Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương Iii Làm Sao Thể Ngộ Đạo Lý “Đương Hạ Tức Thị” (Đang Khi Đó Chính Là)

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4432)
Chương Iii Làm Sao Thể Ngộ Đạo Lý “Đương Hạ Tức Thị” (Đang Khi Đó Chính Là)

BƯỚC VÀO THIỀN CẢNH
Tác Giả-HIROSACHIYA - Dịch Giả-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998

Chương III

LÀM SAO THỂ NGỘ ĐẠO LÝ “ĐƯƠNG HẠ TỨC THỊ”

(ĐANG KHI ĐÓ CHÍNH LÀ)

VÌ SAO THIỀN SƯ CỰ TUYỆT 3 LẦN


Trước đã giới thiệu về “Bất Sanh Thiền” của Bàng Khuệ thiền sư, sau đây giới thiệu thêm mẫu chuyện vặt nhỏ có liên quan đến đời ngài. Mẩu chuyện lục từ sách “Chánh Nhãn quốc Sư Dật Sự Trạng”, Chánh Nhãn quốc sư tức Bàng Khuệ, sách nầy do đệ tử của ngài tên là Trạm Nhiên biên soạn để ghi lại những gì có liên quan đến sự hành hoạt và ngôn hạnh của Bàng Khuệ thiền sư
 
Mẩu chuyện xảy ra ở chùa Địa Tạng, Sơn Khoa
 
Một hôm, thiền sư dặn dò thị giả của ngài lên kinh thành mua một số giấy thượng hạng. Vị thị giả nầy xưa nay được khen là có “Tư tài của Tử cống”, như thế đủ thấy vị thị giả này là người tương đối thông minh lanh lợi. Ai cũng biết, Tử Cống là một trong 72 hiền nhân môn hạ của Khổng Tử, không những tài trí thông minh mà còn rất sở trường về tài biện luận. Ông thường qua lại hai nước Lỗ, Vệ và ông đã giành được rất nhiều thắng lợi to lớn trên phương diện ngoại giao. Ngoài ra, Tử Cống còn giỏi về mặt thương mãi, quản trị. Thiền sư đã sai người đệ tử “tái trí so bằng Tử Cống” đi mua giấy cũng vì lý do như đã được dẫn. 
 
Đương nhiên, thị giả không dám khinh thường, trăm chọn ngàn lựa cuối cùng vất vả mang về một số giấy tốt 
 
Không ngờ, sau khi thiền sư xem qua giấy rồi phê rằng: 
 
“Loại nầy không được!” Thiền sư cự tuyệt không chút vị nể 
 
Vì thế, thị giả chỉ còn cách lên kinh tìm mua loại giấy khác. 
 
“Thứ nầy cũng không được!” 
 
Thiền sư xem qua loại giấy vừa được mua về lần này nhưng vẫn lạnh lùng chê trách
 
Kết quả, thị giả phải đành cố gắng lặn lội lên kinh lần nữa. Từ Sơn Khoa đến kinh đô cách nhau khá xa, đương thời phương tiện giao thông khó khăn nên mấy lần trở tới trở lui rất là cực nhọc. Chỉ vì vấn đề mua giấy mà hạnh hạ đệ tử phải vất vả ngược xuôi, vả lại người đệ tử đã không biết là ý sư phụ muốn loại giấy gì...Xem đến đây cólẽ có nhiều người không dằn lòng được và đồng tình với hoàn cảnh của vị đệ tử nầy mà liên tưởng đến trường hợp một viên chức nhỏ trong một công ty vì thường mua tính chỉ tư nhân cho thượng cấp khó tính mà p hải bôn ba cực khổ nhiều lần. 
 
Nhưng, tình tiết phát triển của câu chuyện thiền lại thường khi có một kết quả khiến người ta không thể ngờ được, cho nên hãy khoan luận đoán bừa bãi mà cứ tiếp tục đọc tiếp! 
 
Lần thứ ba, sau khi vị thị giả đi mua giấy về, thiền sư vẫn lạnh lùng bảo: 
 
“Không được!” 
 
Người đệ tử suy nghĩ: “Quả thật sự lao khổ của mình không thể lường được.” 
 
Nhưng, sau khi suy nghĩ, người đệ tử đã giật mình vì đã phát giác lỗi lầm của mình nên liền sám hối sư phụ
 
“Chà! Bây giờ mới rõ!...thực ra, giấy mua lần đầu đã được rồi”. 
 
Thiền sư dạy thế.

KHÔNG NÊN CƯỠNG CẦU HOÀN MỸ


Câu chuyện đến đây kết thúc
 
Nhưng chúng ta giải thích thế nào về mẫu chuyện trên? Trong cốt chuyện tường thuật, sau khi thị giả tam bận trở về mới phát hiện lỗi lầm của mình, cuối cùng thì sự việc đã như thế nào và vị thị giả đã phải làm sao? Nếu ở vào địa vị chúng ta, e rằng chúng ta sẽ bị lên kinh lần nữa! Nếu suy nghĩ, quả thật vấn đề vô cùng nhức óc. 
 
Có thể chúng ta cứ thử mạnh dạn chú giải thêm về câu chuyện nầy. Như bài thứ nhất trong sách đã từng đề cập, công án thiền tôn đã không có bất cứ đáp án tiêu chuẩn nào mà ngược lại, độc giả có thể tuỳ theo tâm ý của mình để giải thích. Khi bắt đầu suy giải, không nên nghĩ rằng đáp án không thể đạt đến 100% thì không được, mà chỉ cần có 50% thôi là đã được rồi. Nếu có thể đạt đến 60% thì lại càng tốt. 
 
Có một số người vì cầu “Hoàn Mỹ” quá đáng nên bất cứ trên chức vị công tác, thậm chí ngay cả ở trên phương diện thỏa mãn chuyên nghiệp cũng yêu cầu đạt đến “Thập toàn thập mỹ”. Loại yêu cầu theo “Chủ nghĩa hoàn mỹ” nầy, tự ngã hãy còn rất nặng, nhưng nếu đối với người khác, nơi nào cũng yêu cầu hoàn mỹ thì không khỏi quá đáng. Thường thường sự việc sẽ không những không như ý nguyện của mình mà ngược lại còn khiến trời hờn người giận. 
 
Thí dụ, có một số người đối với một số phương diện nào đó đã đòi hỏi một cách quá đáng đối với vợ con, rằng muốn có một người vợ toàn bích, con cái ưu tú đó là sự mong mỏi của tất cả mọi người, nhưng trên thế gian đã có được bao nhiêu người vợ có thể vừa đẹp vừa hiền thục, vừa thông minh ôn nhu, trung thành đối với chồng và lại siêng năng quét nhà giặt áo, thậm chí khi chồng về khuya còn ra tận cửa cúc cung cúi mình hầu đón? Điều kiện trên nếu đạt được một nửa thì đã kể là một người vợ tương đối khá rồi. Nếu như là tôi thì chỉ cần 30 điểm cũng đã vừa ý
 
Qua đó, đối với sự yêu cầu về con cái cũng vậy: Không những yêu cầu quốc ngữ, số học, lịch sử, địa lý v.v... phải là điểm A, mà các môn như thể dục, âm nhạc, mỹ thuật cũng không thể đứng sau người. Tôi nghĩ, nếu có những người trẻ tuổi như thế thì họ chính là những bậc “Siêu nhân”. Nhưng trên thế gian này vẫn có những hạng cha mẹ như vậy, họ luôn mong muốn con cái của mình là những “siêu nhân”. 
 
Còn nữa, những cấp trên trong các công ty thường hay đối đãi với bộ thuộc, có cùng tâm thái giống thế... 
 
Nhưng, nếu chính bản thân mình cũng không thể nào đạt đến những tiêu chuẩn như vậy thì làm sao lại yêu cầu người khác? Tuy quyết tâm cố gắng tiến lên là việc rất tốt, nhưng hà tất phải dạt đến 100 điểm mới được? Một khi đạt đến 60 điểm thì có thể ngưng lại thở phào nhẹ nhõm, để bước qua một cuộc sống dư dả như thế có phải tốt hơn? 
 
Những lời ngoài đề, mục đích nhờ đó để chỉ chân nghĩa của thiền. Vì thiền vốn không thoát ly cuộc sống thường nhật. Con người vốn không phải vì có thiền mà tồn tại, nhưng thiền chính là pháp môn vì ứng với phương thức sống của con người phát sanh, vì thế, bất cứ lúc nào và nơi đâu, chỉ cần nói đến thiền thì biết rằng đó là những gì tương ứng với cuộc sống hằng ngày của nhân sinh
 
Bài thứ 3 trong sách này, tôi chuẩn bị đối với loại “thiền” tương ứng với cuộc sống, nhằm thăm dò thêm bước nữa, đây cũng là dụng ý lấy câu chuyện Bàng Khuệ thiền sư mở đầu cho bài nầy.

KHÔNG PHẢI LÀ “LẦM LỖI” MÀ LÀ VÌ “MÊ MUỘI”
NÊN BỊ QUỞ TRÁCH


Chúng ta hãy trở lại đề mục nói về Bàng Khuệ thiền sưthị giả, để tìm hiểu thử xem câu chuyện này muốn dạy chúng ta điều gì? 
 
Trong sách “Chánh Nhãn quốc sư dật sự trạng”, do Trạm Nhiên pháp sư soạn, cuối câu chuyệncó thêm đoạn chú giải như sau: 
 
“...Những học giả vì lấy sự tư lự đề phân biệt, cho nên đã có sự cách biệt, trở ngại ngàn vạn dặm. Dụng ý của thiền sư là như thế. Do vì không phân biệt tư lự nên thoát thể hiện tiền. Xưa có Đại Tổ quốc sư khen ngợi một tiểu tăng lấy rổ hứng mưa, ngàn thánh cùng một dấu tích. Diệu môn của con người điều ở đây, nên phải thường xuyên tham khảo điều này”. 
 
Xem qua đoạn chú giải nầy, vẫn khiến cho người cảm thấy mơ hồ. Nhưng, nếu xem kỹ, suy gẫm cách dụng ngữ, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra rằng ý của ngài là nhắm vào sự lo âu, phân biệt của học giả để cảnh tỉnh. Từ đấy suy đoán, cái gọi là “Học giả”, phải chăng nói hạng người chỉ biết mổ xẻ trên những sự kiện nhỏ nhặt 
 
Ngoài ra, trong bài văn có đề cập đén “Đại tổ quốc sư khen ngợi tiểu tăng lấy rổ hứng mưa” cũng là một trọng điểm khác. Đại tổ quốc sư tức là Quan Sơn Huệ Huyền thiền sư đã đề cập trong bài thứ nhất của quyển sách nầy. Trạm Nhiên pháp sư cho là câu chuyên Quan Sơn thiền sư khen ngợi vị tiểu tăng dùng rổ hứng mưa, dường như đối với câu chuyện Bàng Khuệ thiền sưthị giả mặc dù có những bài học hay đẹp khác nhau nhưng đã có cùng công dụng như nhau. Như thế, câu chuyện nầy có thể giải thích
 
Người thị giả có tài quản lý, nếu căn cứ trên phương diện lợi lạc mà đo lường cân nhắc, nhất là sau khi ở tiệm đã lựa chọn kỹ rồi mới mua giấy mang về. Nhưng trong lòng người đệ tử vẫn không tránh khỏi ái náy rằng: mình đã mua loại A, nhưng không chừng loại C còn tốt hơn... 
 
Bàng Khuê thiền sư vì để phá trừ ý tưởng mê muội trong tâm đệ tử, cho nên cố ý làm mặt lạnh lùng: “Không được!” Nhưng thực ra, đối với một vị thiền sư khai ngộ thì không boa giờ phân biệt tốt xấu về những loại giấy. Có cho ngoài loại giấy rơm cỏ hạng xấu đi nữa ngài cũng không chê. Giống như một đứa con nít nhân ngày sinh nhật của ba nó, dùng tiền lẻ bỏ ống mua một bình rượu hạng thường để làm lễ vật tặng cho ngươi cha nghiện rượu, ắt hẳn người cha cũng xem đó là vật quý báu mà uống ngon lành! 
 
Nhưng, nếu người con bủn xỉn, cố ý mua bình rượu hạng bét để tặng cho xong việc, thì không những tâm tình vui vẻ của người cha suy giảm mà còn có thể là phiền giận là khác. 
 
Đối với Bàng Khuệ thiền sư thì giấy loại nào cũng xong. Điểm nầy chúng ta có thể thấy rọ là khi thị giả sám hối thiền sư sau khi đã đi mua giấy về lần thứ ba và thiền sư đã nói “Kỳ thực mua giấy về lần đầu là được rồi”. Then chốt của vấn đề chính là tâm thái của người thị giả
 
Có lẽ lúc đầu, khi lựa giấy tâm người thị giả đã nghĩ: “Mua loại giấy nầy về, không chừng sẽ bị sư phụ khen thưởng...” Có lẽ thiền sư đã tri nhận được mê muội của người đệ tử và vì muốn khai đạo cho học trò nên mấy phen liền ngài đã bắt người đệ tử phải lên kinh thành để tìm mua giấy tốt.

CHỚ NÊN RONG RUỖI TÌM CẦU


Nói đến đây, tất nhiên có đôc giả sẽ đưa ra vấn đề: Tại sao thiền sư có thể thấy được tư tưởng mê lầm trong tâm đệ tử? 
 
Thực ra thì đạo lý đã rất đơn giản. Tư tưởng mê lầm trong tâm người, kẻ bàng quan chỉ nhìn cử chỉ thái độ người ấy cũng có thể thấy được, huống hồ xưa nay thiền sư là những cao thủ tri nhân chí minh (biết người rất rõ), như thế nếu ngay cả tâm sự của đồ đệ mình mà không thấy được thì làm sao thành bậc thiền sư chỉ đạo tu hành? 
 
Nói cách khác, giá như khi thiền sư bảo “Cái nầy không được!” lúc ấy có lẽ thị giả đã không khách sáo thưa rằng: “Nếu vậy xin thầy sai người khác đi mua, chứ theo con thì con cho rằng đã mua giấy tốt mang về”. Hoặc giả nếu, thị giả nầy cũng là thiền sư, không chừng còn cuốn giấy lại, sau đó quăng tới sư phụ! Dường như tất cả thiền sư trong ấn tượng của chúng ta đều là như thế... 
 
Có lẽ có độc giả sẽ cảm thấy thái độ như thế là quá ngang tàng. Nhưng so với người thị giả trước, vì bị sư hụ cự tuyệt mà sợ sệt lên kinh mua giấy nhiều lần thì có vẻ nhu nhược, có tinh thần không hướng thượng
 
Nhưng hãy khoan vội vàng chỉ trích người khác, bởi vì trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta phải chăng đã đầy dẫy những tình trạng tương tợ? 
 
“Quyển sách nầy viết hơi kém, viết lại quyển khác đi!” 
 
Được rồi! được rồi, tôi theo lời ông”. Cuối cùng, giống như con chó vô chủ không hơi không sức. Bộ tịch lúc bấy giờ so với thị giả, phải chăng chỉ xê xích nhau 50 và 100 bước? Đương nhiên, nếu chúng ta hạn cuộc trong vòng 100 bước thì sẽ thấy sự vô dụng một cách rõ hơn. 
 
Nhưng, tôi không có ý khích lệ mọi người chống lại cấp trên và hàng trưởng bối. Vì để tránh sự hiểu lầm của độc giả, tôi phải đặc biệt thuyết minh ở đây, ý tôi là mong mọi người không nên cưỡng cầu sự hoàn mỹ quá đáng, khi cần thiết có thể dút khoát nói: “Tôi chỉ có thể làm được những cái nầy thôi!” 
 
Nhưng, câu nói nầy không là đại biểu cho câu trả lờitiêu chuẩn 100 điểm, nguyên nhân ấy trước đã trình bày. Lời nói của tôi là: đạo lý “Biết là biết, không biết là không biết”. Xem rất đơn giản, nhưng chưa chắc mọi người đều có thể làm được.

DO DỰ, BẤT QUYẾT THẢY ĐỀU VÔ DỤNG


Mãi, cảm thấy phương thức viết lách của tôi cũng biến thành mươi phần thiền vị 
 
Tuy nhiên dùng loại bút pháp nầy để giảng thuật thiền tôn công án thì không thể bảo là không được, nhưng trên lý luận thì lại thấy nát vụn vì đó chỉ là một số lời nói khiến người không hiểu và e rằng sẽ làm độc giả bị phản cảm. 
 
Tóm lại, theo tôi – không nên dành quá nhiều vọng niệm chấp trước 
 
Xin cứ thêm một thí dụ nữa để dẫn chứng! 
 
Trên xe buýt công cộng, bạn thấy một lão bà tay chân run rẩy bước lên xe và đến đứng cạnh chỗ bạn ngồi, tức khắc bạn sẽ đứng lên và nói: “Xin mời ngồi!” Nhiều nhất cũng chỉ là việc nhường chỗ ngồi. Nhưng đã lỡ lịch sự bị mất chỗ ngồi, dù sao bạn cũng cảm thấy trong lòng có điều chi bất ổn vu vơ
 
“Nhường đúng hay đừng nhường đúng?” 
 
Vào thời khắc đó trong lòng cảm thấy phân vân bực bội vì thấy người trẻ ngồi cạnh, nên bạn thầm nghĩ: “Anh chàng nầy nhỏ tuổi hơn tôi, hắn nên nhượng ghế mới phải”. Và, nhìn sang hàng ghế đối diện là một đám nữ sinh đang ngồi trò chuyện lăng xăng thì trong lòng hậm hực: “Bà lão nầy đúng ra nên đến chỗ mấy nữ sinh cùng phái kia, đương nhiên những nữ sinh đó nhượng chỗ mới phải..” 
 
“Thiệt tình, đúng cái giờ cao điểm chật chội trên xe công cộng, bà lão nầy lại chen vào náo nhiệt. Nếu muốn có chỗ ngồi, phải chọn lúc khác để đi xe buýt mới phải...” lúc nầy vọng niệm tung bay đầy não. 
 
Muốn nhượng chỗ thì nhượng, không muốn nhường chỗ thì bất tất phải cảm thấy khó chịu, nhưng thông thường con người lại suy nghĩ quá nhiều, những nội dung suy nghĩ không phải vì chính mình, cũng không phải vì người khác, mà chỉ là một số ý tưởng vu vơ tạp nhạp, thiền kỵ nhất là loại vọng tưởng nầy. 
 
-- Chớ vọng tưởng -- 
 
Đó là câu nói của Vô Nghiệp hòa thượng, đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất thiền sư 
 
Thật ra, phàm phu chúng ta có quá nhiều vọng tưởng. Nghĩ đông nghĩ tây, kết quả mê mất bản tâm, không tưởng, mộng tưởng, cuối cùng cũng không ra gì. Chi bằng thà sớm dứt khoát: “Tôi chỉ làm được có thế thôi”. 
 
Như vậy thì không đến nổi sa vào tư tưởng mê muội. Nếu không thì cho dù khứ hồi kinh thành mấy mươi lần đi nữa, Bàng Khuệ thiền sư vẫn cứ lập tới lập lui: “Cái nầy không được!”. Cũng vậy, nếu không muốn nhượng, thì cứ ngồi yên!.

TRÂN TIẾC “HIỆN TẠI, NGAY BÂY GIỜ”


Bài thứ nhứt của quyển sách nầy đã từng bàn rằng thiền là “Không nên bó buộc”, nhưng nay lại nói “Không nên vọng tưởng”. Kỳ thực hai điểm này đường đi tuy khác nhưng chỗ về chỉ một. Vậy thì tốt nhất chúng ta nên mang hai điểm nầy hợp lại thành một, tức là đạt đến cực trí (hết mức) của thiền. 
 
Ngoài điều nầy ra, còn một điểm nữa cần nói đến là, phải chăng chúng ta đã thể ngộ điểm khả quý của “Đương hạ, hiện tại”. 
 
Kiên Trị A Khách Mạc Phúc tiên sinh là một nhà vật lý học kiêm bình luận gia khoa học của Hoa Kỳ, trong tác phẩn “1,2,4...lớn đến vô hạn lớn” của ông đã ghi lại một mẫu chuyện cười thế này. 
 
Có một nhóm quý tộc Hung Gia Lợi cùng nhau trèo núi. Khi trèo đến nữa chừng, họ bị lạc đường. Đang khi tiến thoái lưỡng nan, đoàn người liền mang địa đồ ra và bắt đầu thảo luận. Đương nhiên, trước tiên họ cần phải xác định vị trí hiện tại họ đang ở đâu 
 
Không bao lâu, một người trong đoàn đột nhiên la lớn: “Tôi biết hiện chúng ta ở đâu!” 
 “Ở đâu?” 
 “Các vị có thể xem ngọn núi cao kia! Hiện tại chúng ta lại ở đỉnh núi cao nầy”. 
 
Đây chỉ là một câu chuyện khôi hài, nó không phải là một bài học triết lý cao siêu gì cả, nó chỉ gợi sáng trong một chớp nhoáng nhưng thường vẫn có người đặt ra rất nhiều vấn đề gở để phải đau đầu nhức óc. 
 
“Điều đó có ý nghĩa gì? Hiện tại họ đang ở trên đỉnh của một ngọn núi khác!” 
 
Mỗi lần kể xong chuyện tiếu lâm nầy hoặc tới những vấn đề thuộc loại như thế, khiến tôi không biết phải trả lời thế nào mới phải. Bởi vì bất cứ ai ở ngọn núi nầy hay ngọn núi kia, hoặc là ngọn núi khác cũng vậy, chỉ cần bảo ngọn núi mình đang ở: Thế không phải “ngọn núi nầy” sao? Vì thế sau khi các vị nghe hết câu chuyện nầy, ngoại trừ cái cười, không biết có phát hiện được chính mình cũng giống như vị quý tộc Hung Gia Lợi vừa kể vì đã không thể khẳng định đương hạ (lập tức) là như thế nào. 
 
Trong cuộc sống của chúng ta, những trường hợp xảy ra tương tự như thí dụ trên nhiều đến nỗi không sao kể hết. 
 
Ví như một viên chức của đài khí tượng, trong một cơn mưa lớn đã cầm bản đồ khí tượng và la: “Trần mưa nầy đã không chính xác, căn cứ trên bản đồ của tôi thì không có mưa!” 
 
Ví như vào khoảng thượng tuần tháng 10, khí lạnh bắt đầu ập đến nhưng vì lẽ vẫn còn mùa thu nên đã có bao nhiêu người cho rằng thà cứ ngồi co chứ không chịu mang lò sưởi ra để dùng. Ví như đứa trẻ nọ đã dứt hẳn bệnh cảm, tinh thần đã phục hồi, nhưng vì mẹ em đã mua một lượng thuốc dùng trong năm ngày, do vậy, em bé bị bắt buộc phải nằm trong chăn để uống cho hết số thuốc đã mua. 
 
Những trường hợp như thé nếu suy gẫm kỹ phải chăng chúng ta cũng đã từng có những lần về vị trí của mình “Trên đỉnh của ngọn núi ấy” một cách tương tự? 
 
Đây là việc tầm thường trước mắt, hiện tại, đang ngay khi nó xảy ra mà chúng ta còn không thể nhận được nó, như thế thì đủ biết không phải chỉ riêng có đoàn quý tộc Hung Gia Lợi mới là những kẻ đáng cười!

HIỆN TẠI KHÔNG THỂ NHẪN NẠI
VỊ LAI CHẮC CHẮN THỌ BÁO


Sau cùng xin kể thêm một mẫu chuyện nữa để chia xẻ cùng quý vị. 
 
Trước kia, trong thành Xá Vệ, thủ đô nước Kiều Tát La (Kosa Là) Ấn Độ, có một người trẻ tuổi tên là Ương Quật Ma La là con ruột của một đại thần, không những thông minh lanh lợi mà còn là người đẹp trai tuấn tú. Đối với người Ấn, “Đẹp trai” còn có hàm ý là “tạo nghiệp”, “phạm tội”. Quả nhiên chàng thanh niên nầy “tội nghiệp” đầy mình. Lúc bấy giờ anh theo một vị Bà La Môn để tu, nhưng vợ của vị này cứ mãi tìm cách để khêu gợi anh. 
 
Ương Quật Ma La là một người tuổi trẻtinh thần cầu tiến nên đối với sự khêu gợi của sư mẫu anh đã đáp lại bằng một thái độ lãnh đạm. Dụ dỗ đủ cách nhưng vẫn không thành, do vậy, từ sự hổ thẹn bà đã trở thành giận dữ nên bà cáo buộc với chồng bà rằng Ương Quật Ma La đã tìm cách xâm phạm đến bà. 
 
Để trừng phạt Ương Quật Ma La, Bà La Môn thượng sư đã ra lệnh cho hắn đến Xá Vệ thành giết 100 nam nữ và chặt hết ngón tay Út mang về để làm dây chuyền đeo cổ. Ương Quật Ma La không dám trái lệnh. Cuối cùng từ một người trẻ tuổi có tâm địa lương thiện anh đã biến thành một ma vương giết người không gớm tay. 
 
Lúc Ương Quật Ma La giết xong người thứ 99 và chuẩn bị giết người cuối cùng thì gặp đúc Thích Tôn. Anh ta cũng định giết đức Thích Tôn, nhưng sau cùng vì nghe sự giáo huấn của đức Thích Tôn mà buôn đao và cạo đầu làm đệ tử ngài. 
 
Vấn đề là ở chỗ. 
 
Sau khi Ương Quật Ma La đã thành đệ tử của Phật, một hôm đang ôm bình bát đến Xá Vệ để khất thực, vì mối cừu hận của những người trong thành đối với ông vẫn còn do vậy mọi người khi trông thấy ông đã ra tay ném đá công kích, dĩ nhiên đã không một ai đem vật thực để cúng dường. Ngay qua ngày, Ương Quật Ma La đành ôm bát không trở vềtoàn thân lại mang đầy thương tích 
 
Đức Thích Tôn chỉ im lặng thương hại nhìn ông. Mãi đến một hôm, đức Thích Tôn đã bảo với ông rằng: 
 
“Này Uơng Quật Ma La! Hãy nhẫn nại thêm nữa! Đây là nghiệp báo mà lẽ ra kiếp sau con phải gánh chiu nhưng nó đã ứng nghiệm trong kiếp này!” 
 
Đây là một lời dạy của một bậc đại giác! Khiến tôi phải thương hại cho Ương Quật. Ương Quật Ma La không nhẫn nại thì không còn cách nào khác. Nếu không nhẫn nại được cái khổ hiện tại mà chỉ muốn tránh thì cho dù có trốn được một lúc nhưng tương lai không bao lâu chắc chắn vẫn chịu sự báo ứng. Nếu muốn tương lai khỏi bị quả báo thì hiện tại nhất định phải hoàn tâm nhẫn nại. 
 
Nhưng, thông thường người ta cứ muốn trốn tránh những hiện thực vì không chịu đựng được những khổ nạn trước mắt. Đa phần chỉ một mực ảo tưởng về một vị lai không thực tế, hoặc cứ đắm chìm trong quá khứ một cách vô vọng. Đây là hành vi vô minh nhưng chúng ta lại thường không tự biết. 
 
Chỉ có sống với “Đang là, hiện tại”, đó mới là cuộc sống chân chính của chúng ta. Tuy ôm ấp lý tưởng tương lai là một điều không thể không có, nhưng chúng ta phải nhận thức rõ một điểm: Con người không thể sống trong cuộc sống của người khác. Căn cứ vào nhận thức nầy, chúng ta càng phải tích cực thể nhập và sống trọn vẹn ngay trong “Lập tức, hiện tai bây giờ và ở đây”. 
 
Đó chính là sự sinh hoạt trí tuệ của thiền.

HẬU KÝ
VỊ LAI CHẮC CHẮN THỌ BÁO


Thiền là gì? Nếu có người hỏi tôi như thế, tôi sẽ trả lời rằng thiền là: 
 
-- Cách mạng tư tưởng -- 
 
Hoặc giả cũng có thể nói là “Cách mạng ý thức”. Có thể sửa đổi cách quán sát chủ quan của sự vật hoặc tâm thức, ý thức hình thái của chúng ta thì đó chính là thiền. 
 
Ví dụ, thiền sư dẫn thị giả tản bộ ở sân đình. Vào trời mùa thu, lá khô rơi rụng khắp nơi. Thiền sư nhặt từng lá một bỏ vào ống tay áo. Thị giả thấy vậy liền bảo: 
 
“Bạch thầy, xin thầy chớ nên nhặt nữa, đợi một lát nữa sẽ có người đến để quét dọn...” 
 
“Đồ ngốc! cứ mãi nói “đợi một lát, đợi một lát” như thế sân đình còn sạch sẽ được sao? Chỉ có hiện tại nhặt lá tức khắc, sân đình mới xác thực được sạch sẽ”. Thiền sư quở trách thị giả của ông. 
 
Câu chuyện nầy là một ví von tốt nhất về “Cách mạng ý thức”. Đối với người thông thường thì khi gió thổi lá rụng đầy sân, tất nhiên ôm một tâm thái “Cho dù hiện tại nhặt lên năm, bảy lá rơi cũng chẳng ích gì, đợi một lá quét dọn luôn thể”. Nhưng nghĩ chỉ là nghĩ,thực tế vẫn trì trệ chậm chạp và không chịu hành động. Những sự lệ như thế đích thật xảy ra thường xuyên trong sinh hoạt thường nhật của chúng ta
 
Thiền muốn chỉ dạy chúng ta rằng là: 
 
-- Lập tức, hiện tại -- 
 
Đạo lý nầy đã được thuyết minhnhấn mạnh một cách liên tục trong sách nầy. Thi hành ngay lập tức, ngay hiện tại, khi lá rụng nhặt lên ngay, cho dù 2,3 lá, sân đình đích thật sẽ lần lần biến thành sạch sẽ. Thiền chính là muốn kêu gọi loại hành động lực thực tế nầy. 
 
Nhưng, thông thường loại sách thiền xuất bản trên thị trường dù có nói mấy đi nữa thì chẳng qua đến đây là cùng. Kể cả một số sách thiền do những thiền sư viết ra cũng chỉ nhằm “thuyết giáo” mà thôi. Cá nhân tôi thì cho rằng nội dung sách thiền như thế vẫn không đầy đủ. 
 
Không sai, thiền đích xác là “cách mạng tư tưởng”, là giống như hành động lập tức nhặt lên lá rụng để triệt để sửa đổi tâm thái “đợi một lát mới làm” thường ngày đã bị tiêm nhiễm của chúng ta. Nhưng nếu sự chỉ dạy của thiền chỉ là một môn “Đạo đức giáo dục” như quý độc giả đã thấy qua những sách thiền do phường gian xuất bản giống hệt như giáo khoa thư “Công dân và đạo đức” của bộ giáo dục ban hành, tôi nghĩ, không riêng chỉ một mình tôi? Nói thực, những loại sách như thế đã khiến cho mọi người không dám phụng thừa
 
Tôi cảm thấy tinh thần chân chính của thiền là ở chỗ: 
 
-- Không chấp trước phân biệt đối với tất cả sự vật -- 
 
Cho dù là rác rến, xác lá rụng. 
 
Thấy lá rụng tức khắc nhặt lên cũng vậy, để mặc nó rơi cũng vậy, tất cả đều không có gì trở ngại. 
 
Đã từng có lần, tôi đứng xem mặt trời lặn ở bờ sông Hô Cố Lý của Gia Nhĩ Cát Đáp Ấn Độ. Dù đang lúc mắt nhìn cảnh đẹp, nhưng không cách nào không để ý đến vỏ trái cây, giấy vụng đang trôi bập bềnh theo hai bên bờ sông. Tôi đã nghĩ thầm: “Tại sao chỗ đẹp đẽ thế nầy mà thải rác rến?” Thật tình đối với sự thiếu vệ sinh của người Ấn Độ đã khiến lòng tôi cảm thấy bực tức. Kết quả là không còn lòng dạ nào có thể đứng ngắm mặt trời lặn một cách an lạc. Lúc bấy giờ có một ông lão đồng hành đứng cạnh bờ sông khen rằng: 
 
“Ồ! Cảnh đẹp vô cùng!” 
 
Lúc ấy tôi nghĩ: “Chẳng lẽ ông ta cố ý mai mỉa mình?” sau nầy khi xe qua những bức ảnh, tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của ông lão. 
 
Vì lẽ lòng tôi cứ chấp trước vào số rác rến trên sông. 
 
Thiền cũng dạy chúng ta loại “chấp trước” nhặt lá nầy. 
 
Thanh trừ rác rưởi là việc nên làm, nhưng không chấp trước rác rến là điều trọng yếu hơn. Ý chính mà quyển sách nầy muốn biểu đạt đó là “Thiền” là như thế đó. NHẮN CÙNG NGƯỜI VÔ DỤNG 
XIN HÃY ĐỌC NHIỀU LẦN 
VÀ ĐỌC THẬT NHIỀU LẦN
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31571)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10504)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11207)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12714)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10793)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16606)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10792)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22929)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11995)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11471)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10665)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12311)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10000)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10314)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11896)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10683)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12345)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9789)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11243)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13822)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9571)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12607)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9681)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10439)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10534)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10294)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9883)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11036)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11991)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10131)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9530)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9881)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8757)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9486)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14501)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8762)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12535)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10402)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9057)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10542)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9320)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8778)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10493)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9171)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8346)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12006)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9687)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10206)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10218)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19102)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9379)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8962)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9570)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9008)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14728)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10071)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8338)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8932)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8956)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8728)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9346)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14564)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9022)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8747)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9024)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10509)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8623)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24253)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10152)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11004)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8987)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9453)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7994)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9229)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15323)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10320)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9559)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17425)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12144)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10223)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19209)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25992)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7955)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14733)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10617)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11339)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9523)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18624)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12338)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11860)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10723)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13322)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9969)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9257)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15849)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant