Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương Viii. Luận Điểm Về Tịnh Độ Của Tịnh Ảnh Huệ Viễn

12 Tháng Chín 201000:00(Xem: 4643)
Chương Viii. Luận Điểm Về Tịnh Độ Của Tịnh Ảnh Huệ Viễn
LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC
Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh
Hán dịch: Thích Ấn Hải Hiệu đính: Định Huệ Việt dịch: Giới Niệm

CHƯƠNG VIII. LUẬN ĐIỂM VỀ TỊNH ĐỘ CỦA TỊNH ẢNH HUỆ VIỄN VÀ THUYẾT CỬU PHẨM GIAI VỊ

Tiết 1: Sự tích của ngài Huệ Viễn

Ngài Huệ Viễn kém hơn ngài Đàm Loan khoảng ba mươi tuổi, ngài sinh vào niên hiệu Thần Quy thứ 4(523TL), thời Bắc Ngụy, ở Đôn Hoàng (huyện Đôn Hoàng, châu An Tây, tỉnh Cam Túc). Năm 16 tuổi, ngài từ chỗ luật sư Trạm, đến Đô Nghiệp (huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam). Năm 20 tuổi, ngài đến chỗ ngài Pháp Thượng thụ giới Cụ túc. Thừa Quang nguyên niên (577TL), Bắc Chu Vũ Đế đánh thắng Tề, phá hủy Phật pháp, ngài Huệ Viễn chống lại Vũ Đế. Sau đó, ngài ẩn tu ở Tây Sơn, quận Hấp (huyện Hấp, tỉnh Hà Nam), đến nhà Tùy thống nhất thiên hạ, vua mời ngài vào Trường An, xây dựng chùa Tịnh Ảnh và mời ngài trụ trì chùa này. Từ đó, ngài bắt tay vào việc giảng dạy. Vào tháng 6 niên hiệu Khai Hoàng thứ 12 (592TL) ngài thị tịch, hưởng thọ 70 tuổi. Đương thời gọi ngài là pháp sư Tịnh Ảnh. Ngài trứ tác được mấy mươi bộ, trong đó có bộ Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ 2 quyển, Quán Vô Lượng Thọ kinh ký 1 quyển, Đại niết-bàn kinh nghĩa ký 20 quyển, Duy-ma kinh nghĩa ký 8 quyển, Thập địa kinh luận nghĩa ký 10 quyển (hiện không còn đủ), Đại thừa khởi tín luận sớ 2 quyển, Đại thừa nghĩa chương 20 quyển v.v…nay đều được lưu truyền ở đời.

Vì ngài Huệ Viễn truyền thừa pháp thống của ngài Pháp Thượng, thuộc giáo hệ của phái Địa Luận ở phương Nam, lập giáo phán của bốn tông, tuyên dương giáo nghĩa duyên khởi Như Lai tạng, nổi tiếng thời bấy giờ. Như đoạn văn trước đã nói, ngài Pháp Thượng sùng tín Di-lặc, dựng Di-lặc đường ở Tây Sơn, Nghiệp Đô và siêng năng lễ bái, ngài Huệ Viễn do nhận sự cảm hóa của ngài nên cũng sùng tín Di-lặc . Như Linh Cán truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 12, tương truyền ngài Huệ Viễn sinh lên cõi trời Đâu-suất, như vậy thì ngài Huệ Viễn chẳng phải người nguyện sinh Tây phương. Nhưng thấy ngài có giải thích văn nghĩa kinh Vô Lượng ThọQuán kinh sớ, vả lại trong Đại thừa nghĩa chương, có một chương Tịnh độ nghĩa luận thuật tỉ mỉ về chủng loại sai biệt của tịnh độ. Điều này cho chúng ta biết là ngài quan tâm đến Tịnh Độ rất mật thiết. Kinh Vô Lượng Thọ, đương thời đã có nhiều nhà giảng thuyết nhưng chưa có ai thử làm chú sớ. Do đón chúng ta có thể biết sớ của ngài Huệ Viễntác phẩm giải thích kinh Vô Lượng Thọ xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc, sự giải thích nghĩa lý của ngài được các học giả đương thời coi trọng. Các ngài Cát Tạng, Ca Tài, Thiện Đạo đều có nghiên cứu và phê phán học thuyết của ngài, đặc biệtQuán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ của ngài Trí Khải trứ tác đều có sao chép Quán kinh sớ của ngài. Chúng ta có thể thấy được giá trị của các sách vở do ngài trứ tác thời bấy giờ.

Tiết 2: Phân loại Tịnh Độ

Tịnh độ là thuyết được thịnh hành trong các kinh Đại thừa. Nhưng các kinh trình bày có khác nhau về quốc độ trang nghiêm và bậc thánh cư trú ở đó. Ngài Huệ Viễn nghiên cứu tường tận các nghĩa này, phân biệt tịnh độ có ba loại để luận phán cao thấp, tốt xấu. Đây là khởi nguyên của lý luận phân loại tịnh độTrung Quốc. Tịnh độ được phân làm ba loại sai biệt:

1. Sự tịnh độ

2. Tướng tịnh độ

3. Chân tịnh độ.

Chỗ cư trú của phàm phu là Sự tịnh độ; chỗ cư trú của hàng nhị thừahóa tha độ của bồ-tát là Tướng tịnh độ; cõi cư trú của bậc Sơ địa trở lên cho đến chư Phật là Chân tịnh độ.

A. Sự tịnh độ là cõi do tịnh nghiệp hữu lậu của phàm phu cảm mà được; các thứ báu nghiêm sức, sự tướng tốt đẹp, gọi là Sự tịnh độ. Cõi này là do lúc phàm phu tu nhân, tâm có hạn cuộc cho nên khi thụ báo, cõi có phần hạn. Lại nữa, tâm họ chấp chặt lấy tướng, nên quốc độ trang nghiêm các tướng đều cố định. Nhưng có hai loại sai biệt:

1. Tịnh độ do phàm phu tu tịnh nghiệp song còn chấp có mà cảm được, như chỗ cư trú của chư thiên v.v…đây là cầu sự cảm ứng của thiện nghiệpchấp có, nên khi thụ dụng, còn sinh phiền não, kết nghiệp trong ba cõi, không phát sinh đạo xuất thế.

2. Tịnh độ do phàm phu tu tịnh nghiệp xuất thế mà cảm được như cõi An Lạc, thế giới Chúng Hương, đều từ thiện nghiệp xuất thế mà được, cho nên khi thụ dụng có thể phát sinh đạo xuất thế.

Cõi trời được đề cập đến ở đây, nếu chủ yếu là chỉ cho cõi trời Đâu-suất-đà thì hai loại cõi này có thể nói là sự so sánh giữa Đâu-suất với Cực Lạc.

B. Tướng tịnh độcảnh giới của hàng nhị thừa và bồ-tát tu tập duyên quán đối trị vô lậu mà được; diệu tướng trang nghiêm, ly cấu thanh tịnh cho nên gọi Tướng tịnh độ. Cõi tuy thanh tịnh nhưng do vọng thức khởi như cảnh thấy trong mộng, giả dối không thật, chỉ theo tướng ly cấu thanh tịnh ấy mà gọi là tướng tịnh. Cõi này là do lúc nhị thừa và bồ-tát tu nhân, tâm không hạn cuộc cho nên khi thụ báo, cõi không có phần hạn. Lại nữa, khi tu, tâm không cố chấp, cảnh giới sở đắc cũng tùy tâm chuyển mà không có tướng cố định. Cõi này cũng có hai loại sai biệt:

1. Cõi do thiện căn của nhị thừa tự lợi mà được, hư tịch vô hình, như cõi Vô Sắc. Luận Đại trí độ ghi: “Có cõi thanh tịnh vi diệu vượt qua ba cõi, hàng A-la-hán sinh vào đó để nghe kinh Pháp hoa”, tức là việc này. Cõi này tức là do thiện căn tự lợi mà được, cho nên khi thụ dụng chỉ sinh tự lợi, chán bỏ thiện căn, không thể tự nhiên phát sinh nguyện từ bi, hạnh lợi tha. Giả sử có người sinh khởi hạnh lợi tha là nhờ năng lực của Phật và bồ-tát giáo hóa, chẳng phải là năng lực của cảnh giới mà chính họ đã thụ hưởng.

2. Cõi do thiện căn hóa tha của các bồ-tát mà được, không bỏ chúng sinh, tùy vật thụ dụng, như trượng thất của ngài Duy-ma-cật, vì từ thiện căn hóa tha mà phát sinh nên khi thụ dụng tự nhiên có thể phát khởi hạnh thiện lợi tha.

Lại nữa, hai cõi này đều có hai loại là cõi tương tục trụ trì và cõi tạm hiện. Cõi tương tục trụ trì là cõi không phải biến hiện nhất thời, mà luôn luôn hiện hữu; cõi tạm hiện là cõi tùy theo căn cơ tạm thời biến hiện.

C. Chân tịnh độ là cõi mà bồ-tát Sơ địa trở lên cho đến chư Phật cư trú. Vì cõi này do thiện căn của chư Phật và bồ-tát đã thật chứng mà được; thật tính duyên khởi, vi diệu thanh tịnh, lìa sự cấu nhiễm, thường hằng bất biến cho nên gọi là Chân tịnh. Lúc tu nhân, tâm các Ngài không duyên niệm, nên cõi không duyên niệm; cõi không có tướng trạng tức là cõi vi diệu vô tướng. Lại nữa, tâm các Ngài không có cố chấp, không có phân biệt cho nên cõi không có nơi chốn cố định, không có sai khác kia đây, tự tha. Căn cứ theo vọng mà nói thì có thể chia làm hai loại: Ly vọng chân và Thuần tịnh chân. Cõi Ly vọng là cõi của bồ-tát từ Sơ địa cho đến Thập địa cư trú, cõi này còn hợp với vọng, chưa hoàn toàn lìa vọng, tùy theo giai vị cao thấp, tốt xấu không đồng, như sương móc tan dần thì hư không hiện ra, địa địa ly vọng, cõi vọng từng phần diệt dần, cõi chân dần dần tăng lên. Cái thấy của hàng bồ-tát Nhị địa thù thắng hơn hàng bồ-tát Sơ địa, cho đến cái thấy của hàng bồ-tát Thập địa thù thắng hơn hàng bồ-tát Cửu địa, sự tốt xấu sai biệt tự nhiên sinh, cho nên gọi là cõi ly vọng. Cõi thuần tịnh chỉĐức Phật cư trú, thuần chân không tạp như hư không trong sạch, cõi nước thanh tịnh.

Chân tịnh độ của Phật lại có thể chia hai loại: Chân độỨng độ; hoặc ba loại: Pháp tính, Thật báo, Viên ứng. Trước nói về hai độ Chân và Ứng: chỗ tự thân của Phật cư trú là Chân độ, tùy theo các căn cơ thị hiện thì gọi là Ứng độ. Chân độ tức cõi pháp môn bình đẳng, hình tướng chẳng cố định ở một chỗ nào mà không chỗ nào không có, diệu tịch ly tướng, giống như hư không, vốn là tính duyên khởi tác dụng, ứng hóa nhờ đó mà hiện, vạn vật y theo đó mà sinh, diệu tịch ly tướng này đầy đủ các nghĩa kể trên, gọi là Chân độ. Ứng độ thì tùy theo tâm mà thị hiện, có nơi chốn, có phần hạn nhất định, có sự khu biệt giữa thiện ác, nhiễm tịnh, có sự sai khác của các tướng trang nghiêm. Bởi trong Chân tịnh độ của chư Phật có phân biệt hai độ Chân và Ứng là tùy theo nhân hạnh của nó mà có hai thứ: trí và bi. Trí nương nơi không mà thành, dùng trí để nhiếp hạnh thì hạnh đều ly tướng nên cõi sở đắc là Chân độ diệu tịch ly tướng. Bi tùy nơi hữu mà sinh, dùng bi nhiếp hạnh, hạnh đều là vì chúng sinh cho nên cõi sở đắc là Ứng độ tùy cơthị hiện có khác.

Kế đến nói về ba độ:

1. Pháp tính độ: Bản tính của độ, các nghĩa đồng một thể, hư dung vô ngại, chúng sinh do vọng tưởngtự cách ngại, Nếu khi thành Phật, vọng tưởng ngưng dứt, thật tính của cõi kia tự nhiên hiển hiện, thành tựu dụng tự tại, vì hiển hiện thật tính của nó nên gọi là Pháp tính độ.

2. Thật báo độ: Bồ-tát ở nhân vị rộng tu tịnh nghiệp vô tận pháp giới, do lực huân phát của tịnh nghiệp này nên khi hiển bày Pháp tính độ, ở chỗ pháp giới vô biên tịnh kia, khởi vô lượng sự tướng trang nghiêm thì gọi là Thật báo độ. Pháp tính độ như tự thể của vàng, Thật báo độ như những kỹ xảo khắc chạm trên vàng.

3. Viên ứng độ: Hai chân độ trước giống như tịnh châu, có thể tùy theo chúng sinh mà hiện đủ các loại khác nhau, dụng không khiếm khuyết nên gọi là Viên ứng độ.

Trong ba độ này, hai độ Pháp tính và Thật báo phát xuất từ Chân độ của hai độ Chân và Ứng ở trước; Viên ứng độ tức Ứng độ kia thì ba độ này và hai độ Chân, Ứng chẳng qua là khai hợp khác nhau. Nay đặc biệt thiết lập sự phân loại này để nói về sở y của ba thân mà thôi. Pháp tính độsở y của Pháp tính thân, Thật báo độsở y của Báo thân, Viên ứng độsở y của Ứng hóa thân.

Luận về nhân của ba độ: Pháp tính vô thỉ là nhân của Pháp tính độ, hạnh lục độ v.v…là nhân của Thật báo độ. Trong đó có phân biệt chính nhânduyên nhân. Pháp tính độ lấy pháp tính vô thỉ làm chính nhân, hạnh lục độ v.v…là duyên nhân. Thật báo độ lấy lục độ v.v…làm chính nhân, Pháp tính vô thỉ làm duyên nhân . Pháp tính độ là sự hiển hiện của pháp thể vốn sẵn có, tuy có sự khác nhau về nhân ẩn và quả hiển, nhưng thể của nó hoàn toàn chẳng có tăng giảm, cho nên lấy Pháp tính vô thỉ làm chính nhân. Thật báo độ vốn chẳng có pháp thể, nhưng ở trên pháp tính có nghĩa duyên khởi có thể sinh (gặp duyên liền sinh), lấy hạnh của lục độ v.v…huân phát các thứ sự tướng trang nghiêm mà thôi, tức là lấy hạnh lục độ làm chính nhân. Nhân của Viên ứng độ có và không bất định, nếu nhiếp dụng từ thể thì không còn có nhân riêng, như bóng theo hình mà có, Ứng độ chẳng qua là ảnh của Chân độ, lìa Chân độ ra thì không có nhân riêng của Ứng độ. Nếu phân biệt thể và dụng thì Ứng độ cũng có nhân đồng loại và dị loại. Nhân đồng loại cũng dùng hạnh của Ứng độ để làm nhân của Ứng độ. Chư Phật Như Lai đắc Chân độ đã lâu, hiện tu các hạnh để trang nghiêm cõi Phật, như Phật A-di-đà hiện đang tu bốn mươi tám nguyện và các sở hành để trang nghiêm thế giới Tây phương Cực Lạc. Nhân dị loại là lấy việc thực hành hạnh của Chân độ làm nhân của Ứng độ. Lại nữa, Ứng độ này có hai loại là Pháp ứng độ và Báo ứng độ:

1. Pháp ứng độ do pháp môn tam-muội của tịnh độ nên hiện các loại tịnh độ.

2. Báo ứng độ vì nhân duyên của sức bản nguyện đại bi mà hiện các loại tịnh độ. Như trong Đại thừa nghĩa chương quyển 19 có nói đầy đủ.

Tóm lại, luận điểm về tịnh độ của ngài Huệ Viễn, do nghiệp nhân bất đồng, nên quốc độ sở cảm cũng có tốt xấu sai biệt, nghĩa là do tịnh nghiệp hữu lậu của phàm phu sở cảm nên thành Sự tịnh độ, do nhị thừatịnh nghiệp vô lậu của hàng nhị thừa và bồ-tát duyên quán đối trị sở cảm nên thành Tướng tịnh độ; do thiện căn thật chứng của bồ-tát và Phật sở đắc nên thành Chân tịnh độ. Nhưng Chân tịnh độ của Phật sở đắc lại có chia ra thành hai độ Chân, Ứng và ba độ Pháp tính, Thật báo, Viên ứng. Đây chủ yếu là dựa vào ý nghĩa “Tâm tịnh, độ tịnh” được nói trong kinh Duy-ma và còn dựa vào thuyết của Thập địa kinh luậnNhiếp đại thừa luận v.v… Luận điểm về tịnh độ này có thể nói là hết sức uyển chuyển. Ngài Huệ Viễn đã lập tịnh độ này có nhiều loại khác biệt, vì mỗi loại đều do nghiệp sở cảm thì chư Phật và chúng sinh đều có chung một tịnh độ. Ngài La-thập cho rằng chúng sinh không có tịnh độ, chỉ Phật mới có; ngài Đạo Sinh cho rằng chư Phật không có tịnh độ, chỉ chúng sinh mới có, tất cả đều chấp một bên, chưa nói hết lý. Lại nữa, ngài Huệ Viễn nói Chân tịnh độ của Phật có hai độ Chân, Ứng và ba độ Pháp tính v.v… để nói nghĩa tương quan giữa Phật thânPhật độ, mới nói được nghĩa lý ấy.Ở Ấn Độ đến Phật địa kinh luận của Thân Quang, mới đề xướng thuyết bốn thân, bốn độ. Thuyết này không liên quan với luận điểm này, mà ở Trung Quốc thì đề xướng luận điểm về sự tương quan giữa thân và độ, có thể nói đây là do công của ngài Huệ Viễn, kiến thức sâu rộng của ngài đáng được khen ngợi, nhưng trong đó, ngay cả các cõi trời Dục, Sắc cũng gọi tịnh độ, hoặc là do họ nguyện sinh lên Đâu-suất. Nhưng gọi các cõi trờitịnh độ thì chưa thấy ghi trong các kinh luận. Lại nữa, lập tịnh độ hóa tha của các bồ-tát là Tướng tịnh độ, lấy đây phối hợp với trượng thất của ngài Duy-ma cũng không tránh khỏi sự xuyên tạc.

Tiết 3. Phán định về tịnh độ Di-đà

Ngài Huệ Viễn cho rằng tịnh độ Di-đà là cõi do nghiệp hữu lậu của phàm phu sở cảm mà thành, cho nên cõi ấy thuộc Sự tịnh độ. Lại nữa, căn cứ vào Phật mà nói thì là cõi do ứng nhân mà thành nên gọi là Ứng độ. Điều này được trình bày trong phần Tịnh độ nghĩa của Đại thừa nghĩa chương. Trong Quán kinh sớ của ngài cũng nói tịnh độ có thô và diệu khác nhau, cõi thô là cõi có cả hạng phàm phu phần đoạn sinh tử vãng sinh, cõi diệu là chỉ cho cõi của hàng thánh nhân biến dịch sinh tử cư trú. Lại nữa, cõi Phật A-di-đà được nói trong Quán kinh chính là cõi thô của tịnh độ, Đức Phật A-di-đà còn có cõi diệu, nhưng theo kinh này nói, nên mới phán định tịnh độ Di-đà là cõi thô của Sự tịnh độ.

Lại nữa, Quán kinh sớ lấy Phật A-di-đà ở Tây phương làm Ứng thân Phật, nghĩa là chân thân thì thọ mạng thường trụ, không có diệt độ. Thọ mạng của ứng thân không có nhất định, hoặc ngắn, hoặc dài. Nay thọ lượng của Di-đà rất dài, hàng phàm phu, nhị thừa không thể lường được, cho nên gọi Phật Vô Lượng Thọ. Kinh Quán Thế Âm thụ ký có ghi: “Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, bồ-tát Quán Thế Âm và bồ-tát Đại Thế Chí kế tiếp nhau bổ xứ thành Phật”. Như vậy thì chúng ta có thể biết thọ mạng của Ngài có hạn. Thọ lượng đã có hạn thì thân Ngài chắc chắnỨng thân. Vì thế, Huệ Viễn nói Phật Di-đà là Ứng thân, quốc độ của Ngài là Ứng độ, nhưng Ứng thân vốn phát khởi từ Chân thân, như vậy ngoài Ứng thân, Ứng độ này ra thì nhất định Phật A-di-đà có một Chân thân, Chân độ khác. Phần Tịnh Độ nghĩa trong Đại thừa nghĩa chương có ghi: “Phật A-di-đà đã đắc Chân độ từ lâu”; lại nữa, Quán kinh sớ nói: “Còn có cõi diệu”, kinh này không nói nhưng trong kinh Hoa nghiêm thì có nói rõ nghĩa này. Đây chính là chỉ cho Chân độ của Ngài, nhưng vì chúng sinh cho nên lấy tịnh độ Tây phương trang nghiêm làm Ứng độ. Thuyết của ngài Huệ Viễn có thể nói là thông nghĩa của cả hai môn Bản và Tích.

Tiết 4: Nhân sinh về tịnh độ và giai vị của chín phẩm vãng sinh

Liên quan nhân sinh về Tịnh Độ, trong Quán kinh sớ của ngài Huệ Viễn, đầu tiên ngài liệt kê thuyết của các kinh Bát-nhã, Niết-bàn, Duy-ma và Vãng sinh luận. Trong kinh Bát-nhã lấy tu tập không huệ để diệt trừ tội chướng, muốn sinh Tịnh Độ liền được vãng sinh; kinh Niết-bàn lấy nhân duyên tu giới, tu thí, tu huệhộ pháp để làm nhân cầu vãng sinh tịnh độ; kinh Duy-ma cho rằng nếu người đầy đủ tám pháp lợi ích chúng sinh v.v… thì được vãng sinh tịnh độ; Vãng sinh luận có nói tu ngũ niệm môn: lễ bái v.v…có thể vãng sinh tịnh độ, còn nói đến bốn pháp: tu quán vãng sinh, tu nghiệp vãng sinh, tu tâm vãng sinh và qui hướng vãng sinh. Bởi vì theo ngài Huệ Viễn thì nghiệp tịnh độ đã nói trong Quán kinh, tổng quát được chia thành hai loại: định thiện, tán thiện. Y theo định quán thì gọi là định thiện; tán tâm hành thiện thì gọi là tán thiện. Trong đó, tu quán vãng sinh thuộc về định thiện; ba loại tu nghiệp, tu tâm và quy hướng thuộc về tán thiện. Người tu quán vãng sinh là tu mười sáu pháp quán: Nhật tưởng quán v.v…để cầu vãng sinh tịnh độ. Đây chính là pháp trọng yếu của bộ Quán kinh.

Nhưng trong mười sáu pháp quán thì mười ba pháp quán trước thuộc về pháp quán định thiện, ba pháp quán sau nói về tướng trạng của người vãng sinh có chín phẩm, liệt kê các hạnh tán thiện, cho nên nếu dựa vào các hạnh của chín phẩm mà nói, thì gọi là tán thiện. Nhưng ngài Huệ Viễn gọi ba phẩm này là “Tha sinh quán”, tức là pháp quán quán tướng chín phẩm vãng sinh của người khác; như vậy có thể thấy tất cả mười sáu pháp quán đều thuộc về định thiện. Kế đó, tu tịnh nghiệp vãng sinh, nếu phân theo thứ tự để nói về người vãng sinh thì nhờ tu ba phúc nghiệp: thế phúc, giới phúc, hạnh phúc mà được vãng sinh, tức là hạnh của sáu phẩm thượng, trung trong chín phẩm. Người tu tâm vãng sinh là tu ba tâm: chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm mà được vãng sinh. Đây là chỗ mà người cầu vãng sinh ba phẩm thượng phải phát tâm tu. Quy hướng vãng sinh là tự mình siêng thực hành, từ chỗ thiện tri thức được nghe danh tự Phật, Pháp, Tăng, tán thán công đức của Phật A-di-đà, Quán Âm, Thế Chí và sự vui vi diệu của cõi Phật ấy, rồi nhất tâm quy hướng, hoặc tụng niệm, hoặc lễ bái, hoặc tán thán, hoặc xưng danh hiệu Ngài mà được vãng sinh, đây là sinh nhân của ba phẩm bậc hạ và hạ phẩm của bậc trung. Tóm lại, căn cứ pháp tướng thông thường thì quả của tịnh độ đều do tự nghiệp của chúng sinh mà cảm được, không nói về việc nguyện lực cứu tế v.v…

Lại nữa, ngài Huệ Viễn đem căn cơ của người vãng sinh chín phẩm để phân loại, ba hạng người sinh thượng phẩmcăn cơ Đại thừa, ba hạng người sinh trung phẩmcăn cơ Tiểu thừa, ba hạng người sinh hạ phẩmcăn cơ mới học Đại thừa, mỗi mỗi đều có phân biệt giai vị của các hạng người này. Ba hạng người sinh thượng phẩm: hạng người thượng phẩm thượng sinh là bồ-tát Thuận nhẫn ở Tứ địa, Ngũ địa và Lục địa; hạng người thượng phẩm trung sinh là bồ-tát Tín nhẫnSơ địa, Nhị địa và Tam địa; hạng người thượng phẩm hạ sinh là bồ-tát Phục nhẫn ở bậc tam hiền trước thập địa. Đây là hội thông thượng phẩm thượng sinh trong Quán kinh, người ấy sinh về cõi nước kia tức thời đắc Vô sinh pháp nhẫn, và theo thuyết Ngũ nhẫn của kinh Nhân vương bát-nhã mà giải thích. Kinh Nhân vương bát-nhã nói giai vị của bồ-tát: giai vị tam hiền gồm Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướngPhục nhẫn; bồ-tát Sơ địa, Nhị địa và Tam địaTín nhẫn; bồ-tát Tứ địa, Ngũ địa và Lục địa là Thuận nhẫn; bồ-tát Thất địa, Bát địaCửu địaVô sinh pháp nhẫn; Thập địaNhư Lai địaTịch diệt nhẫn. Căn cứ thuyết này thì Vô sinh pháp nhẫn chính là giai vị của bồ-tát từ Thất địa trở lên đắc được. Sinh về cõi Cực Lạc liền đắc Vô sinh pháp nhẫn thì người ấy chắc chắn là bồ-tát Thuận nhẫn ở Tứ địa, Ngũ địa và Lục địa. Nhưng trong đây chưa chắc là tức thời đắc Vô sinh pháp nhẫn, có thể phải trải qua thời gian dài mới đắc, kinh này chính là chỉ cho người thượng căn nên nói là tức thời. Thượng phẩm trung sinh là bồ-tát Tín nhẫnSơ địa, Nhị địa và Tam địa, kinh nói người thượng phẩm trung sinh sinh về nước Cực Lạc, trải qua một tiểu kiếp thì đắc Vô sinh pháp nhẫn, họ đắc nhẫn ở sau thượng phẩm thượng sinh. Nhưng trong đây cũng có người trải qua hai, ba tiểu kiếp mới đắc Vô sinh pháp nhẫn, cho nên theo người thù thắng mà nói là một tiểu kiếp. Thượng phẩm hạ sinh là bồ-tát Phục nhẫn ở bậc tam hiền trước thập địa, kinh nói người thượng phẩm hạ sinh trải qua ba tiểu kiếp mới đắc Bách pháp minh môn, trụ Hoan hỉ địa.

Ba hạng người sinh trung phẩm: Trung phẩm thượng sinh là bậc thánh ba quả trước của Thanh văn; trung phẩm trung sinh là hàng nội phàm, ngoại phàm kiến đạo trở về trước; trung phẩm hạ sinh là hạng thế tục phàm phu. Bậc thánh ba quả trước thuộc trung phẩm thượng sinh, kinh nói hạng người này sinh nước kia tức thời đắc A-la-hán; trung phẩm trung sinh là hàng nội phàm, ngoại phàm kiến đạo trở về trước, kinh nói hạng người này sinh nước kia bảy ngày đắc Tu-đà-hoàn, trải qua nửa kiếp thì đắc A-la-hán; thế tục phàm phu của trung phẩm hạ sinh, kinh nói hạng người này sinh nước kia trải qua một kiếp đắc A-la-hán, thời gian kiếp số đắc quả của họ lâu hơn trung phẩm trung sinh. Các phẩm này cũng đều trải qua nhiều kiếp số, trong kinh nói đó là theo sự tối thắng của họ.

Ba hạng người sinh hạ phẩm, quá khứ hạng người này từng thực hành Đại thừa, nhưng vẫn là phàm phu, không chứng đắc giai vị tu đạo. Bởi vì sự nặng nhẹ của tội đã tạo mà lập thượng, trung, hạ. Nói như thế thì ngài Huệ Viễn chuyên lấy quả vị sau khi vãng sinh làm tiêu chuẩn, định ra giai vị của người được vãng sinh chín phẩm. Theo thuyết Ngũ nhẫn trong kinh Nhân vương bát-nhã có ghi, lấy Vô sinh pháp nhẫn làm giai vị sở đắc, của bồ-tát địa thứ bảy trở lên, giai vị được phán định rất cao, tuy người ba phẩm hạ ở quá khứ cũng đã từng tu hành Đại thừa. Luận điểm này của ngài Huệ Viễn về sau bị Ngài Ca Tài, Thiện Đạo đả phá, vả lại giáo nghĩa của chính ngài cũng tự mâu thuẫn với nhau. Vì sao? Vì ngài Huệ Viễn nói bồ-tát Sơ địa trở lên nhập Chân tịnh độ, thấy Chân thân của Phật, vậy thì bồ-tát Tứ địa, Ngũ địa, Lục địa của thượng phẩm thượng sinh, bồ-tát Sơ địa, Nhị địa, Tam địa của thượng phẩm trung sinh, tịnh độ của họ sinh đương nhiên là Chân tịnh độ. Nhưng ngài Huệ Viễn đã phán định tịnh độ được nêu trong Quán kinh là cõi thô của Sự tịnh độ, rõ ràngmâu thuẫn. Chín phẩm vãng sinh mà ngài Huệ Viễn gọi là ‘Tha sinh quán’ chẳng qua chỉ là đối tượng sở quán của người định thiện, nhưng ngoài tu quán vãng sinh nêu thêm tu nghiệp cho đến quy hướng vãng sinh, thật ra ngài Huệ Viễn cho rằng cũng có người tu tán thiện chín phẩm mà được vãng sinh tịnh độ. Nếu như vậy thì ngài Ca Tài v.v…nói tịnh độ Di-đà thông cả Báo độHóa độ hình như thỏa đáng hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25567)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37833)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19514)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18592)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14181)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20061)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9470)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14328)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35485)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10617)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19642)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23160)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13336)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10714)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20160)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10569)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9921)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14839)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17587)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17540)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13134)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31086)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25666)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13941)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17465)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10932)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12252)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10435)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12235)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11731)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9593)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12307)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9151)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8454)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9921)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9733)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11998)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14368)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9881)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11180)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8269)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10945)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14029)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9873)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15149)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12994)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23033)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23894)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12520)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15390)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17730)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14995)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16505)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16007)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17543)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11562)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11593)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17777)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10728)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10497)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11280)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12042)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11010)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36361)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8935)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9625)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34663)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17225)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10208)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10430)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12157)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13575)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14597)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9123)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24754)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11609)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10289)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15891)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15525)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14476)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12966)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12409)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14526)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18308)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9549)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18485)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18538)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18982)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18776)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11781)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13291)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47943)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11021)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13514)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13006)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11042)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12523)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11035)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31727)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11641)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant