Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Vi: Truyền Bá Tịnh Độ Giáo Ở Phương Bắc

12 Tháng Chín 201000:00(Xem: 4593)
Chương Vi: Truyền Bá Tịnh Độ Giáo Ở Phương Bắc
LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC
Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh
Hán dịch: Thích Ấn Hải Hiệu đính: Định Huệ Việt dịch: Giới Niệm

CHƯƠNG VI: TRUYỀN BÁ TỊNH ĐỘ GIÁO Ở PHƯƠNG BẮC

Tiết 1: Tạo tượngtín ngưỡng Di-đà thời đại Bắc Ngụy

Phương nam nhờ ảnh hưởng của ngài Huệ ViễnLô sơn, lại có các ngài Bảo Vân, Khương-lương-da-xá v.v…nối tiếp nhau dịch kinh điển Tịnh Độ, tín ngưỡng Tịnh độ Di-đà, dần dần được truyền bá khắp nơi. Nhưng phương bắc thì chủ yếu thiếu người khởi xướng, lại thêm chiến tranh liên miên, đặc biệt vào thời Bắc Ngụy niên hiệu Thái Bình Chân Quân thứ 7 (446TL), vua Thái Vũ Đế ra lệnh đập phá tượng Phật, thiêu đốt kinh điển, phá hủy chùa tháp, Phật giáo một thời hầu như bị xóa sạch. Vì thế, sự hoằng dương Tịnh Độ giáo cũng nhân đó mà biệt tích. Cho đến khi Văn Thành Đế lên ngôi, Phật giáo mới được phục hưng. Hưng Quang nguyên niên (454TL), ngài Đàm Diệu dâng tấu xin tạo năm hang điện ở phía bắc hang Hàn Sơn, Vũ Châu (Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây), phía tây bắc Hằng An, kinh đô nước Ngụy, nhờ đó nên ở các vùng lân cận cũng tạo dựng hơn mười thạch thất, tất cả đều có an trí tượng Phật, đây được gọi là động đá Đại Đồng. Niên hiệu Thái Hòa thứ 18 (494TL), Hiếu Văn Đế dời đô về Lạc Dương và cũng bắt đầu cho khai tạc tượng Phật ở Long Môn (huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam), rất nhiều tượng Phật có khám thờ được liên tục khắc tạo. Trong số tượng được khắc, tượng Di-lặc nhiều nhất, kế đó là tượng Thích-ca và tượng Quán Âm, còn tượng Di-đà thì ít hơn và thời gian cũng hơi trễ. Căn cứ vào Điêu tố thiên trong Trung Quốc mỹ thuật sử của sử gia Đại Thôn Tây Nhai có ghi: “Tượng Phật A-di-đà ở Long Môn, Lạc Dương, do nữ thanh tín họ Khương tạc vào Thần Qui nguyên niên (518TL), thời Bắc Ngụy. Lại có liệt kê những bài minh của các tượng được tạc vào niên hiệu Thần Qui thứ 2 (519TL), niên hiệu Chính Quang thứ 3 (522TL), thứ tư (523TL), niên hiệu Hiếu Xương thứ 2 (526TL), thứ 3 (527TL), niên hiệu Vĩnh Hy thứ 2 (533TL), niên hiệu Vũ Định thứ 3 (545TL), thời Đông Ngụy v.v…

Vì đương thời, mọi người đối với quan niệm về tịnh độvị lai còn non kém, nên họ thực hành lẫn lộn giữa tín ngưỡng Di-đà Tịnh Độtín ngưỡng Di-lặc đương lai hạ sinh. Việc này trên những bài minh tạo tượng ở các động Long Môn, Cổ Dương v.v…có ghi: Bài minh tạo tượng Di-lặc bằng đá của tì-kheo Tăng Hân tạc, vào niên hiệu Thái Hòa thứ 23 (499TL) có ghi: “Tôi vì cha mẹ hiện đời và quyến thuộc, sư tăng, mà tạo một pho tượng Di-lặc bằng đá, nguyện mọi người được sinh về cõi Phật Vô Lượng ThọTây phương, dự ba hội thuyết pháp dưới cội Long Hoa, nếu họ sinh trong nhân gian thì làm con cháu vương hầu và cùng sinh vào một chỗ với đại bồ-tát”. Bài minh tạo tượng Di-lặc của tì-kheo-ni Pháp Khánh tạc vào niên hiệu Vĩnh Bình thứ 3 (510TL), có ghi: “Nguyện đời sau thác sinh về cõi nước Diệu Lạc Tây phương, nếu sinh vào nhân gian thì làm công tước, vương hầu hoặc trưởng giả”. Cũng vào năm ấy (510TL), bài minh tạo tượng Thích-ca của tì-kheo-ni Huệ Trí tạc, có ghi: “Nguyện đời sau thác sinh về cõi nước Diệu Lạc Tây phương, nếu sinh vào nhân gian thì làm công tước, vương hầu hoặc trưởng giả, tương lai sinh vào thời Phật Di-lặc”. Đây là kết hợp tín ngưỡng Di-lặc hạ sinhtín ngưỡng Tịnh độ Di-đà, nương công đức tạo lập tượng Di-lạc v.v..., trước nguyện cầu sinh Tây phương, sau khi Di-lặc hạ sinh thành Phật, rồi họ lại sinh vào nhân gian làm con của vương hầu, dự ba hội thuyết pháp dưới cội Long Hoa.

Lại nữa, người đem công đức tạo lập tượng Phật A-di-đà để nguyện sinh cõi trời cũng không ít. Như bài minh tạo tượng Phật A-di-đà của nữ thanh tín Hoàng Pháp Tăng tạc vào niên hiệu Hiếu Xương thứ 2 (526TL), thời Bắc Ngụy, có ghi: “Người chết sinh thiên, hết khổ được vui”. Bài minh tạo tượng Phật Vô Thọ (chữ 受 (thọ) là chữ được vay mượn dùng cho chữ 壽(thọ), dưới chữ 無 (vô) sót mất chữ 量(lượng)) của ngài Huệ Giám tạc vào niên hiệu Vũ Định thứ 3 (545TL), thời Đông Ngụy. có ghi: “Vì mẹ mất nên tạo tượng Phật Vô Thọ, nguyện sinh về thiên quốc”, Niên hiệu Vũ Định thứ 7 (549TL), bài minh tạo bốn tượng Phật, bồ-tát bằng đá, có ghi: “Nhờ công đức này, nguyện người chết được sinh thiên, vãng sinh về cõi Phật Vô Lượng Thọ ở Tây phương”. Bài minh tạo tượng Phật A-di-đà bằng đá vào niên hiệu Khai Hoàng thứ 17 (597TL), thời Tùy, có ghi: “Khi xả thân uế tạp này, nguyện được gặp Di-lặc, thác sinh Tây phương”, các bài minh đều ghi như vậy. Chữ ‘Thiên’ tuy có thể được coi là chữ thiên của Nho giáo, nhưng trong đây là văn nguyện tạo tượng Phật, vả lại tín ngưỡng Di-đà và tín ngưỡng Di-lặc đã được kết hợp lại với nhau từ xưa; có thể thấy chữ thiên ở đây là chỉ cho trời Đâu-suất tịnh độ của Di-lặc mà thôi. Nếu như thế thì tất nhiên là đem việc sinh lên trời Đâu-suất và việc vãng sinh Tây phương nhập chung lại. Về sau, tư tưởng này lại gọi tịnh độ Di-đà là nước Thiên Thọ, như kinh Hoa nghiêm quyển 46 được phát hiện ở Đôn Hoàng, vào niên hiệu Khai Hoàng thứ 3 (583TL), thời Tùy, có ghi: “Nguyện cha mẹ qua đời thác sinh về nước Thiên Thọ ở Tây phương”. Bài kí tạo tượng Phật A-di-đà ở hang động chùa Linh Nham, núi Thiên Phật (huyện Lịch Sơn, tỉnh Sơn Đông), thời Tùy, có ghi: “Kính tạo một pho tượng Phật A-di-đà, nguyện cùng tất cả chúng sinh đồng sinh nước Thiên Thọ”, Vào niên hiệu Suy Cổ thứ 30 (622TL), Nhật Bản, vua thương tiếc thái tử Thánh Đức bị đoản mạng, nên làm màn thêu cảnh nước Thiên Thọ, e rằng đây cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng này, hình ảnh ấy biểu thị tướng trạng thái tử được vãng sinh tịnh độ Di-đà. Tóm lại, như trên cũng có thể biết tín ngưỡng Di-đà cũng đã được lưu hành ở phương bắc.

Tiết 2: Bồ-đề-lưu-chi và sáu vị đại đức của Tịnh Độ

Ngài Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci) là người Bắc Ấn-độ. Niên hiệu Vĩnh Bình nguyên niên (508TL), đời Hoàn Vũ Đế, thời Bắc Ngụy, ngài đến Lạc Dương, dịch truyền các kinh luận như: Thập địa kinh luận, kinh Nhập lăng-già, Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá nguyện sinh kệ của ngài Thế Thân v.v… Trong số đó, Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá nguyện sinh kệ có tên khác là Vô Lượng Thọ kinh luận, hoặc gọi Vãng sinh luận, lại còn gọi là Tịnh Độ luận, giảng giải về pháp vãng sinh ngũ niệm môn. Lịch đại tam bảo kỷ quyển 9 v.v… ghi là những kinh luận này được dịch vào Phổ Thái nguyên niên (539TL). Nhưng Khai nguyên thích giáo lục quyển 6 ghi là được dịch vào niên hiệu Vĩnh An thứ 2 (529TL). Vì Bồ-đề-lưu-chi truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 1 v.v…có ghi là ngài chưa có truyền bá tín ngưỡng Tịnh Độ, nhưng trong An Lạc tập của ngài Đạo Xước, thời Đường, quyển hạ liệtsáu vị kế thừa tông Tịnh Độ: Bồ-đề-lưu-chi, Huệ Sủng, Đạo Trường, Đàm Loan, Đại Hải, Pháp Thượng, lại cho rằng ngài Lưu-chi là sơ tổ của tông Tịnh Độ. Sáu vị đạo đức này đều hiểu tường tận đại thừa, ca ngợi Tịnh Độyếu môn vô thượng.

Vả lại, căn cứ Đàm Loan truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 6 có ghi: “Trên đường đi về phía nam, ngang qua Lạc Dương, ngài Đàm Loan gặp ngài Bồ-đề-lưu-chi và hỏi:

- Trong Phật pháppháp trường sinh bất tử hơn kinh Tiên ở Trung Quốc hay không?

Ngài Bồ-đề-lưu-chi nhổ nước miếng xuống đất rồi chà đi, cầm quyển Quán Kinh trao cho ngài Đàm Loan và nói:

- Phương pháp này của Đại Tiên[5], ông y theo đó tu hành sẽ được giải thoát sinh tử.

Nếu việc này là thật thì ngài Lưu-chi có lẽ là người tín ngưỡng Tịnh Độ Di-đà; nhưng mà An Lạc tậpTịnh Độ luận của Ngài Ca Tài v.v…đều không có ghi lại việc này, có lẽ là do việc dịch kinh Vô Lượng Thọ mà kèm thêm truyền thuyết, nên khó cho đó là sự thật.

Ngài Huệ Sủng e rằng là ngài Đạo Sủng, Tục cao tăng truyện quyển 7 có ghi: Ngài Đạo Sủng theo ngài Bồ-đề-lưu-chi học Thập địa kinh luận, rất nổi tiếng ngang với ngài Huệ Quang và được coi là tổ của phái Địa luận ở phương bắc. Nhưng cũng chưa nói đến ngài có quy ngưỡng Tịnh Độ.

Ngài Đạo Trường (場) có bản ghi là Đạo Trường (長). Căn cứ Đại trí độ luận sớ của ngài Huệ Ảnh, thời Bắc Chu, quyển 24 có ghi: “Ngài trước là đệ tử của ngài Huệ Quang, sau nghe ngài Bồ-đề-lưu-chi giảng thuyết, gặp một đoạn không vừa lòng, nên ngài bỏ vào núi Tung Cao (huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam), suốt mười năm đọc luận Đại trí độ. Sau đó, ngài xuống núi giảng luận này”. Luận Đại trí độ được hưng khởi là nhờ vào ngài. Lại nữa, Chí Niệm truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 11 có ghi: “Ở Nghiệp Đô (huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam) có pháp sư Đạo Trường tinh thông luận Đại trí độ, là bậc thầy của các học giả”. Minh Chiêm truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 24 cũng có ghi: “Minh Chiêm nương pháp sư Đạo Trường ở chùa Đại Tập, Nghiệp Hạ, chuyên học luận Đại trí độ”. Như thế có thể biết ngài Đạo Trường đã ở chùa Đại Tập, Nghiệp Đô, giảng giải luận Đại trí độ rất thịnh. Tập thần châu tam bảo cảm thông lục quyển trung của ngài Đạo Tuyên, thời Đường và Pháp uyển châu lâm quyển 15 đều có ghi: “Đời Văn Đế, thời Tùy, sa-môn Minh Hiến ở chỗ pháp sư Đạo Trường, sống vào thời Cao Tề, được tượng Phật A-di-đà và 25 bồ-tát do bồ-tát Ngũ Thông ở chùa Kê-đầu-ma, Thiên Trúc vẽ, rồi sa-môn vẽ lại để lưu hành. Điều này chắc chắn ngài Đạo Trường (長) chính là Đạo Trường (場), nếu đúng sự thật thì ngài Đạo Trường có thể là người tín ngưỡng Phật Di-đà, thụ trì Ngũ Thông mạn-đà-la. Biện chính luận của ngài Pháp Lâm, thời Đường, quyển 3 có ghi: “Hiếu Văn Đế, thời Bắc Ngụy, vào ngày giỗ của thái hậu, vua khóc ở phia đông lăng thái hậu, rồi ra lệnh xây dựng chùa An Dưỡng ở Nghiệp Đô. Điều này có thể biết, đương thời ở Nghiệp Đô đã có phụng hành tín ngưỡng Di-đà.

Lại nữa, thiền sư Đại Hải có lẽ là ngài Huệ Hải, Tục cao tăng truyện quyển 12 có ghi: Ban đầu, ngài Huệ Hải theo pháp sư Quýnh ở chùa Quảng Quốc, Nghiệp Đô, nghe giảng các kinh Niết-bàn, kinh Lăng-già. Về sau, ngài đến ở chùa An Lạc, thành Kiến Giang (huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô). Niên hiệu Đại Nghiệp thứ 5 (609TL), thời Tùy, ngài thị tịch, thọ 69 tuổi. Thuở bình sinh, ngài lấy Tịnh Độ làm kì hạn, lại được tượng Phật Vô Lượng Thọ theo bức họa của bồ-tát Ngũ Thông từ vị tăng tên Đạo Thuyên ở Tề Châu (huyện Lịch Thành, tỉnh Sơn Đông) rồi ngài mô phỏng theo đó mà vẽ, và nguyện sinh Tịnh Độ càng ngày càng tha thiết. Do đó, chúng ta biết ngài Huệ Hải cũng rất tin và thờ Ngũ Thông mạn-đà-la.

Do có liên quan đến xuất xứ của Ngũ Thông mạn-đà-la, căn cứ vào Tập thần châu tam bảo cảm thông lục quyển trung có ghi: “Xưa bồ-tát Ngũ Thông ở chùa Kê-đầu-ma, Thiên Trúc, đến thế giới An Lạc thỉnh Phật A-di-đà, chúng sinh ở thế Ta-bà nguyện sinh Tịnh Độ, không có hình tượng Phật, nguyện lực chẳng biết dựa vào đâu, xin Ngài giáng xuống cõi này. Bấy giờ, Đức Phật cùng với năm mươi vị bồ-tát đều ngồi trong hoa sen, hiện ở trên lá cây, bồ-tát Ngũ Thông liền lấy lá cây ở đó, vẽ lại hình các Ngài, rồi cho lưu truyền khắp nơi. Thời Hán Minh Đế, con trai của chị ngài Ma-đằng xuất gia làm sa-môn, rồi đem hình tượng các Ngài đến Trung Quốc. Những chỗ sa-môn đi qua đều được vẽ lại bức họa này. Không bao lâu, sa-môn lại mang bức họa trở về Tây Trúc, nhưng bức họa ấy không được truyền bá rộng lắm. Thời Ngụy, Tấn về sau, thời gian rất lâu, rồi trải qua thời kì pháp diệt, kinh tượng bị mai một, bức họa ấy hầu như cũng không còn thấy nữa. Đến đời Văn Đế, thời Tùy, sa-môn Minh Hiến phát hiện có một bức họa ở chỗ pháp sư Đạo Trường, sống vào thời Cao Tề, sa-môn nói về duyên khởilưu truyền của bức họa, rồi theo bức họa ấy vẽ lại lưu truyền khắp nơi. Bấy giờ, thời Bắc Tề có họa sĩ tên Tào Trọng Đạt vẽ rất đẹp, lại khéo viết được tiếng Phạn, ông đã dựa theo bức họa ấy rồi vẽ trên vách chùa”. Bức họa này được truyền sang từ thời Hậu Hán. Truyền thuyết này chắc chắn không thể không tin.

Như đoạn văn trước nói, Vãng sinh truyện của ngài Giới Châu được tàng trữ ở chùa Chân Phước, quyển trung có ghi: “Xà-na-đạt-ma ở Trung Ấn Độ, phát tâm qui hướng Cực Lạc, ngài vẽ tượng Phật A-di-đà và hai mươi lăm vị bồ-tát, rồi mang đến Trung Quốc. Đồng thời, ngài làm bài kệ:

Nếu muốn cầu Tịnh Độ

Phải tạo vẽ tượng Phật

Lâm chung thấy được Ngài

Chỉ đường lối nhiếp tâm…”

Hai mươi lăm vị bồ-tát ấy và hai mươi lăm vị bồ-tát trong Thập vãng sinh A-di-đà Phật quốcliên quan với nhau hay không, tuy không xác định rõ nhưng bức họa đều có hình vẽ liên quan đến Phật A-di-đà thì có thể thấy là có sự ghi chép nhầm về hai mươi lăm vị bồ-tát này. Nếu như vậy thì Ngũ Thông mạn-đà-la có lẽ do tam tạng Xà-na-đạt-ma truyền đến Trung Quốc vào đầu thời Bắc Tề. Duy thức luận đồng học sao 10 quyển, trong quyển 4 có ghi: “Ngài Trí Chu ở viện Tây Phương Tịnh Độ, Bộc Dương (huyện Bộc Dương, tỉnh Hà Bắc) họa tượng Phật A-di-đà và hai mươi lăm vị bồ-tát như Quán Âm, Thế Chí, và phát tâm qui hướng Tây phương, bỗng cảm ứng được điềm lành”. Do đó, có thể biết bức họa ấy đến đời Đường còn vẫn được lưu truyền. Về sau bức họa ấy được truyền sang Nhật Bản, quyển Giác thiền sao A-di-đà có sao chép lại bức họa ấy.

Tiết 3: Quy tín Tịnh Độ của các ngài Huệ Quang v.v…

Ngài Huệ Quang là người có nổi tiếng ngang với ngài Đạo Sủng môn nhân của ngài Bồ-đề-lưu-chi, được tôn xưng là tổ của phái Địa luận ở phương Nam. Tục cao tăng truyện quyển 21 có ghi: “Lúc đầu, ngài Huệ Quang nhận chức Quốc tăng đôLạc Dương, về sau được mời về Nghiệp Đô giữ chức Quốc thống. Ngài thường nguyện sinh về cõi Phật, mà không nhất định cõi Phật nào. Cho đến lúc lâm chung, ngài mới chí thành hướng tâm về tịnh độ An Dưỡng.

Ngài Pháp Thượng là môn nhân của ngài Huệ Quang, An Lạc tập ghi ngài là một trong sáu đại đức, theo Tục cao tăng truyện quyển 8 ghi: Ngài nổi tiếng ngang với Đạo Trường, sùng tín Di-lặc nên nguyện sinh lên cõi trời Đâu-suất. Niên hiệu Đại Tượng thứ 2 (580TL), thời Bắc Chu, ngài thị tịch, hưởng thọ 86 tuổi. Như thế thì ngài không phải là người tín ngưỡng Phật Di-đà, nhưng ngài Đạo Xước cũng đưa ngài vào một trong những vị tán dương và qui hướng về tịnh độ, e rằng ý tịnh độ của ngài Đạo Xước có nghĩa rộng bao hàm cõi trời Đâu-suất chăng! Cũng Tục cao tăng truyện quyển 8 có ghi: Ngài Đạo Bằng môn nhân của ngài Huệ Quang thường cầu sinh Tây phương, khi lâm chung, cảm ứng được điềm lành thấy ánh sáng của Phật. Cũng Tục cao tăng truyện quyển 9 có ghi: Ngài Linh Dụ môn nhân của Đạo Bằng trứ tác Vô Lượng Thọ kinh sớ, Quán Vô Lượng Thọ kinh sớVãng sinh luận sớ để làm sáng tỏ giáo nghĩa Tịnh Độ. Theo đây ta có thể biết phái Địa luận ở phương Nam và phương Bắc đều coi trọng vãng sinh Tịnh Độ.

Lại nữa, Đại thừa khởi tín luận xưa nay tương truyền là do bồ-tát Mã Minh trứ tác, ngài Chân Đế dịch vào thời Lương, luận này đầu tiên đề xướng duyên khởi của Như Lai tạng, lấy chân như làm nơi y trì của tất cả pháp, đây là hợp với thuyết của các sư phái Địa luận ở phương Nam. Ngài Pháp Kinh, thời Tùy, đem xếp luận này vào Nghi hoặc lục ở quyển 5 trong Chúng kinh mục lục, xét rằng: “Chân Đế lục không có luận này cho nên xếp vào Nghi hoặc lục”. Lại nữa, Tứ luận huyền nghĩa quyển 10 của ngài Huệ Quân, thời Đường (được Tam luận huyền sớ văn nghĩa yếu quyển 2 của Trân Hải dẫn dụng) có ghi: “Các luận sư ở phương Bắc nói: Luận này không phải do bồ-tát Mã Minh trứ tác. Ngày xưa, Địa luận sư tạo luận rồi mượn tên của Bồ-tát, cho nên tìm kiếm trong mục lục kinh luận không có”. Người của Địa luận ở phương Bắc thì nói luận này không phải bồ-tát Mã Minh trứ tác mà do Địa luận sư ngụy tác. Bởi cuối phần Tín tâm tu hành trong luận Đại thừa khởi tín có ghi: “Học pháp Chỉ Quán, muốn cầu chính tín, vì trụ ở thế giới Ta-bà nên không thể thường gặp chư Phật và đích thân cúng dường, vì vậy tín tâm khó thành tựu. Sợ người thoái đọa nên khuyên họ chuyên niệm Phật A-di-đà ở Tây phương, cầu vãng sinh tịnh độ, được trụ chính định tụ”. Có thể thấy đây là nương vào thuyết hai đạo khó hành và dễ hành của ngài Long Thọ, cũng tương thông với chủ trương phân biệt khó, dễ, cõi này, cõi kia của ngài Đàm Loan. Địa luận sư đã rất quan tâm đến tín ngưỡng Di-đà. Thiết nghĩ nếu đúng như lời truyền thuật của ngài Huệ Quân thì luận này do Địa luận sư ở phương Nam ngụy soạn.

Lại nữa hiện nay ở trong Tạng có bộ kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo 2 quyển, do Thiên Trúc tam tạng Bồ-đề Đăng dịch, nhưng lai lịch của ngài Bồ-đề Đăng không rõ ràng; còn Lịch đại tam bảo kỷ quyển 12 có ghi: “Niên hiệu Khai Hoàng thứ 13, thời Tùy, vua hạ chiếu thỉnh các đại đức Pháp Kinh v.v…khảo nghiệm sự chân ngụy của kinh này và ban sắc chỉ cấm lưu hành. Chúng kinh mục lục quyển 2 của Pháp Kinh, Chúng kinh mục lục quyển 4 của Ngạn Tông, đều ghi kinh này vào trong phần nghi hoặc, cho nên rõ ràng kinh này chẳng phải dịch ra từ sách Phạn, quyển hạ kinh này nói về thật nghĩa của đại thừa, giáo nghĩa của nó gần như giống với Đại thừa khởi tín luận. Cuối quyển kinh có ghi: “Tuy học và tin hiểu như vậy nhưng người ít thiện căn chưa có thể tiếp nhận được, người sợ thoái đọa nên niệm danh hiệu Phật, quán pháp thân Phật, tu hành như thế cũng có thể tùy nguyện vãng sinh về tịnh độ của Phật, thiện căn tăng trưởng, chóng được bất thoái. Đồng với Khởi tín luận cổ súy pháp vãng sinh Tịnh Độ. Phần Tư ký trong Thám huyền ký quyển 3 của Trân Tung, người Tân La, (được Bảo san sao quyển 8 của Hiền Bảo dẫn dụng) có ghi: “Khởi tín luận y theo ngụy kinh Tiệm sát mà tạo, cho nên luận ấy cũng thuộc ngụy luận. Tiệm sát (漸剎) là mượn âm Chiêm sát (占察), tức chỉ kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo. Thế nên biết xưa nay chỉ trích rằng Khởi tín luậnChiêm sát kinh đồng loại. Nay Khởi tín luận nếu là do Địa luận sư phương Nam tạo, thì Chiêm sát kinh cũng tất nhiên là sự ngụy tác của người đồng phái. Việc này tôi đã nói rõ trong cuốn Nghiên cứu Đại thừa khởi tín luận, luận này nếu thật như vậy thì có thể xét biết tín ngưỡng Tịnh Độ luôn luôn được các Địa luận sư xem trọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19424)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18529)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16054)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29870)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25458)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21606)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17808)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20822)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26329)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33326)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52150)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22873)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23409)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39649)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21792)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22379)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6837)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22729)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69808)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44010)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23067)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35034)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44094)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42912)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44415)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24910)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24356)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39207)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39230)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17252)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18039)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19260)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35672)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24217)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19587)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20404)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18309)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18999)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18938)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17473)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19317)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30829)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19189)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20526)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19556)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19765)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29821)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17834)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19407)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19879)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58766)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24405)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23517)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39759)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26718)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40761)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22868)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22918)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21594)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18619)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22593)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21082)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19213)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20933)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20326)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30555)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20179)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17464)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16598)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16849)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14957)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14835)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22867)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16043)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16206)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15251)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26106)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17191)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15790)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19768)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17669)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14681)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14731)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19125)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15117)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33050)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17488)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19126)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21818)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23004)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16622)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16467)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16511)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22990)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26386)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12745)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29511)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27714)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25909)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18462)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant