Hãy chấp nhận các kinh nghiệm của bạn, ngay cả các kinh nghiệm bạn ghét.
(Xem: 9097)
Tu tập tự thân chính là công phu quan trọng nhất trong toàn bộ cái gọi là Phật giáo.
(Xem: 7449)
Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko, sinh năm 1915 tại tỉnh Chanthaburi, Đông nam Thái Lan (gần biên giới Campuchia).
(Xem: 7061)
Lời Thầy thường dạy, lại bàng bạc không gian “Ta là tiếp nối của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Các Ngài ở trong ta và ta ở trong các Ngài...
(Xem: 6435)
Dường như con người có thể phát tiết ra khả năng kỳ lạ để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh sống mà có lẽ chính họ đôi khi cũng không ngờ.
(Xem: 6001)
Mỗi người con của Phật xin hãy tinh tấn tu học để báo đáp thâm ân Tam Bảo; báo đáp ơn sinh thành dưỡng dục; nổ lực góp phần vào xây dựng cộng đồng nhơn loại...
(Xem: 8036)
Khởi đầu, thiền định là một phương pháp tu luyện tâm thức (bhāvanā), bắt nguồn từ Ấn Độ cách đây vài ngàn năm, phát triển chủ yếu trong...
(Xem: 7907)
Chỉ vài phút tập tỉnh thức trong các việc nhỏ đời thường, sau này sẽ trở thành những hành trang Phật giáo cực kỳ quý giá cho các em vào đối mặt cuộc đời.
(Xem: 11133)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 11651)
Nơi biển khơi ngàn con sóng bạc đầu, hay trên cánh đồng xanh lúa chín rì rào đâu đâu cũng thấy hiện thân nỗi binh an khắp tất cả.
(Xem: 7835)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 10226)
Một hiện thể độc nhất, này các Tỷ-kheo, một nhân thể phi thường trác việt khi xuất hiệnthế gian, sự xuất hiện ấy đem lại hạnh phúc cho...
(Xem: 8039)
Không dễ tìm được một chúng sinh nào chưa từng một lần trong quá khứ là mẹ của ngươi…
(Xem: 8196)
Ngày 4-5 vừa qua, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres đã gởi đi Thông điệp nhân Ngày Vesak 2641 (2017)
(Xem: 7577)
Bài này chỉ giới thiệu sơ sài đôi nét độc đáo của bản dịch Việt thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông...
(Xem: 8212)
Bước chân ban đầu là bước chân khai mở con đường vượt thoát những phiền não, ràng buộc của kiếp sống...
(Xem: 7155)
Khi một hiện hữu làm linh hiện ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn của nó, cả ba ngàn đại thiên thế giới đều rung động.
(Xem: 8294)
Cảnh sát là một nghề căng thẳng hơn rất nhiều nghề khác trong đời thường. Đôi khi, buổi sáng ra đi, không chắc gì buổi chiều đã toàn vẹn trở về.
(Xem: 10229)
Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân xây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt...
(Xem: 11808)
Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung.
(Xem: 9794)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn chung nhau một hiện tại.
(Xem: 10342)
Mỗi cuối năm khi hoa mai, hoa đào bắt đầu nở, khi ngoài trời vài cơn gió hiu hiu lạnh nhẹ nhàng lướt qua trên cành cây ngọn trúc, thì chúng ta biết là mùa Xuân đang về.
(Xem: 9316)
Năm cũ sắp sửa trôi qua với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11526)
Vào đêm cúng Giao Thừa tại các Chùa Việt Nam cũng đồng lúc cử hành Lễ Khánh Đản của đức Phật Di Lặc, vị Phật tương lai...
(Xem: 8314)
Trong các khóa thiền tập của chúng ta, các thiền sinh phải tập chú niệm trong cả bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm...
(Xem: 10265)
Vẽ đẹp cao quý trong ngày xuân là mọi người có dịp làm mới lại những truyền thống văn hóa, đạo đứcdi huấn của tổ tiên...
(Xem: 10705)
Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêm tại đảo quốc xinh đẹp này.
(Xem: 10446)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 11569)
Bài Thuyết Trình Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Lần Thứ 10 tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, Ottawa, Canada ngày 07 – 09 tháng 10, 2016
(Xem: 9384)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 22757)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 10505)
Thiền Vipassana là một phương pháp để giúp chúng ta có được một đời sống nội tâm lành mạnh, an lạc.
(Xem: 10054)
Kể từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đến thế kỷ II thì Phật giáo đã định hình và phát triển khá mạnh mẽ, nhất là đã có...
(Xem: 10262)
Có nhiều phương pháp giúp chúng ta giảm bớt đau khổ tạm thời. Khi các bạn gặp đau khổ, các bạn đổi hướng chú ý của ...
(Xem: 10363)
Một hôm, Tôn giả Xá Lợi Phất đi trì bình khất thực trong thành Vương Xá, khi ngang qua...
(Xem: 10313)
Tôi nhớ mãi một buổi chiều, Mẹ ngồi bên thềm sân, Cúi xuống, thoang thoáng một nét buồn.
(Xem: 10755)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy...
(Xem: 13088)
Ngày Lễ Phật Đản Visak là ngày quan trọng nhất đối với tất cả Phật tử trên toàn thế giới. Đây là ngày...
(Xem: 14639)
Cách đây hơn 2.600 năm, vào ngày trăng tròn tháng Tư, tại vườn ngự uyển Lumbini, thành Kapilavastu...
(Xem: 13346)
Theo truyền thống Phật Giáo, nói về các thời điểm nhất định, thí dụ như Sự Ra Đời Và Sự Giác Ngộ Của Đức Phật, có một nguồn ánh sáng...
(Xem: 12660)
Vẫn như mọi năm, tháng Tư âm lịch ngày trăng tròn là ngày kỉ niệm Đức Phật đản sanh. Theo truyền thống Phật giáo thì ...
(Xem: 9649)
Xin chia buồn cùng tang quyến và cầu nguyện hương linh Đạo hữu Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần vãng sanh Cực Lạc Quốc
(Xem: 11177)
Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của 25 thế kỷ qua, hẳn là ...
(Xem: 10768)
Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời. Hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn. Hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp.
(Xem: 14508)
Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu kính gởi đến Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử
(Xem: 12406)
Thế Tôn, bậc tôn quý nhất, đấng Giác ngộ duy nhất, tối tôn ở đời. Bởi chỉ có thành tựu tuệ giác vô ngã, kết quả của thiền quán mới ...
(Xem: 11716)
Bảy bước đi liên tòa kết nụ Chỉ đất trời thượng hạ tuyên ngôn "Như Lai vô thượng chí tôn Thân này kiếp chót vĩnh tồn vô sanh"
(Xem: 11688)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 23421)
Đại Lễ Phật Đản Phật Lịch 2560 do Giáo Hội PGVNTN Hoa Kỳ và các chùa tại địa phương tổ chức vào ngày 01.05.2016 tại Mile Square Park, 16801 Euclid Street, Fountain Valley 92708
(Xem: 11324)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 10536)
Chánh niệm không phải chỉ là một ý tưởng tốt, một triết lý hoặc một tôn giáo theo nghĩa đen, mà là áp dụng một cách sống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant