Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Serkong Dorje Chang

15 Tháng Chín 201000:00(Xem: 6294)
Serkong Dorje Chang

SERKONG DORJE CHANG

Có một câu chuyện tương tự về Serkong Dorje Chang sống ở Nepal – Hóa Thân của Serkong Dorje Chang đã sống ở Tây Tạng và cũng là một geshe lharampa. Một geshe lharampa thì giống như một giáo sư có phẩm tính cao cấp nhất, một đại học giả, nhưng trong trường hợp này không chỉ là một học giả chữ nghĩa mà cũng có kinh nghiệm về con đường. Sau này ngài trở thành một trong số ít Lạt Ma được Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Mười Ba chính thức công nhận là đã đạt mức độ cao cấp của con đường Kim Cương thừa để được phép thực hành với một phối ngẫu trí tuệ. Vị Hóa Thân sống ở Nepal đã thị tịch vài năm trước và đã tái sinh, hiện đang tu học tại Tu viện Ganden miền nam Ấn Độ.

Thông thường thì tâm tôi đầy sự hoài nghimê tín, nhưng cứ mỗi lần tôi đi thăm ngài thì tôi không nghi ngờ gì rằng khi ở trước mặt ngài, tôi đang ở trước sự hiện diện của Yamantaka. Không có một do dự nào rằng Serkong Dorje Rinpoche là Yamantaka, một hiện thể giác ngộ, phương diện phẫn nộ nhất của Đức Manjushri (Văn Thù), vị Phật của trí tuệ. Tôi luôn luôn tin chắc một trăm phần trăm rằng ngài là Yamantaka.

Serkong Dorje Chang hoàn toàn giống như những yogi Ấn Độ cổ xưa như Tilopa và Naropa, các bậc tiền bối của dòng truyền thừa được tiếp nối bởi Marpa và Milarepa, nhưng sống trong thời hiện đại. Thực sự thì có một hôm chính ngài đã nói với một vị sư rằng ngài là hiện thân của Marpa. Đôi khi ngẫu nhiên xảy ra những điều như thế. Vào một ngày tốt lành – tôi không muốn nói về thời tiết – khi đúng thời, Rinpoche sẽ nói một vài điều thú vị. Vào cuối khoá nhập hạ hàng năm của các tu sĩ – yar-ne - là một phần của thực hành vinaya (Luật) truyền thống - các tu sĩ trong tu viện của ngài ưa thích gag-ye, sự xả thất. Vào dịp đó thường có một cuộc dã ngoại, ở đó Rinpoche sẽ kể cho các tu sĩ nhiều câu chuyện thú vị.

Thỉnh thoảng Rinpoche và một vài tu sĩ đi dự các lễ puja (1) tại nhà của những thí chủ ở Kathmandu. Khi buổi lễ chấm dứt họ trở về tu viện trên núi Swayambhunath mà những du khách gọi là “chùa khỉ” vì có rất nhiều khỉ ở đó. Một trong những tu sĩ của ngài xuất thân từ học viện Sera-je của chúng tôi. Ông là một phụ tá umdze, vị phụ tá lãnh đạo các lễ cầu nguyệnthường có một ít tu sĩ khác trợ giúp cho vị lãnh đạo việc hát tụng, ông là một trong những người đó. Vì thế một hôm khi tất cả đang trở về tu viện, Serkong Dorje Chang nói với tu sĩ này: “Thực ra, tôi thực sự là Marpa.”

Serkong Tsenshab Rinpoche, người sống ở Dharamsala và là một trong những guru của Đức Đạt Lai Lạt Ma – ngài đã ban cho Đạt Lai Lạt Ma một luận giảng về tác phẩm Ngọn Đèn trên Con Đường Đi tới Giác ngộ của Atisha cũng như một vài giáo lý khác – cũng là một trong những guru của tôi và tốt lành một cách khác thường đối với tôi. Mặc dù về phần tôi, tôi rất lười và thiếu năng lực, còn Rinpoche thì luôn luôn giảng dạy cho tôi bất kỳ điều gì tôi thỉnh cầu. Ngài luôn luôn chăm sóc tôi, dẫn dắt tôi và thực sự rất tử tế.

Thân phụ của Serkong Tsenshab Rinpoche là Serkong Dorje Chang, người đã sống ở Tây Tạng – là người sau khi trở thành một geshe lharampa đã đạt được những cấp độ tantra cao cấp nhất và đã thực hành với một phối ngẫu trí tuệ. Serkong Tsenshab Rinpoche là con trai ông, và sau này khi Serkong Dorje Chang tái sinh, Serkong Tsenshab Rinpoche trở thành Thầy của Hóa Thân này, Thầy của Hoá Thân của thân phụ ngài. Serkong Dorje Chang cũng nói với vị tu sĩ ở Sera-je rằng Serkong Tsenshab Rinpoche là Tarma Dode, con trai của Marpa, và Lạt ma Hoá Thân khác, Tsechog Ling Rinpoche, là Milarepa. Vì thế, Serkong Dorje Chang nói: “Thực ra, chúng ta giống những vị này.”

Ngài Serkong Tsenshab Rinpoche thường nói: “Ồ, Serkong Dorje Chang – những yogi ngày xưa đó đại loại là như thế.”

Ngài không nhiều lời, không kể lại bất kỳ câu chuyện nào, mà hầu như chỉ mô tả như thế. Có một lần Serkong Dorje Chang đang du hành tới Bodh Gaya – có lẽ đi hành hương hay đi nhận Giáo pháp của Đức Đạt Lai Lạt ma – và những chiếc y tu sĩ của ngài, những chiếc y vàng cần phải có, đã bị bỏ quên trên một chiếc tắc xi tại Patna. Sau đó, khi vị thị giả nói với Rinpoche rằng chúng đã thất lạc, đã bị lấy mất, thì ngài nói: “Ồ, thật là tốt,” có nghĩa là ngài sung sướng vì những kẻ cắp có thể nhận được một vài ích lợi từ những chiếc y đó, và chúng bị đánh cắp thì cũng đáng.

Mặc dù tôi chưa bao giờ nhận được từ Serkong Dorje Chang những sự nhập môn hay truyền khẩu các bản văn từ đầu tới cuối, nhưng tôi coi ngài như một trong những guru của tôi. Về cơ bản thì ngài là như thế. Khi Lạt ma Yeshe và tôi tới Nepal, chúng tôi ở bên ngoài Kathmandu tại tu viện của phái Gelug ở Boudhanath, gần đại tháp quý báu. Nó là tu viện Gelug duy nhất tại Boudha, và vào lúc đó có lẽ là tu viện Tây Tạng duy nhất có các tu sĩ. Chúng tôi ở trên lầu tu viện khoảng một năm. Mỗi năm vào tháng tư Tây Tạng, tại Saka Dawa, các tu sĩ thực hành nyung-na (2). Vào năm chúng tôi ở đó thực hành này được bảo trợ bởi một tín chủ có mối liên hệ với một Lạt Ma khác ở Swayambhunath là Drubtob Rinpoche, chứ không phải Serkong Dorje Chang. Phù hợp với lòng sùng mộ của mình, vị tín chủ muốn Drubtob Rinpoche ban lễ truyền tám giới luật Đại thừa. Nhưng các tu sĩ Gelug không quan tâm nhiều tới vị này. Họ muốn Serkong Dorje Chang bởi Drubtob Rinpoche đã thực hành Bổn Tôn Hayagriva Bí Mật Nhất mà Học viện Sera-je của chúng tôi thực hành và các tu sĩ thì không – họ nghĩ rằng đó là một Bổn Tôn Nyingma hay một vị nào như thế. Hầu như bởi lý do này mà có một vài sự bất đồng.

Các tu sĩ thắng thế và Serkong Dorje Chang được mời tới để ban lễ truyền tám giới luật Đại thừa vào sáng sớm. Rinpoche tới đó mang theo bản văn giới luật. Ngài mở sách ra và nói: “Nếu guru của các bạn bảo các bạn liếm phân còn nóng hổi, hãy cúi xuống đất lập tức và liếm nó!” Rồi với cái lưỡi thè ra và tạo nên âm thanh nhóp nhép, ngài bắt chước một con chó liếm phân. “Đó là cách thực hành Pháp,” ngài nói. Rồi ngài bước ra. Đó là động lực của ngài để nhận những giới luật. Nhưng ngài không thực sự ban chúng – ngài chỉ ban lời khuyên đó rồi ra đi. Nó giống như một trận nổ nguyên tử – một giáo lý hết sức mãnh liệt.

Nó thực sự làm rung động tâm thức. Ngay trên căn bản của giáo huấn đó mà tôi coi ngài như một guru. Đó là tất cả những gì ngài giảng vào buổi sáng hôm đó. Nhưng ngài là người thấu hiểu mọi sự; một yogi vĩ đại, như Serkong Tsenshab Rinpoche đã nói. 

Serkong Dorje Chang thường đi nhiễu quanh đại tháp tôn quý tại Swayambhunath, thánh tích chính yếu, nguyên thủy ở Kathmandu.

Đối với những người không biết ngài là ai hay không hiểu những phẩm tính mà ngài hiện thân, ngài xuất hiện như một tu sĩ rất đơn giản. Họ cho rằng ngài không biết gì hết – một tu sĩ đơn sơ, xâu chuỗi trong tay, đi nhiễu quanh tháp. Đó là cách ngài xuất hiện đối với những người bình thường. Ngài có thể xuất hiện giống như ngài không biết gì hết, nhưng thực ra ngài hiểu mọi sự.

Đôi khi ngài đi nhiễu cùng với mọi người và nếu đúng thời, nếu đó là ngày may mắn của họ thì ngài thình lình biến thành một người lạ và nói: “Anh không còn sống lâu nữa đâu,” hay “Anh sắp chết trong vòng một tháng”; “Cách tốt nhất là lễ lạy Ba Mươi Lăm Vị Phật.” Đại loại như thế. Rinpoche sẽ tiên tri và khuyên người ta phải làm những gì. Nhưng nếu không đúng lúc, nếu không phải là ngày may mắn của bạn thì cho dù bạn có hỏi thẳng ngài điều gì đó, ngài sẽ nói: “Ồ, tôi không biết gì hết. Tôi hoàn toàn ngu dốt.”

Lần đầu tiên tôi nghe nói tới Serkong Dorje Chang là khi tôi ở Buxa – những câu chuyện về việc ngài thình lình biến mất và lại xuất hiệnnơi khác và những thị giả của ngài phải đi tìm ngài; nhiều câu chuyện như thế. Vì thế, ngay khi tới Nepal chúng tôi rất nóng lòng đi tới Swayambhunath để gặp ngài. Ngài đang ở nhà của một tín chủ bởi ngài không có tu viện riêng vào lúc đó và bởi một vài vấn đề chính trị ngài đã bị đuổi khỏi tu viện đang ở. Đó là nhà của một người Nepal và ngài đang ở trên lầu. Khi chúng tôi tới, vị tu sĩ rất đơn sơ này bước xuống những bậc thang và chúng tôi hỏi ông: “Serkong Dorje Chang ở đâu?” Ông bảo chúng tôi chờ và trở vào nhà bằng cửa khác, không phải cửa mà ông vừa đi ra. Sau đó chúng tôi lên lầu tới phòng của Rinpoche, và vị tu sĩ đơn giảnchúng tôi đã nhìn thấy xuống thang ban nãy đang ngồi trên giường. Đó là Serkong Dorje Chang.

Đệ tử Tây phương đầu tiên của chúng tôi, người đã được thọ giới làm ni cô, Công chúa Zina Rachevsky – xuất thân từ giai cấp quý tộc Nga – cùng sống với chúng tôi vào lúc đó. Serkong Dorje Chang có một chồng lớn các bản văn bên cạnh giường, vì thế cô buột miệng: “Xin đọc cho chúng con điều nào đó trong này.” Thông thường thì bạn không yêu cầu như thế! Thật ra, thường thì khi chúng tôi đưa cô tới gặp những Lạt ma cao cấp, chúng tôi giúp cô chuẩn bị những vấn đề về Pháp mà cô sẽ hỏi. Dù thế nào đi nữa thì đó là điều cô ta đã nói và Serkong Dorje Chang trả lời: “Không, không, không, tôi không biết gì hết, tôi không biết gì hết.” Nhưng sau đó Rinpoche ban một vài giáo lý sâu xa không thể tin nổi. Tôi không thể nhớ chúng là gì! Tôi không thể nhớ được! Nhưng chúng sâu xa thật khó tin; thực sự sâu xa.

Tất cả những gì tôi có thể nhớ là tinh túy của nó: “Nếu guru của bạn ngồi đó trên sàn nhà, bạn phải nghĩ rằng đó là Đức Phật Guru Thích Ca Mâu Ni đang an tọa ở đó.” Tôi không thể nhớ chính xác những ngôn từ, chúng nhiều hơn thế, nhưng đó là tinh túy của lời khuyên của Rinpoche dành cho cô.

Một trong những người hộ trì cho Rinpoche là một người Tây Tạng xứ Amdo. Ông là tín chủ lớn nhất của tu viện. Mỗi năm ông mời Rinpoche và các tu sĩ của ngài tới nhà ông để tụng 100.000 ngàn lần những Lời Tán thán Hai mươi mốt Tara và dù thế nào chăng nữa thì họ cũng ở đó nhiều tuần để thực hiện công việc đó. Serkong Dorje Chang ở đó trong suốt thời gian này.

Vị thí chủ quan trọng này đã xây tất cả những gian phòng của các tu sĩ tại tu viện; một điều thật ý nghĩa. Một hôm ông tới tu viện thăm Rinpoche và Rinpoche nói: “Và ông là ai?” khi giả vờ không biết ông ta. Khi ấy thị giả của Rinpoche giải thích ông ta là ai, nhưng Rinpoche vẫn không lộ bất kỳ dấu hiệu nào là nhận ra được ông ta. Người đàn ông này là một đại thương gia và thường buôn bán các tượng Phật để nuôi gia đình.

Hẳn là ông ta đã làm điều gì đó thực sự tiêu cực ngay trước khi tới thăm Rinpoche, vì thế có lẽ là một biểu hiện của sự che chướng đó, Rinpoche đã lộ ra vẻ không biết ông là ai. Không có cách nào khiến ngài có thể quên ông ta.

Tu viện thường có một cái bình rất lớn để pha chế trà và thực phẩm cho tất cả các tu sĩ. Một hôm nó bị đánh cắp, nhưng khi các tu sĩ nói với Rinpoche về điều đó thì ngài nói: “Hãy mời những kẻ cắp tới đây và tặng cho họ một khatag (khăn choàng) để cảm ơn việc họ đã lấy cái bình đó.” Nhưng tôi không chắc là tu việnhoàn thành điều đó hay không!

Có lần Bồ Tát Togme Zangpo, tác giả của Ba Mươi Bảy Thực Hành của các Bồ Tát được mời tới một tu viện để ban những giáo lý và dự một lễ puja, và nhận nhiều vật cúng dường. Không lâu sau khi rời tu viện ngài và đoàn người của ngài bị những tên cướp chặn đường, chúng trói họ lại và lấy đi tất cả những vật cúng dường. Tôi không rõ chúng có đánh họ hay không, nhưng chắc chắn là chúng cướp đi mọi thứ. Trước khi bọn cướp bỏ đi, Bồ Tát Togme Zangpo yêu cầu chúng đợi một lát để ngài có thể hồi hướng cho chúng mọi thứ chúng đã lấy. Dĩ nhiên là chúng đã lấy mọi vật chất, nhưng ngài nhất định yêu cầu được cầu nguyện cho sự an lành của chúng. Sau đó ngài khuyên chúng tránh tới gần tu viện khi chúng ra đi, nếu không các tu sĩ nhận ra là chúng đã cướp những vật cúng dường và sẽ đánh đập chúng!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10105)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10503)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10122)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20343)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11641)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13778)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19087)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46680)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12084)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11651)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23039)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17823)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10135)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17730)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13910)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14031)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15104)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20264)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18258)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17373)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18156)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12701)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12820)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13395)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17003)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11463)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18267)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18568)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21343)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22110)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16838)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12547)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15319)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24558)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14212)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11629)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19678)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13405)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22793)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18986)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18449)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21608)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20524)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20000)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14044)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15002)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13785)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15095)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17228)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15285)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12809)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15864)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12969)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13127)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15012)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22615)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7143)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19347)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37650)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9157)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8648)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17867)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14855)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27018)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19910)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15250)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15475)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26774)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14555)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19677)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14617)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18646)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15916)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16334)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19349)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19721)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19887)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18599)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29782)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14556)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17744)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32399)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15253)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17287)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29738)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31508)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64679)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32786)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20210)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18496)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30786)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19901)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45881)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32572)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39328)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40419)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50098)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19088)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18542)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20684)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant