Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20

15 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 6751)
20


TRUNG PHONG TAM THỜI HỆ NIỆM

Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký
Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Phụ Lục:
Trung Phong Tam Thời 
Hệ Niệm Pháp Sự Toàn Tập
(nguyên bản)

 Đàn tràng nên bày đối diện với bàn thờ vong. Trên tòa bày tượng Phật tiếp dẫn. Bày đầy khắp hương, hoa, đèn, đuốc, kiền chùy [1], hai cái dẫn khánh. Ngoài ra còn bày pháp tọa nghênh thỉnh. Đại chúng tụ tập, gióng trống. Trai chủ lễ thỉnh xong. Người giữ pháp khí đánh pháp khí nghênh thỉnh. Lần lượt đánh hai cái dẫn khánh bốn lần, đại chúng đối diện vái nhau, rồi hướng về Phật xá một xá. Trai chủ đốt hương xong, người cầm pháp khí đi trước, trai chủ theo sau đến chỗ nghênh thỉnh. Những người giữ pháp khí đứng đối diện nhau trước pháp tòa. Trai chủ cắm hương vào lư hương, hướng về pháp sư lạy một lạy. Đánh pháp khí bốn lần. Đối diện nhau xá rồi hướng về Phật xá xong, xoay mình đi ra ngoài. Pháp sư đi sau người cầm dẫn khánh. Trai chủ theo sau. Đến trước đàn đứng nghiêm, cử bài Hương Tán như sau: 

1. Tán Hương

Giới định chân hương, 

 Phần khởi xung thiên thượng, 

 Đệ tử kiền thành, 

 Nhiệt tại kim lư phóng, 

 Khoảnh khắc nhân uân[2], 

 Tức biến mãn thập phương

 Tích nhật Da Du, 

Miễn nạn tiêu tai chướng. 

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

(Giới định chân hương, 

Đốt xông tận trời thẳm, 

Đệ tử kiền thành, 

Thắp đặt trong lư vàng, 

Khoảnh khắc khói cuồn cuộn

Tỏa khắp mười phương

Xưa bà Da Du, 

Thoát nạn tiêu tai chướng. 

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát)

 Xướng xong, sư bạch: 

 Giác hải hư không khởi, 

 Sa Bà nghiệp lãng lưu, 

 (Vị chủ lễ xướng)

 Nhược nhân đăng bỉ ngạn

 (Đại chúng hòa)

 Cực Lạc hữu quy châu. 

 (Biển giác khởi hư không,

 Sa Bà sóng nghiệp trào, 

 Ai muốn lên bến giác, 

 Cực Lạc sẵn thuyền về) 

 Đại chúng niệm Phật, đến trước bàn linh, xướng [nam mô] Thanh Lương Địa [Bồ Tát], tụng Tâm Kinh, chú Vãng Sanh, xướng Liên Trì Hải Hội, hồi hướng xong, pháp sư bèn nói pháp ngữ.

 Nam mô A Di Đà Phật
 
 

 Xướng Phật hiệu này, đến trước bài vị, bèn xướng tiếp
 
 

 Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

 

 2. Tâm Kinh

Nam mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
 
 

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận; nãi chílão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư. 

Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật đa chú, tức thuyết chú viết: 
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha (3 lần) 
 
3. Chú Vãng Sanh
 
 Nam mô a di đa bà dạ, đá tha già đa dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, a di rị đá, tất đam bà tỳ, a di rị đá, tỳ ca lan đế, a di rị đá, tỳ ca lan đa. Già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha (3 lần) 
 
 
4. Biến Thực Chân Ngôn
 
 
 Nam mô tát phạ đát tha nga đa, phạ lồ chỉ đế. Án, tam bạt ra, tam bạt ra, hồng (3 lần)
 
 
5. Cam Lộ Thủy Chân Ngôn 
 
 
 Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha: Án, tô rô, tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, sa bà ha (3 lần) 
 
 
6. Phổ Cúng Dường Chân Ngôn 
 
 
 Án, nga nga nẵng, tam bà phạ, phạt nhật ra, hộc (3 lần) 
 
 
7. Liên Trì Tán 
 
 \Liên | |trì Ohải | | hội C | | 
 ODi | |Đà ONhư | | OLai | | 
OQuán | |Âm, OThế | |Chí o |tọa O | |liên đàiC | o| | o| o| o | 
 OTiếp | |dẫn Othượng | |kim giai o\| o | | oC |o | | o | 
 OĐại | Othệ | Ohoằng | | khaiO | | O | |, 
 OPhổ | |nguyện O |ly Otrần| aiO. 
 (Liên trì hải hội
 Di Đà Như Lai
 Quán Âm, Thế Chí ngự đài sen
 Tiếp dẫn lên thềm vàng, 
 Đại thệ rộng mở, 
 Phổ nguyện thoát trần ai) 
 
 
8. Kệ Hồi Hướng 
 
 
 Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung, 
 Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
 Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
 Bất Thoái Bồ Tát vi bạn lữ 
 (Nguyện sanh Cực Lạc cõi Tây Phương
 Hoa sen chín phẩm làm cha mẹ
 Hoa nở gặp Phật chứng Vô Sanh
 Bất Thoái Bồ Tát làm bè bạn) 
 
 
9. Tuyên pháp ngữ
 Hồi hướng xong, pháp sư nói bài văn sau đây: 
 
 
Pháp vương lợi vật
 Bi trí hồng thâm, 
 Phổ biến thập phương
 Minh dương mị cách. 
Kim mông trai chủ… cung vị… giới, phùng… chi kỳ, đặc thỉnh sơn tăng đăng tọa. Y bằng giáo pháp, tác Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự. Nãi nhĩ vong linh, tao thử thắng duyên, tự nghi nghiêm túc oai nghi, lai lâm tọa hạ, cung linh diệu pháp, nhất tâm thọ độ. 
 (Pháp vương lợi vật
 Bi trí rộng sâu, 
 Trọn khắp mười phương
 Âm, dương chẳng cách.
Nay nhờ trai chủ… kính vì dịp…. gặp lúc… riêng thỉnh sơn tăng lên tòa. Nhờ vào giáo pháp, làm Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự. Vong linh các ngươi, gặp duyên thù thắng này, hãy tự nghiêm túc oai nghi, đến dự dưới tòa, kính nghe diệu pháp, một dạ lãnh thọ giáo hối)
 
 
 Nói bài văn ấy xong, đại chúng niệm Phật trở về đàn tràng, lên tòa, đứng đối diện cử bài Tán Hương:
 
 
10. Lư Hương Tán
 
 
Lư hương sạ nhiệt,
 Pháp giới mông huân,
Chư Phật hải hội tất dao văn, 
Tùy xứ kết tường vân,
Thành ý phương ân,
Chư Phật hiện toàn thân
Nam mô Vân Lai Tập Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần). 
 (Lò hương vừa đốt,
Pháp giới khắp xông,
Hải hội chư Phật thảy xa nghe, 
Chốn chốn kết mây lành, 
 Lòng thành ân cần
Chư Phật hiện toàn thân
Nam mô Vân Lai Tập Bồ Tát Ma Ha Tát
 
 
 Xướng xong, pháp sư cầm hương, nói:
 
 
11. Chúc Hương 
 
 
Thử nhất biện hương, căn bàn kiếp ngoại, chi bá trần hoàn; bất kinh thiên địa dĩ sanh thành. Khởi thuộc âm dương nhi tạo hóa? Nhiệt hướng lô trung, chuyên thân cúng dường Thường Trụ Tam Bảo, sát hải vạn linh, Cực Lạc đạo sư A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng. Tất trượng chân hương, phổ đồng cúng dường
(Một nén hương này, gốc cuộn ngoài kiếp, nhánh trùm vũ trụ, chưa từng được trời đất sanh thành. Há lẽ thuộc âm dương tạo hóa? Đốt đặt trong lò, chuyên dâng cúng dường Thường Trụ Tam Bảo, sát hải vạn linh, Cực Lạc đạo sư A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng, đều cậy vào chân hương, bình đẳng cúng dường khắp cả).
 
 
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát
 
 
Niệm ba lần xong, đại chúng cùng ngồi xuống, khắc [3] dẫn khánh, khởi mõ, tụng:
 
 
ĐỆ NHẤT THỜI PHÁP SỰ
 
 
1. Kinh Di Đà


Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát (3 lần)
Phật Thuyết A Di Đà Kinh
Như thị ngã văn
Nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên, dữ đại tỳ-kheo tăng, thiên nhị bách ngũ thập nhân câu, giai thị đại A La Hán, chúng sở tri thức: Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lỵ Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà. Như thị đẳng chư đại đệ tử.
Tinh chư Bồ Tát Ma Ha Tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, dữ như thị đẳng chư đại Bồ Tát Ma Ha Tát, cập Thích Đề Hoàn Nhân đẳng vô lượng chư thiên đại chúng câu. 
Nhĩ thời, Phật cáo Xá Lợi Phất
- Tùng thị Tây Phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc. Kỳ độ hữu Phật, hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp.
Xá Lợi Phất! Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc? Kỳ quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc.
Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu táp vi nhiễu. Thị cố bỉ quốc danh vi Cực Lạc.
Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ hữu thất bảo trì, bát công đức thủy sung mãn kỳ trung. Trì để thuần dĩ kim sa bố địa, tứ biên giai đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hiệp thành. Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não nhi nghiêm sức chi. Trì trung liên hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết.
Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ thường tác thiên nhạc, hoàng kim vi địa. Trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa. Kỳ độ chúng sanh, thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thạnh chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành.
Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
Phục thứ, Xá Lợi Phất! Bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu, bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng chi điểu. Thị chư chúng điểu trú dạ lục thời xuất hòa nhã âm. Kỳ âm diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, như thị đẳng pháp, kỳ độ chúng sanh, văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá Lợi Phất! Nhữ vật vị thử điểu thực thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ vô tam ác đạo
Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thực? Thị chư chúng điểu giai thị A Di Đà Phật dục linh pháp âm tuyên lưu biến hóa sở tác
Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm. Thí như bách thiên chủng nhạc đồng thời câu tác. Văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm.
Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà?
Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quang minh vô lượng chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại. Thị cố hiệu vi A Di Đà.
Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật thọ mạng cập kỳ nhân dân, vô lượng vô biên A Tăng Kỳ kiếp. Cố danh A Di Đà.
Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp
Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, giai A La Hán, phi thị toán số chi sở năng tri. Chư Bồ Tát chúng diệc phục như thị.
Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm
Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí. Kỳ trung đa hữu Nhất Sanh Bổ Xứ, kỳ số thậm đa, phi thị toán số sở năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên A Tăng Kỳ thuyết.
Xá Lợi Phất! Chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? Đắc dữ như thị chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ.
Xá Lợi Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên đắc sanh bỉ quốc. 
Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn. Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền. Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ
Xá Lợi Phất! Ngã kiến thị lợi cố thuyết thử ngôn: “Nhược hữu chúng sanh, văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ”.
Xá Lợi Phất! Như ngã kim giả tán thán A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức chi lợi. Đông phương diệc hữu A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm kinh”.
Xá Lợi Phất! Nam phương thế giới hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.
Xá Lợi Phất! Tây phương thế giới hữu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”. 
Xá Lợi Phất! Bắc phương thế giới hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”. 
Xá Lợi Phất! Hạ phương thế giới hữu Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”. 
Xá Lợi Phất! Thượng phương thế giới hữu Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”. 
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi “Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”? 
Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thị kinh, thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
Thị cố Xá Lợi Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết.
Xá Lợi Phất! Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh. 
Thị cố Xá Lợi Phất! Chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.
Xá Lợi Phất! Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công đức. Bỉ chư Phật đẳng diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công đức, nhi tác thị ngôn: “Thích Ca Mâu Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Sa Bà quốc độ, ngũ trược ác thế: kiếp trước, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị chư chúng sanh thuyết thị nhất thiết thế gian nan tín chi pháp”. 
Xá Lợi Phất! Đương tri ngã ư ngũ trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị nhất thiết thế gian thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan! 
Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá Lợi Phất cập chư tỳ-kheo, nhất thiết thế gian, thiên, nhân, A Tu La đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.

Phật thuyết A Di Đà Kinh
 
(Tôi nghe như thế này: 
Một thời, Phật ngự tại nước Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc và đại tỳ-kheo tăng một ngàn hai trăm năm mươi người cùng nhóm họp, đều là những đại A La Hán được mọi người hay biết: Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lỵ Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà. Các đại đệ tử như thế đó.
Và các Bồ Tát Ma Ha Tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát và các đại Bồ Tát như thế và Thích Đề Hoàn Nhân v.v… vô lượng chư thiên đại chúng cùng nhóm họp.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo trưởng lão Xá Lợi Phất

- Từ đây qua khỏi mười vạn ức cõi Phật về phương Tây, có thế giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy có Phật, hiệu là A Di Đà, nay hiện đang thuyết pháp
 Này Xá Lợi Phất! Cõi ấy vì sao tên là Cực Lạc? Chúng sanh cõi ấy không có các sự khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên tên là Cực Lạc
 Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc, bảy tầng lan can, bảy tầng lưới mành, bảy tầng hàng cây, đều bằng bốn báu, bao quanh trọn khắp. Vì thế, cõi ấy tên là Cực Lạc.

Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạcao bảy báu, nước tám công đức đầy ắp trong ấy. Đáy ao thuần dùng cát vàng trải đất. Bốn phía là bậc lên, lối đi, dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên có lầu gác, cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang hoàng. Hoa sen trong ao, to như bánh xe, màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng, vi diệu thơm sạch. 

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế. 
Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thường tấu nhạc trời, vàng ròng làm đất. Ngày đêm sáu thời, mưa hoa mạn-đà-la cõi trời. Chúng sanh cõi ấy, thường vào sáng sớm, ai nấy dùng y kích đựng các hoa đẹp, cúng dường mười vạn ức Phật trong những phương khác. Trong khoảng bữa ăn, trở về nước mình, dùng cơm, kinh hành.
Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi ấy thường có các loài chim kỳ diệu nhiều màu, như chim: bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hòa nhã. Tiếng ấy diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, các pháp như vậy. Chúng sanh cõi ấy, nghe tiếng ấy rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng
Này Xá Lợi Phất! Ông chớ có nói những con chim ấy thật sự do tội báo sanh ra. Vì cớ sao vậy? Cõi nước Phật ấy không có ba đường ác
Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật đó còn không có cái tên ba đường ác, huống hồ có thật? Các loài chim ấy đều do A Di Đà Phật muốn pháp âm được tuyên lưu bèn biến hóa ra. 
Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và lưới mành báu, phát ra âm thanh vi diệu, ví như trăm ngàn loại nhạc cùng lúc hòa tấu. Nghe âm thanh ấy tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng
 Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao Phật ấy hiệu A Di Đà? 
Này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy quang minh vô lượng chiếu các cõi nước mười phương không bị chướng ngại. Vì thế, Ngài hiệu là A Di Đà
Lại này Xá Lợi Phất! Thọ mạng Phật ấy và nhân dân Ngài vô lượng vô biên A Tăng Kỳ kiếp, nên tên là A Di Đà
Này Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật đến nay đã là mười kiếp. 
Lại này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh Văn, đều là A La Hán, chẳng thể tính toán để biết được nổi. Các vị Bồ Tát cũng giống như thế.
Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Lại này Xá Lợi Phất! Chúng sanh sanh vào cõi nước Cực Lạc đều là A Bệ Bạt Trí, trong số ấy nhiều vị là Nhất Sanh Bổ Xứ, số ấy rất nhiều, chẳng thể tính toán hòng biết được nổi, chỉ có thể tạm nói là vô lượng vô biên A Tăng Kỳ
Này Xá Lợi Phất! Chúng sanh nghe nói, hãy nên phát nguyện, nguyện sanh cõi ấy. Vì cớ sao vậy? Được cùng các thượng thiện nhân như vậy cùng nhóm họp một chỗ.
Này Xá Lợi Phất! Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức, nhân duyên để được sanh về cõi kia.
Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe nói đến A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Kẻ ấy lúc mạng sắp hết, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt. Người ấy lúc mất, tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà
Này Xá Lợi Phất! Ta thấy điều lợi ấy nên nói lời sau: “Nếu có chúng sanh nghe nói như vậy, phải nên phát nguyện, sanh về cõi kia”.
 Này Xá Lợi Phất! Như nay ta tán thán lợi ích công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà, phương Đông cũng có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”. 
Này Xá Lợi Phất! Nam phương thế giớiNhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”. 
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”. 
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc có Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”. 
Xá Lợi Phất! Thế giới phương dưới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”. 
Xá Lợi Phất! Thế giới phương trên có Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”. 
Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi là kinh Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm? 
Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này, thọ trì và nghe danh hiệu chư Phật thì những thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, đều được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
Vì thế Xá Lợi Phất! Các ông đều phải nên tin nhận lời ta và lời chư Phật đã nói. 
Này Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh cõi Phật A Di Đà, thì những người ấy đều được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, với cõi Phật ấy, hoặc là đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh.
Vì thế Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu có lòng tin hãy nên phát nguyện, sanh cõi nước ấy. 
 Này Xá Lợi Phất! Như ta nay khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật. Các đức Phật ấy cũng khen ngợi ta, công đức chẳng thể nghĩ bàn, mà nói thế này: “Thích Ca Mâu Ni Phật có thể làm được chuyện hy hữu rất khó, có thể ở trong cõi nước Sa Bà, nhằm đời ác ngũ trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì các chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó tin này”. 
Này Xá Lợi Phất! Nên biết ta trong đời ác Ngũ Trược, làm chuyện khó này, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì hết thảy thế gian nói pháp khó tin này, thật là rất khó! 
Phật nói kinh này xong, Xá Lợi Phất và các tỳ-kheo, hết thảy thế gian, trời, người, A Tu La v.v… nghe lời Phật dạy, hoan hỷ tin nhận, làm lễ mà lui) 
 
 
2. Vãng Sanh Chú 
 
 
Nam mô a di đa bà dạ, đá tha già đa dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, a di rị đá, tất đam bà tỳ, a di rị đá, tỳ ca lan đế. A di rị đá, tỳ ca lan đá. Già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha
 
 
Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát
 Niệm ba lần xong, Sư vỗ xích[4], bạch: 
 
 
3. Khai Thị
 
 
Thế giới hà duyên xưng Cực Lạc? 
Chỉ nhân chúng khổ bất năng xâm, 
Đạo nhân nhược yếu tầm quy lộ, 
Đản hướng trần trung liễu tự tâm! 
Tâm tâm tức Phật, đề hồ, tô, lạc, hàm tự nhũ sanh. Phật Phật duy tâm. Thoa, xuyến, bình, bàn, tận tùng kim xuất. Thập vạn ức trình, Đông Tây bất cách; nhị lục thời nội, phàm thánh đồng đồ. Đê đầu hiệp chưởng bạch ngọc hào, tinh minh nhật lệ. Ca vịnh tán dương tử kim dung. Đình chấn lôi oanh, thanh lương nguyệt hề hữu thủy giai hàm. Công đức vân nhi vô sơn bất đới. Hương tượng độ hà, nhất cử hồng danh siêu nhị tử. Ca Lăng xuất xác, thiên xưng gia hiệu áp quần âm. Hạ tình duy thổn dĩ nan tư, nhất niệm hồi quang nhi dị vãng. Cứu cánh bất cư tâm ngoại, phân minh chỉ tại mục tiền! Thẩm như thị, tức kim chúng đẳng hệ niệm Di Đà Tam Thời Phật sự. Chỉ như bất thiệp chứng tu, thân mông thọ ký nhất cú, như hà cử dương?
 
 
Vỗ xích một tiếng, lại bạch tiếp: 
 
 
Phong ngâm thụ thụ thiên ban nhạc, 
Hương xâm trì trì tứ sắc hoa. 
 
 
(Thế giới duyên gì tên Cực Lạc? 
Chỉ vì các khổ chẳng hề xâm, 
Nẻo về nếu muốn tìm cho được, 
Hãy đối trần lao liễu tự tâm
Đề hồ, tô, lạc đều sanh từ sữa; thoa, xuyến, bình, mâm đều chế từ vàng. Đường xa mười vạn ức, Đông Tây nào có cách ngăn. Trong mười hai thời, phàm thánh cùng là một đường. Cúi đầu chắp tay trước tướng bạch ngọc hào, sao sáng ngời, mặt trời rạng rỡ. Ca ngâm khen ngợi dung nhan vàng ròng, sét động sấm rền. Mặt trăng trong mát, hễ chỗ nào có nước đều hiện bóng. Mây công đức không núi nào chẳng phủ. Hương tượng[5]vượt sông, vừa niệm hồng danh bèn thoát khỏi hai tử[6]. Chim Ca Lăng[7] ra khỏi vỏ, niệm danh hiệu tốt lành, vượt trỗi ngàn lần các âm thanh khác. Dùng tình suy nghĩ khó hiểu thấu, một niệm hồi quang ắt dễ về. Rốt ráo nào phải ngoài tâm, phân minh chỉ ngay trước mắt. Xét kỹ như thế; vậy nay đại chúng, hệ niệm Di Đà, chuyên tu Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự, nhưng nếu không lạm dự cả tu lẫn chứng, giải thích câu nói “đích thân được Phật thọ ký” như thế nào đây? 
 
 
Vỗ xích một tiếng, lại bạch tiếp: 
 
 
 Gió luồn cây tấu ngàn muôn nhạc, 
Ao bốn màu sen tỏa ngát hương)
 
 
 Người gõ mõ bắt giọng: 
 
 
4. Niệm Phật
 
 
\OA Di| | ĐàO Phật| | thâno | kim o | sắcoC, | | 
OTướng hảo| | quangO minh| | vôo | đẳngo | luânO | |. 
OBạch hào| | uyểnO chuyểno | ngũo | Tuo | DiO | | 
OCám mục| | trừngO thanho | tứo | đạio | hảiO | | 
OQuang trung| | hóaO Phậto | vôo | sốo | ứcO | |
OHóa Bồ| | TátO chúngo | diệco | vôo | biênoC | |, 
OTứ thập| | bátO nguyệno | độo | chúngo | sanhO | |,
OCửu phẩm| | hàmO linho | đăngo | bỉo | ngạnO | | 
\ONam mô| | TâyO Phương| | CựcO Lạc| | thếo | giớioC | | 
đạiO từ| | đạio | bi| | A Di| | ĐàoC | PhậtO. 
(A Di Đà Phật thân vàng ròng
Tướng tốt quang minh khôn sánh ví! 
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc, 
Trong quang minh hóa vô số Phật, 
Hóa các Bồ Tát cũng vô biên
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm hàm linh lên bến giác
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật
 
 
 Niệm Phật một trăm tiếng, người gõ mõ bắt giọng bài tán sau đây:
 
 
5. Tán Phật 
 
 
\Đệ nhất| | đạiO | | nguyệnoC | | 
OQuán tưởng| | DiO | | ĐàO | | O | |
|TứO thập | | bátO nguyện| | độo\| Sao | | BàoC | o | | o | o | o |. 
OCửu phẩm| | dũngO kim| | bao\ | o | | oC | o | | o | 
oBảo| võngo | giaoO | | laO | | O | |, 
oCĐộ vong| linh| xuấto | áio | hào.
(Đại nguyện bậc nhất, 
Quán tưởng Di Đà
Bốn mươi tám nguyện độ Sa Bà
Chín phẩm trỗi sóng vàng,
Lưới báu chen bày, 
Độ vong linh vượt ái hà)
Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát 
 
 
 Niệm ba lần xong, pháp sư vỗ xích bạch: 
6. Khai Thị
 
 
Chư khổ tận tùng tham dục khởi, 
Bất tri tham dục khởi ư hà? 
Nhân vong tự tánh Di Đà Phật, 
Dị niệm phân trì tổng thị ma! 
Giáo trung đạo: “Sanh nhi vô sanh, Pháp Tánh trạm nhiên. Vô sanh nhi sanh, nghiệp quả nghiễm nhiên”. Sở vị sanh giả, tức chúng sanh sanh diệt chi Tích dã. Vị vô sanh giả, tức chư Phật tịch diệt chi bổn dã. Pháp Tánh trạm nhiên giả, linh minh trạm tịch, huyền diệu chân thường, cá cá bất vô, nhân nhân bổn cụ. Chỉ nhân tối sơ bất giác, hốt nhĩ động tâm, nhận vọng vi chân, mê kỷ trục vật. Do thị nghiệp võng khiên triền, lưu chuyển ngũ đạo. Hằng tùy sanh tửthăng trầm, cắng cổ chí kim nhi mị gián. Đương tri sanh tự duyên sanh, nhi pháp tánh bất dữ duyên câu sanh. Diệt tự duyên diệt, nhi pháp tánh bất dữ duyên câu diệt. Sở dĩ vân: “Pháp Tánh trạm nhiên”. Thị vị: “Sanh nhi vô sanh” giả dã. Vô sanh nhi sanh giả, chúng sanh mê vọng nhập tâm, tích nghiệp thành quả. Hư thọ luân chuyển, vọng kiến sanh diệt. Ư Pháp Tánh thể thượng, như kính hiện tượng, tự châu tùy sắc. Đương tri kính quang bổn tịnh, châu thể tuyệt ngấn. Vật cảnh hỗ chương, bất vi sắc tượng. Bỉ sắc tượng chi khứ lai, do nghiệp quả chi nghiễm nhiên dã. Cố chư Phật ư nghiễm nhiên sanh diệt trung, duy kiến vô sanh. Chúng sanh ư trạm nhiên vô sanh trung, duy kiến sanh diệt. Chỉ nhân mê ngộ chi hữu sai, toại chí hiện lượng chi bất nhất; thực nãi sanh vô tự tánh, vô sanh diệc vô tự tánh. Ngộ tắc sanh diệt giai vô sanh, mê tắc vô sanh giai sanh diệt. Sở dĩ, ly thử biệt vô, thị nãi nhất thể nhi dị danh dã. Thẩm như thị. Tắc A Di Đà Phật tức thị ngã tâm, ngã tâm tức thị A Di Đà Phật. Tịnh Độ tức thử phương, thử phương tức Tịnh Độ. Khởi phi mê ngộ chi tự thù, hà hữu thánh phàm nhi bỉ thử? Nãi tri hiện tiền chúng đẳng, dĩ tự tánh A Di Đà Phật, dữ đại chúng thiệt căn, phổ đồng vận chuyển căn bản pháp luân. Chư nhân hoàn ủy tất ma? 
Sanh diệt vô sanh sanh bất sanh
Lạc bang na khẳng cấm nhân hành, 
Thùy tri vạn trượng hồng trần lý 
Hạm đạm hoa khai chánh nguyệt minh
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật
(Các khổ đều từ tham dục khởi, 
Từ đâu dục khởi biết chăng là? 
Do quên tự tánh Di Đà Phật, 
Dị niệm lăng xăng trọn hóa ma, 
Trong giáo pháp có nói: “Sanh nhưng vô sanh, Pháp Tánh lặng trong; vô sanh mà sanh, nghiệp quả đành rành”. Như sanh vừa nói đó, chính là dấu vết sanh diệt của chúng sanh. Còn vô sanh thì chính là tâm tánh tịch diệt[8] của chư Phật vậy. Pháp Tánh trạm nhiên là linh minh trạm tịch, huyền diệu chân thường, không gì không có, ai nấy sẵn đủ. Chỉ vì thoạt đầu bất giác, đột nhiên động tâm, tưởng vọng là chân, mê mất bản thân, chạy theo vật dục. Do vậy, lưới nghiệp quấn trói, lưu chuyển năm đường. Luôn thăng trầm theo sanh tử, suốt từ xưa đến tận nay chưa hề gián đoạn. Nên biết: Sanh tự duyên sanh, nhưng Pháp Tánh chẳng sanh cùng với duyên. Diệt thì duyên tự diệt, chứ Pháp Tánh chẳng cùng diệt theo duyên. Do vậy, nói: “Pháp Tánh trạm nhiên”. Đó là nói về: “Sanh nhưng không sanh” vậy! Vô sanh mà sanh là chúng sanh mê vọng nhập tâm, chứa nghiệp thành quả, dối chịu luân chuyển, lầm thấy sanh diệt. Pháp Tánh về bản thể giống như hình ảnh được hiện nơi gương, giống như viên ngọc phản chiếu màu sắc [những vật xung quanh]. Phải biết: Ánh sáng của gương vốn tịnh, thể của châu trọn không tỳ vết. Vật - cảnh soi rõ lẫn nhau, hình sắc chẳng trái nghịch. Hình sắc đến đi giống như nghiệp quả đành rành vậy. Bởi thế, trong sự sanh diệt rành rành, chư Phật chỉ thấy vô sanh. Trong vô sanh trạm nhiên, chúng sanh chỉ thấy sanh diệt. Chỉ do mê - ngộ sai khác đến nỗi hiện lượng khác nhau, chứ thật ra: Sanh khôngtự tánh, vô sanh cũng không có tự tánh. Hễ ngộ thì sanh diệt đều là vô sanh, còn mê thì vô sanh đều thành sanh diệt. Do vậy, lìa khỏi cái này không còn gì khác, đấy chỉ là một thể mà tên gọi khác nhau. 
Xét như vậy, A Di Đà Phật chính là tâm ta, tâm ta chính là A Di Đà Phật. Tịnh Độ chính là phương này, phương này chính là Tịnh Độ. Há chẳng phải do mê ngộ nên tự khác nhau, nào có thánh phàm sai biệt! Vậy nên hiện tiền đại chúng, hãy đem A Di Đà Phật nơi tự tánh cùng với cái lưỡi của đại chúng, cùng nhau xoay chuyển rộng khắp căn bản pháp luân. Các nhân giả còn gì vướng mắc nữa chăng? Hiểu thấu chăng?
Sanh diệt vô sanh, sanh chẳng sanh, 
Cực Lạc sanh về há cấm ngăn? 
Hồng trần muôn trượng nào ai biết: 
Búp sen xòe nở rạng trăng thanh)
 
 
Sư bạch xong, [Duy Na] khắc dẫn khánh, gõ mõ nhỏ, tụng: 
 
 
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
 
 
Pháp sưđại chúng ra khỏi tòa vừa đi nhiễu vừa niệm Phật một ngàn tiếng, đến trước bàn linh, dứt tiếng niệm Phật. Nhịp tang, chập chõa, xướng niệm Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát
 
 
Namo mô| | Quán Thế| | Âm | Bồ | Tát | | 
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát
 
 
Mỗi danh hiệu niệm ba lần xong, khắc dẫn khánh, gõ mõ nhỏ, tụng: 
 
 
7. Phát nguyện - Phổ Hiền thập nguyện vương
 
 
Nhất giả lễ kính chư Phật. 
Nhị giả xưng tán Như Lai
Tam giả quảng tu cúng dường
Tứ giả sám hối nghiệp chướng
Ngũ giả tùy hỷ công đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân
Thất giả thỉnh Phật trụ thế
Bát giả thường tùy Phật học
Cửu giả hằng thuận chúng sanh
Thập giả phổ giai hồi hướng.
(Một là lễ kính chư Phật, 
Hai là khen ngợi Như Lai,
Ba là rộng tu cúng dường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh chuyển pháp luân
Bảy là khuyên Phật trụ thế, 
Tám là thường học theo Phật, 
Chín là hằng thuận chúng sanh
Mười là hồi hướng khắp cả) 
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, 
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. 
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, 
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
 
 
 Xướng tiếp:
 
 
8. Tán thán Tam BảoTán Phật Bảo
 
 
Phật bảo tán vô cùng,
Công thành vô lượng kiếp trung. 
Nguy nguy trượng lục tử kim dung
Giác đạo Tuyết Sơn phong,
Mi tế ngọc hào quang xán lạn, 
 Chiếu khai lục đạo hôn mông.
Long Hoa tam hội nguyện tương phùng,
Diễn thuyết pháp chân tông 
Long Hoa tam hội nguyện tương phùng,
Diễn thuyết pháp chân tông.
 (Phật Bảo ngợi khôn cùng,
 Thành tựu công phu vô lượng kiếp.
 Thân trượng sáu vàng ròng vòi vọi
 Giác đạo tột Tuyết Sơn,
 Ngọc hào quang rạng rỡ giữa mày, 
Chiếu sáng rực sáu đường tăm tối,
Ba hội Long Hoa nguyện tương phùng, 
Diễn nói pháp chân tông. 
Ba hội Long Hoa xin gặp gỡ, 
Diễn nói pháp chân tông)
 
 
 Xướng xong, niệm Phật trở về đàn, lên tòa, ngồi xuống xong, dứt tiếng niệm Phật, Sư vỗ xích, bạch: 
 
 
9. Khai Thị
 
 
Nhân nhân phần thượng, bổn hữu Di Đà. Cá cá tâm trung, tổng vi Tịnh Độ. Liễu tắc đầu đầu kiến Phật, ngộ lai bộ bộ Tây Phương. Thượng lai khải kiến Tam Thời Hệ Niệm tịnh nghiệp đạo tràng, kim đương đệ nhất thời Phật sự dĩ viên. Như thượng thù huân, đầu nhập Di Đà đại nguyện hải trung, chuyên vị vong linh… cầu sanh Tịnh Độ. Đản niệm: Tự tùng vô thỉ, ngật chí kim sanh; nhất niệm vi chân, lục căn trục vọng, tùy tình tạo nghiệp, túng ngã vi phi. Thân nghiệp tắc sát, đạo, tà dâm. Khẩu quá tắc vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu. Ý ác tắc thường khởi tham - sân, thâm sanh si ái. Do tư tam nghiệp, câu tỏa vọng duyên, thường cốt cốt ư trần lao, đản mang mang ư tuế nguyệt. Dục tư xuất ly, duy bằng sám hối huân tu chi lực. Hề nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý chi quá khiên, ứng niệm đốn tiêu. Sử sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chi phù trần, tức thời thanh tịnh. Hựu Cực Lạc cầu sanh toàn bằng phát nguyện. Ngưỡng lao pháp chúng dị khẩu đồng âm, kính vị vong linh chí tâm sám hối, phát nguyện
(Bản thân ai nấy vốn sẵn Di Đà, trong tâm mỗi người đều là Tịnh Độ. Hiểu thì thời thời thấy Phật, ngộ thì bước bước Tây Phương. Từ trước tới đây đã tạo lập đạo tràng tịnh nghiệp Tam Thời Hệ Niệm, nay Phật sự thời thứ nhất đã viên mãn. Công huân thù thắng như trên, gieo vào trong biển đại nguyện Di Đà, chuyên vì vong linh… cầu sanh Tịnh Độ. Nhưng nghĩ kể từ vô thỉ cho đến đời này, một niệm trái nghịch chân, sáu căn đuổi theo vọng, theo tình tạo nghiệp, buông lung cái Ngã làm quấy. Thân nghiệp thì giết, trộm, tà dâm. Lỗi nơi miệng là nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác. Ý ác thì thường nổi tham - sân, sanh lòng yêu mến si mê sâu xa. Do ba nghiệp này, vọng duyên lôi trói, thường chìm lỉm trong trần lao, chỉ mờ mịt cùng năm tháng. Nghĩ muốn thoát lìa, chỉ có cách nhờ vào sức huân tu sám hối. Mong những tội lỗi nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ngay lập tức nhanh chóng tiêu tan; khiến cho phù trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ngay lập tức thanh tịnh. Lại cầu sanh Cực Lạc, hoàn toàn nhờ vào phát nguyện. Xin nhọc sức pháp chúng, khác miệng cùng âm, kính vì vong linh chí tâm sám hối phát nguyện
 
 
10. Sám hối
 
 
 Người thuộc ban trên đánh khánh, đại chúng cùng niệm[9]:
 
 
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham - sân - si 
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh 
Kim đối Phật tiền cầu sám hối
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ 
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, 
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học 
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
(Xưa kia trót tạo bao nghiệp ác,
Đều do vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý phát sanh ra, 
Nay đối trước Phật xin sám hối
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ 
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, 
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học 
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần) 
 
 
 Xướng xong, sư vỗ xích, bạch[10]: 
 
 
11. Khai Thị
 
 
 Thượng lai sám hối phát nguyện dĩ cánh. Vong linh… đương tri: Phù Tịnh Độ chi vi giáo dã. Ngưỡng thừa A Di Đà Phật tứ thập hữu bát đại từ đại bi thâm trọng nguyện lực, nhiếp thủ thập phương nhất thiết chúng sanh. Phàm cụ tín tâm giả, giai đắc vãng sanh. Tín giả, tín hữu Tây Phương Tịnh Độ; tín hữu A Di Đà Phật nhiếp thủ chúng sanh chi sự. Ngã đẳng chúng sanh tín hữu vãng sanh chi phận. Nhiên tuy vị Di Đà nhiếp thủ chúng sanh vãng sanh, yếu tín duy thị tùy tâm tự hiện, cảm ứng đạo giao, cứu cánh phi tùng ngoại đắc. Như thị tín giả, thị vi chân tín. 
Tín nhi vô Hạnh, tức bất thành kỳ tín. Hạnh giả, Lăng Nghiêm kinh vân: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai”. A Di Đà kinh vân: “Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nãi chí thất nhật, nhất tâm bất loạn. Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền. Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ”. Như thị hành giả thị danh Chánh Hạnh
 Hạnh nhi vô Nguyện, tức bất thành kỳ Hạnh. Nguyện giả, yếu dữ A Di Đà Phật tứ thập bát nguyện, nguyện nguyện tương ứng, thị vi đại nguyện dã. Tín - Hạnh - Nguyện tam, như đảnh tam túc, khuyết nhất bất khả. Kim nhĩ vong linh đương tri: Hiện tiền nhất niệm, bổn tự viên thường. Tín - Hạnh - Nguyện: Nguyên thị tự kỷ bổn lai cụ hữu. Như thị tánh đức. Kim giả đản thị bổn tánh quang minh hiển phát nhĩ. 
(Trên đây, sám hối phát nguyện đã xong. Vong linh… hãy nên biết: Phàm là giáo pháp Tịnh Độ, ngửa nhờ A Di Đà Phật bốn mươi tám nguyện đại từ đại bi sâu nặng, thâu tóm mười phương hết thảy chúng sanh. Hễ ai đầy đủ tín tâm đều được vãng sanh. Tin là tin có Tây Phương Tịnh Độ, tin có chuyện A Di Đà Phật nhiếp thủ chúng sanh. Tin bọn chúng sanh chúng ta có phần được vãng sanh. Dù nói là Di Đà nhiếp thủ chúng sanh vãng sanh, phải tin đấy chỉ là tùy tâm tự hiện, cảm ứng đạo giao, rốt ráo chẳng phải do từ bên ngoài mà có. Tin như thế mới là chân tín. 
 Tín nhưng thiếu Hạnh thì tín ấy chẳng thành; Hạnh thì như kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai”. Kinh A Di Đà nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe nói đến A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Người ấy lúc mạng chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ở đằng trước. Người ấy khi mạng chung, tâm không điên đảo, liền được sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Hành như thế thì gọi là Chánh Hạnh
 Hạnh nhưng không Nguyện thì Hạnh chẳng thành. Nguyện thì phải tương ứng với bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, phải tương ứng với từng nguyện một. Đấy là đại nguyện vậy. Tín - Hạnh - Nguyện ba điều, như ba chân của cái đảnh, chẳng thể thiếu một. Nay vong linh nên biết: Một niệm hiện tiền vốn tự viên mãn, thường hằng. Tín - Hạnh - Nguyện: Nguyên là chính mình vốn sẵn đủ. Tánh đức như thế, nay chỉ là quang minh của bổn tánh tỏ lộ mà thôi) 
 
 
12. Tán Phật:
 
 Bạch xong, cử tán 
 
 
 A Di Đà Phật
 Vô thượng y vương 
 Nguy nguy kim tướng phóng hào quang
 Khổ hải tác từ hàng
 Cửu phẩm liên bang
 Đồng nguyện vãng Tây Phương
 (A Di Đà Phật
 Vô thượng y vương
 Thân vàng vòi vọi phóng hào quang
 Biển khổ thả thuyền từ, 
 Cõi sen chín phẩm, 
 Cùng nguyện về Tây Phương
 
 
 Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát
 
 
 Niệm ba lần xong, thời Phật sự thứ nhất viên mãn, đại chúng ra khỏi chỗ ngồi.
 
 


ĐỆ NHỊ THỜI
 
 
1. Tụng kinh Di Đà:


Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát
Phật Thuyết A Di Đà Kinh
(như phần trên)
2. Chú Vãng Sanh (như phần trên) 
 
 
Tụng chú Vãng Sanh ba biến xong, xướng: 
 
 
Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát.
 
 
3. Khai Thị
 
 
Xướng ba lần xong, Sư vỗ xích, bạch: 
 
 
 Tiện tựu kim triêu thành Phật khứ, 
 Lạc bang hóa chủ dĩ hiềm trì, 
 Na kham cánh dục chi hồ giả, 
 Quản thủ luân hồi một liễu thời. 
Nguyên phù biến thập phương thị Cực Lạc thế giới. Sơn quang thủy sắc, tự không hợp không. Tận đại địa thị Thanh Thái cố hương, hoa tiếu điểu đề, như kính chiếu kính. Tự thị bất quy, quy tiện đắc. Ngũ hồ yên cảnh hữu thùy tranh? Hoàng kim tý trú dạ thường thùy. Duy hứa hành nhân độc ủy. Bạch ngọc hào cổ kim bất muội, toàn bằng nguyện giả thừa đương. Sở dĩ đạo: Vạn pháp thị tâm quang, chư duyên duy tánh hiểu, bổn vô mê ngộ nhân, chỉ yếu kim nhật liễu. Tức kim hiện tiền chúng đẳng, hệ niệm đệ nhị thời Phật sự. Thả liễu chi nhất cú, như hà cử dương? 
Lưu ly trì thượng huyền minh nguyệt
Hạm đạm hoa khai hý thủy cầm. 
(Dẫu về thành Phật bữa nay, 
 Lạc bang hóa chủ chê bai trễ rồi! 
Muốn còn bàn luận khơi khơi, 
Luân hồi giữ mãi biết đời nào ra!
Vốn trọn khắp mười phươngthế giới Cực Lạc. Ánh núi, sắc nước, dường không hợp không. Khắp cõi đất là quê cũ Thanh Thái[11]. Hoa cười, chim hót, như gương soi gương. Tự mình không về, về liền được. Cảnh mây khói năm hồ nào ai tranh? Tay vàng đêm ngày thường rủ, chỉ đợi mình hành nhân nương nhờ. Bạch ngọc hào quang xưa nay chẳng tối, toàn nhờ vào tín - hạnh - nguyện[12] gánh vác. Vì thế mới nói: Muôn pháp là tâm quang, các duyên chỉ do tánh chiếu rạng, vốn không có kẻ mê, người ngộ, chỉ cần ngày nay liễu giải. Vậy nay đại chúng hiện tiền, Phật sự Hệ Niệm thời thứ hai, đã liễu giải rồi, một câu phải diễn nói như thế nào đây? 
Ao lưu ly trăng sáng vắt ngang, 
 Búp sen nở, thủy cầm đùa bỡn) 
 
 
Bạch xong, xướng: 
 
 
4. Niệm Phật
 
 
A Di Đà Phật thân kim sắc
 Tướng hảo quang minh vô đẳng luân 
 Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di
 Cám mục trừng thanh tứ đại hải
 Quang trung hóa Phật vô số ức, 
 Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên.
 Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh
 Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật
 
 
 Niệm Phật một trăm tiếng, người đánh mõ bắt giọng tán: 
 
 
5. Tán Phật
 
 
Đệ nhất đại nguyện, 
 Quán tưởng Di Đà
 Tứ thập bát nguyện độ Sa Bà
 Cửu phẩm dũng kim ba
 Bảo võng giao la, 
 Độ vong linh xuất ái hà
 Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát
 
 
 Niệm ba lần xong, Sư vỗ xích, bạch: 
 
 
6. Khai Thị: 
 
 
Thị tâm thị Phật tương tâm niệm
 Niệm đáo tâm không, Phật diệc vong, 
 Tán thủ quy lai trùng kiểm điểm
 Hoa khai xích bạch dữ thanh hoàng.
Giáo trung đạo: “Duy tâm Phật diệc nhĩ, duy Phật chúng sanh nhiên. Tâm, Phật, cập chúng sanh, thị tam vô sai biệt”. Sở vị tâm giả, tâm hữu đa chủng, viết: nhục đoàn tâm, nãi hiện tại thân trung, phụ mẫu huyết khí sở sanh giả thị. Viết Duyên Lự Tâm, tức hiện kim thiện ác thuận nghịch cảnh giới thượng chủng chủng phân biệt giả thị. Viết Linh Tri Tâm thị hỗn thiên sai nhi bất loạn, lịch tam tế dĩ mị thiên. Bỉnh nhiên độc chiếu; trác nhĩ bất quần. Tại thánh bất tăng, tại phàm bất giảm. Xử sanh tử lưu, ly châu độc diệu vu thương hải. Cư Niết Bàn ngạn, quế luân cô lãng vu trung thiên. Chư Phật ngộ chi, giả danh duy tâm. Chúng sanh mê chi, tiện thành vọng thức. Thị dĩ Phật tức chúng sanh, chúng sanh tức Phật. Thả tâm ngoại vô Phật, diệc vô chúng sanh. Duy mê ngộ chi hữu gián. Cố phàm thánh nhi hồi dị. Khởi tri tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt
Vĩnh Gia vân: “Mộng lý minh minh hữu lục thú, giác hậu không không vô đại thiên”. Ký nhiên như thị, tắc kinh vân: “Tùng thị Tây Phương, quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc. Kỳ độ hữu Phật, hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp”. Tổng bất xuất duy tâm Tịnh Độ, bổn tánh Di Đà dã. Do thị nhi tri, tức kim hiện tiền vong linh…, kỳ sanh dã liên hoa đóa đóa, kỳ một dã hàng thụ trùng trùng. Vô nhất thời bất đạt liên bang, vô nhất niệm bất y từ phụ. Thẩm như thị, thả đạo: Ly thử tâm Phật chúng sanh ngoại, biệt hữu thương lượng xứ dã vô. 
 Đại viên kính lý tuyệt tiêm ai, 
 Bích ngẫu hoa trung hữu thánh thai
 Dao vọng kim sa trì chiểu ngoại 
Bảo quang thường chiếu ngọc lâu đài. 
(Tâm này là Phật đem tâm niệm
Niệm đến tâm không, Phật cũng không, 
Thõng tay quay về lại kiểm điểm
Hoa chen trắng đỏ lẫn xanh vàng 
 Trong giáo pháp đã dạy: “Luận về tâm, Phật cũng thế; luận về Phật, chúng sanh cũng thế. Tâm, Phật và chúng sanh là ba thứ không sai biệt”. Nói đến tâm thì tâm có nhiều thứ, như: Nhục đoàn tâm (quả tim thịt) [tức quả tim] hiện đang ở trong cái thân do huyết khí cha mẹ sanh ra chính là cái tâm ấy. Hoặc Duyên Lự Tâm, tức cái tâm nay đang phân biệt mọi thứ cảnh giới thiện ác, thuận nghịch vậy. Còn Linh Tri Tâm chứa đựng ngàn thứ sai khác nhưng chẳng loạn, trải khắp ba đời nhưng chẳng đổi dời. Riêng chiếu rạng ngời, đứng riêng không hòa lẫn. Nơi thánh chẳng tăng, nơi phàm không giảm. Ở giữa dòng sanh tử, ly châu[13] riêng chiếu trong biển xanh. Nơi bờ Niết Bàn, vầng quế[14] rạng ngời một mình giữa trời. Chư Phật ngộ rồi, giả gọi là duy tâm. Chúng sanh mê nên thành vọng thức. Do vậy, Phật chính là chúng sanh, chúng sanh chính là Phật, nhưng ngoài tâm không Phật, cũng không có chúng sanh. Chỉ do mê hay ngộ mà có sai biệt. Vì thế, phàm - thánh sai khác, há biết tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ không sai biệt.
 Ngài Vĩnh Gia[15] nói: “Trong mộng rành rành bày sáu nẻo, giác rồi ba cõi rỗng toang hoang”. Đã là như vậy thì như kinh nói: “Từ đây đi về Tây Phương qua khỏi mười vạn ức cõi nước, có một thế giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy có Phật, hiệu là A Di Đà nay đang thuyết pháp”. Nói chung, chẳng ngoài duy tâm Tịnh Độ, bản tánh Di Đà. Do vậy biết rằng: Ngay trong hiện tiền đây, vong linh… sống thì hoa sen đóa đóa, thác thì hàng cây tầng tầng; không lúc nào chẳng đến cõi sen, không niệm nào chẳng nương từ phụ. Xét như thế, nên nói: Lìa tâm, Phật, chúng sanh này ra, còn có chỗ thương lượng nào khác nữa hay không? 
 Nơi gương tròn lớn sạch tinh khôi, 
 Xanh biếc giò sen nẩy thánh thai
 Cát vàng ao báu ngoài xa ngắm,
 Bảo quang chiếu mãi ngọc lâu đài)
 
 
Đại chúng cùng xướng: 
 
 
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật
 
 
Đại chúng ra khỏi chỗ ngồi, vừa đi nhiễu vừa niệm Phật ngàn tiếng, đến trước bàn linh, dứt tiếng niệm Phật, xướng danh hiệu Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
 
 
Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát
 
 
Niệm mỗi danh hiệu ba lần xong, đánh mõ, tụng:
 
 
7. Phát nguyện (bài phát nguyện của Đại Từ Bồ Tát)
 
 
Thập phương tam thế Phật
 A Di Đà đệ nhất. 
Cửu phẩm độ chúng sanh
 Oai đức vô cùng cực. 
 Ngã kim đại quy y
 Sám hối tam nghiệp tội. 
Phàm hữu chư phước thiện
Chí tâm dụng hồi hướng
Nguyện đồng niệm Phật nhân, 
Cảm ứng tùy thời hiện. 
Lâm chung Tây Phương cảnh, 
Phân minh tại mục tiền
Kiến văn giai tinh tấn
 Đồng sanh Cực Lạc quốc. 
Kiến Phật liễu sanh tử
 Như Phật độ nhất thiết
Vô biên phiền não đoạn 
Vô lượng pháp môn tu. 
 Thệ nguyện độ chúng sanh
Tổng nguyện thành Phật đạo
Hư không hữu tận, 
 Ngã nguyện vô cùng
(Mười phương tam thế Phật
 A Di Đà bậc nhất, 
Chín phẩm độ chúng sanh
 Oai đức không cùng tận
 Con nay đại quy y
 Sám hối tội tam nghiệp
Bao phước thiện đã có, 
Chí tâm đem hồi hướng
Nguyện người cùng niệm Phật
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung cảnh Tây Phương
 Hiện rõ ràng trước mắt
 Thấy, nghe đều tinh tấn
 Cùng sanh cõi Cực Lạc
 Thấy Phật hết sanh tử
 Độ hết thảy như Phật
Nguyện cùng thành Phật đạo. 
Hư không có thể tận, 
 Nguyện của con khôn cùng) 
 
 
Nguyện sanh Tây Phương tịnh độ trung, 
 Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
 Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh
 Bất thoái Bồ Tát vi bạn lữ. 
(Nguyện sanh trong Tây Phương tịnh độ
 Chín phẩm hoa sencha mẹ
 Hoa nở thấy Phật ngộ Vô Sanh
 Bất thoái Bồ Tát là bè bạn) 
 
 
8. Tán thán Tam BảoTán thán Pháp Bảo
 
 
Pháp bảo thực nan lượng, 
Như Lai kim khẩu tuyên dương 
Long cung hải tạng tán thiên hương
Giác giả tụng lang hàm[16]. 
Ngọc trục, hà điều, kim tả tự. 
Tự bài thu nhạn thành hàng 
Tích nhân tam tạng thủ lai Đường[17]. 
Vạn cổ vị phu dương. 
Tích nhân tam tạng thủ lai Đường,
Vạn cổ vị phu dương. 
 
 
 (Pháp bảo thật khó lường, 
 Cất tại cung rồng trong biển cả,
Tán rải hương trời, 
 Bậc giác ngộ đọc kinh văn 
 Trục ngọc, lụa ráng trời, 
Kinh chép chữ vàng 
 Như trời Thu nhạn bay thành hàng 
 Xưa nhờ Tam Tạng đem qua Đường 
 Phô diễn đến muôn đời,
 Xưa nhờ Tam Tạng đem qua Đường 
 Phô diễn đến muôn đời) 
 
 
9. Khai Thị
 
Xướng xong, niệm Phật, trở về đàn, lên tòa ngồi xong, Sư vỗ xích, bạch: 
 
 
Cái văn: Hư nhi hữu minh đáp chi thanh, tịch nhi vô hình ảnh chi tướng. Nhiên cốc hưởng tự nhiên, phi hô chi nhi bất đáp. Phật thân vô tác, phi khấu chi nhi bất chương. Thượng lai khải kiến đệ nhị thời Hệ Niệm Phật Sự dĩ viên. Như thượng thù huân, đầu nhập Như Lai đại nguyện hải trung, xuất sanh công đức. Chuyên vị vong linh… tẩy trừ nghiệp cấu, tăng trưởng thiện căn, xả thử báo duyên, vãng sanh Tịnh Độ. Đản niệm tự tùng vô thỉ, ngật chí kim sanh: Âu sanh cự hải, trục thức lãng dĩ cao đê. Vân điểm thái thanh, nhậm tình phong nhi nhân ngã. Ư thị tuần hoàn chư thú, lưu chuyển tứ sanh; nghiệp hải mang mang, tội sơn ngập ngập. Phi bằng phát lộ, hạt toại tiêu trừ. Sám-ma dĩ vãng, phát nguyện đương lai. Tái lao pháp chúng, chí tâm sám hối phát nguyện
(Từng nghe: Trống rỗng mà có tiếng đáp ứng, tịch nhưng không có tướng hình ảnh. Thế nhưng, hang dội tiếng vọng là tự nhiên, không bao giờ kêu mà chẳng đáp. Phật thân vô tác, không bao giờ gõ mà chẳng hiển bày. Từ trên tới đây tạo tác Hệ Niệm Phật Sự thời thứ hai đã viên mãn. Công huân thù thắng như thế, gieo vào trong biển đại nguyện của Như Lai, sanh ra công đức. Chuyên vì vong linh rửa trừ nghiệp cấu, tăng trưởng thiện căn, bỏ báo duyên này, sanh về Tịnh Độ. Nhưng nghĩ từ vô thỉ kiếp cho đến đời này, bọt nước sanh trong biển cả, theo sóng thức lên cao xuống thấp. Mây điểm hư không, mặc tình nổi gió ta - người. Do vậy xoay vần các nẻo, trôi lăn tứ sanh, biển nghiệp mênh mông, núi tội chót vót. Không nhờ bày tỏ, sao tiêu trừ được? Sám hối cho quá khứ, phát nguyện cho tương lai. Lại phiền pháp chúng chí tâm sám hối, phát nguyện
 
 
10. Sám hối, phát nguyện
 
 
dẫn khánh, đại chúng đồng niệm.
 
 
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
 Giai do vô thỉ tham - sân - si, 
 Tùng thân - ngữ - ý chi sở sanh. 
Nhất thiết tội chướng giai sám hối
 Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, 
 Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, 
 Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, 
 Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
 (Xưa kia trót tạo các ác nghiệp
 Đều do vô thỉ tham - sân - si, 
Từ thân - miệng - ý phát sanh ra, 
 Hết thảy tội chướng đều sám hối
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, 
 Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, 
 Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, 
 Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành). 
 
 
11. Khai Thị 
 
 Sư vỗ xích, bạch: 
 
Thượng lai sám hối phát nguyện dĩ cánh, cụ hành do nhân cụ nhãn mục, nguyện như nhật, nguyệt, đăng quang minh. Y quang chiếu chúc kiến phân minh, hành giả phương năng đạt tiền cảnh. Thị dĩ niệm Phật chi nhân, nhược bất phát nguyện vãng sanh, túng hữu công hạnh, diệc thành hư thiết, dĩ bất thuận Phật cố. Kim nhĩ vong linh đương tri thử ý. 
 (Từ trên tới đây sám hối phát nguyện đã xong, Hành đầy đủ thì giống như người đầy đủ mắt, Nguyện như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đèn đuốc. Đủ hạnh như người đủ đôi mắt, nguyện như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, đèn đóm. Nương theo ánh sáng chiếu tỏ mà thấy phân minh, hành giả mới hòng thấu hiểu tiền cảnh. Do vậy, người niệm Phật nếu không phát nguyện vãng sanh, dẫu có công hạnh cũng trở thành đặt bày hư huyễn, vì không thuận theo Phật vậy. Nay các vong linh hãy biết ý này) 
 
 
12. Tán Phật kết đàn 
 
A Di Đà Phật
 Vô thượng y vương
 Nguy nguy kim tướng phóng hào quang
 Khổ hải tác từ hàng
 Cửu phẩm liên bang
 Đồng nguyện vãng Tây Phương.
 Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần) 
 (A Di Đà Phật
 Vô thượng y vương
 Tướng vàng vòi vọi phóng hào quang
 Biển khổ thả thuyền từ, 
 Chín phẩm liên bang
 Đồng nguyện về Tây Phương
 
 
 Đệ Nhị Thời Phật sự hoàn mãn, đại chúng rời khỏi chỗ ngồi. 
 
 
 
 
ĐỆ TAM THỜI
 
 
1. Tụng kinh Di Đà 
 
 Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát (3 lần)
 Phật thuyết A Di Đà kinh (như trên)
 
 
2. Tụng chú vãng sanh (như phần trên)
 
 
 Xướng ba lần: 
 
 
 Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát
 
 
3. Khai Thị 
 
 
 Xướng xong, Sư vỗ xích, bạch: 
 
 
Thập vạn dư trình bất cách trần, 
 Hưu tương mê ngộ tự sơ thân, 
 Sát-na niệm tận hằng sa Phật, 
 Tiện thị liên hoa quốc lý nhân. 
Hiệp trần bối giác, tài kinh cức ư thất bảo viên lâm. Xả vọng quy chân, liệt châu võng ư tứ sanh môn hộ. Tung hoành vạn pháp, viên khỏa nhất tâm. Phi tư lượng xứ, A Di Đà Phật. Tọa đoạn lục căn, vô tạo tác thời. Thanh Thái cố hương, hoành thôn bát cực. Phá quần hôn như cảo nhật lệ thiên, liệu chúng bệnh như Thiện Kiến thần dược. Sở dĩ vân: “Nhất xưng A Di Đà Phật danh hiệu, năng diệt bát vạn ức kiếp sanh tử chúng khổ”. Lợi ích như thị, khởi thí dụ ngôn thuyết chi khả cập hồ? Chỉ như tức kim Hệ Niệm, đệ tam thời Phật sự. Thả đạo: Hiện tiền chúng đẳng, đồng thanh tương ứng nhất cú, như hà chỉ trần? 
Nhất tùng Phật hướng thiệt căn niệm, 
 Bất giác hoa tùy túc để sanh. 
 (Đường xa mười vạn cõi, 
Chẳng hề cách mảy trần, 
Thôi đừng đem mê ngộ
Để tính kể sơ thân, 
Sát na niệm chư Phật, 
Số nhiều đến hằng sa
Liền thành người đã ở 
Trong cõi nước hoa sen.
Xuôi trần nghịch giác, trồng gai góc nơi vườn rừng bảy báu. Bỏ vọng về chân, giăng lưới châu nơi cửa ngõ tứ sanh. Dọc ngang vạn pháp, nhất tâm bao trọn. A Di Đà Phật không chỗ nghĩ lường. Nhằm lúc khuất phục sáu căn, không tạo tác, quê cũ Thanh Thái nuốt trọn khắp tám phương. Phá các tối tăm như mặt trời chói rực giữa trời, trị các bệnh như thuốc thần Thiện Kiến. Bởi thế nói: “Vừa xưng danh hiệu A Di Đà Phật, diệt được các khổ trong tám vạn ức kiếp sanh tử”. Lợi ích như thế, há có thí dụ, lời lẽ nào diễn tả trọn vẹn cho được! Còn như nay Hệ Niệm Phật Sự, nhằm thời thứ ba. Vậy thì hiện tiền đại chúng, đồng thanh tương ứng một câu, chỉ bày như thế nào đây? 
 Nhất tâm theo Phật nguyện xưng niệm
 Nào biết hoa sen dưới gót sanh?) 
 
 
 Xướng xong, cử tán 
 
 
4. Niệm Phật 
 
 
A Di Đà Phật thân kim sắc
 Tướng hảo quang minh vô đẳng luân, 
 Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di
 Cám mục trừng thanh tứ đại hải
 Quang trung hóa Phật vô số ức, 
 Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên
 Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh
 Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn
 Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật
 
 
 Niệm Phật một trăm tiếng, người đánh mõ, bắt giọng tán: 
 
 
5. Tán Phật 
 
 
Đệ nhất đại nguyện, 
 Quán tưởng Di Đà
 Tứ thập bát nguyện độ Sa Bà
 Cửu phẩm dũng kim ba
 Bảo võng giao la, 
 Độ vong linh xuất ái hà
Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
 
 
6. Khai Thị: 
 
 
Sư vỗ xích, bạch: 
 
 
Đả phá hư không tiếu mãn tai, 
 Linh lung bảo tạng khoát nhiên khai, 
 Trực nhiêu không kiếp sanh tiền sự, 
 Lục tự hồng danh tất cánh cai. 
Cổ nhân đạo: “Thanh châu đầu ư trược thủy, trược thủy bất đắc bất thanh. Niệm Phật đầu ư loạn tâm, loạn tâm bất đắc bất Phật”. Tây thiên hữu bảo, danh viết Thanh Châu. Vị thử châu đầu nhập trược thủy trung, nhập thủy nhất thốn, tắc nhất thốn chi trược thủy tức tiện thanh khiết. Thử châu nhập thủy, tự thốn chí xích, nãi chí ư để, tắc trược thủy diệc tùy chi nhi trừng trạm. Đương tri thanh châu giả, dụ niệm Phật chi tịnh niệm dã. Trược thủy giả, dụ tạp loạn chi vọng tâm dã. Đương vọng tâm tạp loạn chi khoảnh, năng cử khởi nhất niệm. Như đối Từ Tôn, án định lục tự hồng danh. Nhất nhất xuất khẩu nhập nhĩ, tắc thử tạp loạn tự nhiên tùy niệm tịch tĩnh. Tự thị nhất niệm nhi chí thập niệm, nãi chí niệm niệm bất di. Tức giáo trung sở vị: “Tịnh niệm tương kế” giả dã! Niệm Phật chi nhân, tu yếu tín tâm khẩn thiết, chánh nhân lẫm nhiên, trùng niệm sanh tử luân chuyển chi khả bi, thâm yếm trần lao phân nhiễu vi khả thống. Cử khởi nhất thanh Phật danh. Trực hạ cánhdị kiến, như Thái A kiếm, hoành án đương hiên; như đại hỏa luân, tinh đằng diệm xí. Vạn vật anh chi tắc liệu, xúc chi tắc thương. Trực chí nhất tâm bất loạn, Năng - Sở lưỡng vong; đáo gia chi thuyết, bất dung tái cử. Tiệp kính chi từ, hà lao quải xỉ. Khả vị chứng tu hành chi thần thuật, siêu phương tiện chi chánh đồ. Phá tử sanh trập hộ chi lôi đình. Chúc mê vọng u cù chi nhật nguyệt. Kim tiêu Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự tương viên. Vong linh… thừa tư thượng thiện, quyết định vãng sanh. Thả đạo nhất niệm vị manh dĩ tiền, hoàn hữu giả cá tiêu tức dã vô. 
Thị tâm không tịch niệm hà y? 
Cố quốc vân quy thục vị quy? 
Hoa ngoại ngọc kê đề hiểu nhật, 
Viễn nghênh tân Phật phụng từ oai, 
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật
 (Đả phá hư không cười toét miệng, 
 Kho tàng lóng lánh mở toang ra, 
 Thấu hiểu chuyện xưa bao kiếp trước
 Hồng danh sáu chữ trọn thâu gồm. 
 Cổ nhân nói: “Thanh châu gieo vào nước đục, nước đục chẳng thể không trong; niệm Phật gieo vào tâm loạn, tâm loạn không thể không thành tâm Phật”. Tây Vựcvật báu tên là Thanh Châu. Loại châu này gieo vào nước đục, chìm xuống nước một tấc thì một tấc nước đục liền thành thanh khiết. Châu ấy gieo vào nước từ tấc tới thước, cho đến tận đáy thì nước đục cũng lặng trong theo. Nên biết thanh châu ví như tịnh niệm niệm Phật vậy; nước đục ví như vọng tâm tạp loạn. Ngay trong lúc vọng tâm tạp loạn, có thể khởi lên một niệm, như đối trước đức Từ Tôn, giữ vững sáu chữ hồng danh. Mỗi câu, mỗi chữ từ miệng phát ra lọt vào tai. Do đây tạp loạn tự nhiên theo niệm mà ngưng lặng. Từ một niệm như vậy cho đến mười niệm, cho đến niệm niệm chẳng đổi. Tức là như trong giáo pháp đã nói: “Tịnh niệm tiếp nối”. Người niệm Phật cần phảilòng tin khẩn thiết, chánh nhân rỡ ràng, nghĩ đi nghĩ lại sanh tử luân chuyển đáng buồn thương, chán ngán sâu xa trần lao rối bời đáng đau xót, khởi lên một tiếng danh hiệu Phật. Từ đây không còn dị kiến, như gươm Thái A[18] cầm ngang trước xe; như vòng lửa lớn cháy rực như sao sa, vạn vật chạm phải bèn cháy, đụng vào bèn bị tổn thương. Mãi cho đến khi nhất tâm bất loạn, Năng lẫn Sở cùng mất. Câu nói “về đến nhà” chẳng được nêu lên nữa. Từ ngữ “đường tắt” cần gì phải nhắc đến. Có thể nói là cách thần diệu để tu hành chứng quả, là đường chánh phương tiện siêu thắng. Sấm sét phá tan [giấc ngủ] sanh tử của loài sâu bọ. Như mặt trời, mặt trăng chiếu tỏ nẻo mê vọng. Phật sự Tam Thời Hệ Niệm đêm nay sắp viên mãn. Vong linh nhờ vào thiện sự bậc thượng này, nhất định vãng sanh. Lại nói: Trước khi một niệm vừa chớm, còn có tin tức nào hay không?
Tâm này trống lặng, niệm theo đâu?
Nước cũ bảo về ai chưa về? 
Bình minh gà ngọc ngoài hoa gáy, 
Xa đón tân Phật phụng từ oai) 
 
 
 Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật
 
 
 Đại chúng ra khỏi chỗ ngồi, đi nhiễu niệm Phật ngàn tiếng, đến trước bàn linh, dứt tiếng niệm Phật, niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
 
 
 Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
 Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
 Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát
 
 
 Niệm mỗi danh hiệu ba lần xong, niệm bài sau đây. 
 
 
7. Phát nguyện (Sám Nhất Tâm
 
 
Nhất tâm quy mạng Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. Nguyện dĩ tịnh quang chiếu ngã, từ thệ nhiếp ngã. Ngã kim chánh niệm, xưng Như Lai danh, vị Bồ Đề đạo, cầu sanh Tịnh Độ. Phật tích bổn thệ: Nhược hữu chúng sanh, dục sanh ngã quốc, chí tâm tín nhạo, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác. Dĩ thử niệm Phật nhân duyên, đắc nhập Như Lai đại thệ hải trung. Thừa Phật từ lực, chúng tội tiêu diệt, thiện căn tăng trưởng. Nhược lâm mạng chung, tự tri thời chí, thân vô bệnh khổ, tâm bất tham luyến, ý bất điên đảo, như nhập Thiền Định. Phật cập thánh chúng, thủ chấp kim đài, lai nghênh tiếp ngã. Ư nhất niệm khoảnh, sanh Cực Lạc quốc. Hoa khai kiến Phật, tức văn Phật thừa, đốn khai Phật huệ, quảng độ chúng sanh, mãn Bồ Đề nguyện. 
Niệm Phật lâm chung kiến bảo đài
 Bảo phan, bảo cái mãn không bài, 
 Di Đà, Thế Chí, Quán Âm đẳng, 
 Hiệp chưởng tương tùy quy khứ lai. 
(Nhất tâm quy mạng Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. Nguyện dùng quang minh thanh tịnh chiếu đến con, dùng thệ nguyện từ bi nhiếp độ con. Con nay chánh niệm, xưng danh Như Lai, vì đạo Bồ Đề, cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa đã thề: Nếu có chúng sanh muốn sanh cõi ta, chí tâm tin ưa, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sanh, chẳng lấy Chánh Giác. Do nhân duyên niệm Phật này được vào trong biển đại thệ của Như Lai, nương từ lực Phật, các tội tiêu diệt, thiện căn tăng trưởng. Nếu sắp mạng chung, tự biết lúc mất, thân không bệnh khổ, tâm không tham luyến, ý chẳng điên đảo, như nhập Thiền Định. Phật và thánh chúng tay cầm đài vàng, đến nghênh đón con, trong khoảng một niệm, sanh cõi Cực Lạc. Hoa nở thấy Phật, liền nghe Phật thừa, mau khai Phật huệ, rộng độ chúng sanh, mãn nguyện Bồ Đề
 Niệm Phật lâm chung thấy bảo đài
Lọng phan quý báu ngập trời bày, 
Chắp tay theo gót Di Đà Phật, 
Quán Âm, Thế Chí trở về Tây) 
 
 
8. Tán thán Tam Bảotán thán Tăng Bảo
 
 
Tăng Bảo bất tư nghị
Thân phi tam sự vân y,
Phù bôi quá hải sát-na thời, 
Phó cảm ứng quần cơ, 
Kham tác nhân thiên công đức chủ, 
Kiên trì giới hạnh vô vi
Ngã kim khể thủ nguyện dao tri, 
Chấn tích trượng đề huề. 
Ngã kim khể thủ nguyện dao tri, 
Chấn tích trượng đề huề. 
(Tăng Bảo chẳng nghĩ bàn, 
Thân mặc áo mây tam sự,
Chén nổi vượt biển trong khoảnh khắc, 
Cảm ứng mọi căn cơ
Đáng làm trời người công đức chủ
Giới hạnh giữ vững chẳng trái nghịch, 
Con nay đảnh lễ nguyện xa hay, 
Rung tích trượng đề huề
Con nay đảnh lễ nguyện xa hay, 
Rung tích trượng đề huề ) 
 
 
9. Khai thị
 
Xướng xong, trở về đàn, lên tòa xong, Sư vỗ xích, bạch: 
 
 
 Niệm Phật ký tùng tâm xuất, kết nghiệp khởi thuộc ngoại lai. Tu du bối niệm Phật chi tâm, sát-na tức kết nghiệp chi sở. Kim tắc chúng đẳng, y bằng giáo pháp, tác Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự, sở tập thắng nhân, chuyên vị vong linh… quyết sanh Tịnh Độ. Tự kim giới hương phức úc, huệ cự huỳnh hoàng, mê vân khai nhi tánh thiên độc lãng, vọng trần tận nhi tâm địa khuếch thông. Chư căn viên tịnh, quần nghiệp đốn không. Nhất cử niệm, nhất hoa khai, ấp lộ nghênh phong, hương phù ngọc chiểu. Nhất trì tình, nhất quả thục, hàm yên đối nhật, ảnh lạc kim viên. Kinh hành, tọa, ngọa tại kỳ trung, du hý, tiêu dao phi phận ngoại. Đắc Phật thọ dụng, triệt pháp nguyên để. Thường Tịch Quang xứ xứ hiện tiền. Đại nguyện vương trần trần khế hội. Cánh vị vong linh, chí tâm sám hối phát nguyện
(Niệm Phật đã từ tâm mà có, kết nghiệp há thuộc bên ngoài. Tâm nghịch với niệm Phật trong khoảnh khắc bèn kết nghiệp ngay trong một sát-na. Nay đại chúng nương nhờ giáo pháp, làm Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự, tích tập nhân thù thắng, chuyên vì vong linh quyết định sanh về Tịnh Độ. Từ nay giới hương ngào ngạt, đuốc huệ chói lòa, tan mây mê, bầu trời tánh đức riêng rạng ngời, sạch hết bụi vọng tưởng, cõi lòng thông suốt. Các căn thanh tịnh trọn vẹn, các nghiệp nhanh chóng rỗng rang. Một niệm khởi lên, một đóa hoa bèn nở, nhấp sương đón gió, hương vây ao ngọc. Một lòng trì danh, một quả chín muồi, ngậm khói đối trời, bóng rọi vườn vàng. Kinh hành, ngồi, nằm đều ở trong ấy, du hý, tiêu dao, chẳng vượt ra ngoài. Thọ dụng như Phật, thấu triệt cội nguồn pháp. Thường Tịch Quang hiện hữu nơi nơi, đại nguyện vương từng mảy trần khế hội. Lại vì vong linh, chí tâm sám hối phát nguyện
Bạch xong, đánh khánh, niệm: 
 
 
10. Sám hối, phát nguyện
 
 
 Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
 Giai do vô thỉ tham - sân - si, 
 Tùng thân ngữ ý chi sở sanh, 
Nhất thiết tội căn giai sám hối
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ, 
 Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn. 
 Tự tánh pháp môn thệ nguyện học, 
 Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành. 
 (Xưa kia trót tạo bao ác nghiệp
 Đều do vô thỉ tham - sân - si, 
 Từ thân miệng ý phát sanh ra, 
 Hết thảy tội căn đều sám hối
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ, 
 Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn. 
 Tự tánh pháp môn thệ nguyện học, 
 Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành). 
 
 
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
 
 
Niệm ba lần xong, Sư vỗ xích, bạch: 
 
 
11. Khai Thị
 
 
 Thượng lai tam thời hệ niệm A Di Đà Phật vạn đức hồng danh, khuyến đạo vong linh… sám trừ kết nghiệp, phát nguyện vãng sanh, hạnh nguyện ký thâm, công vô hư khí. Duy nguyện vong linh, văn tư pháp yếu tín thọ phụng hành. Tùng thị thác chất liên thai, vĩnh ly nghiệp hải. Trực chứng A Bệ Bạt Trí, viên mãn vô thượng Bồ Đề
(Từ trên tới đây ba thời hệ niệm vạn đức hồng danh Phật A Di Đà, khuyên dạy vong linh… sám trừ nghiệp chướng đã kết, phát nguyện vãng sanh. Hạnh nguyện đã sâu, công không luống uổng. Xin nguyện vong linh nghe pháp yếu này hãy tin nhận, phụng hành. Từ đây gá thân nơi thai sen, vĩnh viễn rời khỏi biển nghiệp, chứng thẳng vào Bất Thoái Chuyển, viên mãn Bồ Đề vô thượng).
 
 
Nam mô Đại Thừa Thường Trụ Tam Bảo 
 
 
Tuyên sớ
 
 
Nam mô Trang Nghiêm Vô Thượng Phật Bồ Đề
 
 
12. Di Đà Đại Tán 
 
 
Di Đà Phật đại nguyện vương, 
Từ bi hỷ xả nan lượng. 
Mi gian thường phóng bạch hào quang, 
Độ chúng sanh Cực Lạc bang 
Bát đức trì trung liên cửu phẩm 
Thất bảo diệu thọ thành hàng, 
Như Lai thánh hiệu nhược tuyên dương
 Tiếp dẫn vãng Tây Phương
Di Đà thánh hiệu nhược xưng dương, 
 Đồng nguyện vãng Tây Phương
(Di Đà Phật đại nguyện vương, 
Từ bi hỷ xả khó lường, 
Giữa mày thường phóng bạch hào quang, 
Độ chúng sanh về Cực Lạc
Ao bát đức sen khoe chín phẩm,
Cây quý bảy báu thành hàng, 
 Như Lai thánh hiệu vừa xưng tụng
 Tây phương tiếp dẫn vãng sanh ngay. 
 Di Đà thánh hiệu như xưng tụng
Đồng nguyện cùng về cõi Lạc Bang)
 
 
13. Hồi HướngTam Quy
 
 
Hệ Niệm công đức thù thắng hạnh 
 Vô biên thắng phước giai hồi hướng
 Phổ nguyện trầm nịch chư chúng sanh 
 Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát 
Thập phương tam thế nhất thiết Phật, nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
 (Công đức Hệ Niệm hạnh thù thắng,
Bao nhiêu phước quý đều hồi hướng,
Nguyện các chúng sanh đang chìm đắm,
Mau sanh cõi Phật A Di Đà
Mười phương ba đời hết thảy Phật, hết thảy Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
 
 
 Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. 
 (Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ đạo cả, phát tâm vô thượng
 
 
Tự quy y pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. 
 (Tự quy y pháp, xin nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển) 
 
 
Tự quy y tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại
 (Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, dắt dìu đại chúng, hết thảy vô ngại
 
 
Hòa nam thánh chúng 
(Kính lễ thánh chúng)
 
 
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Kiền chùy: Những dụng cụ để đánh gõ ra tiếng, thường dùng để chỉ chuông, mõ, khánh, trống, linh, bảng v.v… Cách đánh tang và chập chõa theo ký hiệu trên, luôn dập khánh và mõ trước khi xướng. | tượng trưng cho một tiếng tang, dấu O là rớt mõ (dấu o lớn đánh tiếng mạnh, dấu o nhỏ đánh nhẹ) và chập chõa, C là tiếng chuông (hoặc khánh). Dấu \ chỉ người giữ dẫn khánh và chuông sẽ dập dùi vào miệng chuông (hay khánh). Để đỡ rườm rà, chúng tôi lược đi không ghi ký hiệu pháp khí cho mỗi đoạn, chỉ ghi tượng trưng nơi một hai bài tán. 
[2] Bản in năm 1998 Tịnh Tông Học Hội ghi là “phân vân” (dằng dặc, rối ren, lao xao), còn theo bản ghi lời giảng của Hòa Thượng Tịnh Không cũng như bản in của Tịnh Tông Học Hội Úc Châu năm 2000 thì ghi là “nhân uân” (nghi ngút, khói bốc cuồn cuộn). Theo ngu ý, “nhân uân” hợp lý hơn. 
[3] Khắc: ở đây là chấn dùi khánh vào thành khánh cho kêu một tiếng đục, chứ không gõ cho phát ra tiếng. 
[4] Xích ở đây là “thủ xích”, một khối nhỏ hình chữ nhật, dài chừng một ngón tay, trên lưng thường khắc ba chữ Án Á Hồng, dùng gõ xuống bàn để làm hiệu lệnh, trước khi tuyên pháp ngữ
[5] Hương tượng: Con voi đực trong mùa động dục, nách tỏa mùi thơm gắt, sức mạnh gấp mười lần con voi lúc thường. Kinh Niết Bànthí dụ ba con thú vượt sông, hương tượng chân đạp tận đáy sông. Do vậy, kinh luận thường dùng điển tích “hương tượng vượt sông” để ví người chứng ngộ pháp triệt để
[6] Hai tử là Phần Đoạn Sanh TửBiến Dịch Sanh Tử.
[7] Ca Lăng: Tức chim Ca Lăng Tần Già, một loại chim tiếng hót thanh tao không loài chim nào sánh bằng, tương truyền khi còn ở trong chúng, loài chim này đã hót hay hơn mọi loài chim khác. 
[8] Hòa thượng Tịnh Không giảng chữ Bổn trong “chư Phật tịch diệt chi bổn” là tâm tánh. Nói cách khác, Bổn là Pháp ThânPháp Thân cũng chính là tâm. 
[9] Theo thông lệ, đến đoạn này, trừ những vị đánh pháp khí ngồi yên tại chỗ, và Chủ Đàn Sư ngồi trên pháp tòa, đánh khánh xướng trước, đại chúng ra khỏi tòa, nghe pháp sư xướng xong, hòa theo và lạy. 
[10] Chờ cho đại chúng lễ xong, trở về tòa, Sư mới vỗ xích và bạch. 
[11] Thanh Thái là tên gọi khác của Cực Lạc
[12] Hòa Thượng Tịnh Không giảng chữ Nguyện ở đây phải hiểu là Tín - Nguyện - Hạnh. 
[13] Ly châu: là viên ngọc dưới cổ con rồng đen, rất quý. Ở đây đem ly châu ví cho chân tánh
[14] Vầng quế (quế luân): Mặt trăng
[15] Tức ngài Vĩnh Gia Huyền Giác, tác giả bài Chứng Đạo Ca.
[16] Lang hàm: là cái hộp đựng kinh để bảo vệ cho kinh sách khỏi bị hư nát. Tụng lang hàm tức là mở kinh sách ra đọc tụng.
[17] Đường là Trung Hoa, triều đại nhà Đường Trung Hoa thịnh trị nhất nên người Trung Hoa đôi khi còn tự xưng là Đường nhân. 
[18] Thái A kiếm là một thanh gươm cổ nổi tiếng quý báu, bén nhọn. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31667)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10530)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11229)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12758)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10812)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16664)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10819)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22968)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12027)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11496)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10686)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12340)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11198)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10024)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10332)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11912)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10701)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12377)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9816)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11275)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13845)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9581)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12631)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9705)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10461)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10556)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10325)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9905)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11060)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12020)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10145)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10786)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9901)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8771)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9499)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14520)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8781)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12555)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10425)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9089)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10560)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8802)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10517)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9193)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8367)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12033)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10217)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10230)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19136)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9416)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8987)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9591)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9018)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14761)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10098)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8353)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8951)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8975)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8743)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9370)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14599)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9036)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8776)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9049)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10536)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8643)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9994)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24288)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10178)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11028)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9003)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9469)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8005)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9270)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10339)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9583)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21400)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12168)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19241)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26048)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7979)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14808)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10634)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11353)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9534)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12366)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10757)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13344)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10002)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9271)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9384)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15902)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant